Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều nghị quyết nhằm không ngừng
xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển nông nghiệp. Trong thực tế những chính sách
này đang khơi dậy và phát huy cao độ các nguồn lực để phát triển kinh tế nông nghiệp của
đất nước. Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước, những năm qua chính sách kinh tế
trong phát triển nông nghiệp của tỉnh Thanh Hóa đã đưa đến nhiều thành quả quan trọng.
Về cơ bản đã giải quyết được nhu cầu lương thực, thực phẩm của người dân trong tỉnh,
đáp ứng một phần quan trọng nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến và đang phát
triển một nền nông nghiệp hàng hóa tập trung.
So với trước đây, Thanh Hóa đã có nhiều tiến bộ trong phát triển kinh tế, tuy
nhiên, nông nghiệp Thanh Hóa đang gặp phải những khó khăn trở ngại. Tỷ trọng cơ cấu
nông nghiệp trong nền kinh tế còn cao, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh của
các sản phẩm nông nghiệp còn yếu. Sự phát triển kinh tế nông nghiệp chưa tương xứng với
tiềm năng, chưa đáp ứng những yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) nông nghiệp, nông thôn. Theo chúng tôi có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng
này, song trước hết phải kể đến hệ thống chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp của
Thanh Hóa chưa đồng bộ, thiếu phù hợp, chưa thực sự trở thành động lực cho sự phát triển
kinh tế của địa phương.
Để tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 5 (khóa IX) về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ
2001-2010, nhằm đưa kinh tế nông nghiệp Thanh Hóa bước sang một giai đoạn phát triển
mới, cần phải thực hiện đồng bộ một hệ thống các giải pháp, trong đó việc hoàn thiện các
chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp.
Từ những vấn đề như đã phân tích trên, chúng tôi cho rằng để tài: "Hoàn thiện
chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay"
là có tính cấp thiết cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
109 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2013 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp tại tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển
nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong
giai đoạn hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều nghị quyết nhằm không ngừng
xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển nông nghiệp. Trong thực tế những chính sách
này đang khơi dậy và phát huy cao độ các nguồn lực để phát triển kinh tế nông nghiệp của
đất nước. Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước, những năm qua chính sách kinh tế
trong phát triển nông nghiệp của tỉnh Thanh Hóa đã đưa đến nhiều thành quả quan trọng.
Về cơ bản đã giải quyết được nhu cầu lương thực, thực phẩm của người dân trong tỉnh,
đáp ứng một phần quan trọng nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến và đang phát
triển một nền nông nghiệp hàng hóa tập trung...
So với trước đây, Thanh Hóa đã có nhiều tiến bộ trong phát triển kinh tế, tuy
nhiên, nông nghiệp Thanh Hóa đang gặp phải những khó khăn trở ngại. Tỷ trọng cơ cấu
nông nghiệp trong nền kinh tế còn cao, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh của
các sản phẩm nông nghiệp còn yếu. Sự phát triển kinh tế nông nghiệp chưa tương xứng với
tiềm năng, chưa đáp ứng những yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) nông nghiệp, nông thôn. Theo chúng tôi có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng
này, song trước hết phải kể đến hệ thống chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp của
Thanh Hóa chưa đồng bộ, thiếu phù hợp, chưa thực sự trở thành động lực cho sự phát triển
kinh tế của địa phương.
Để tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 5 (khóa IX) về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ
2001-2010, nhằm đưa kinh tế nông nghiệp Thanh Hóa bước sang một giai đoạn phát triển
mới, cần phải thực hiện đồng bộ một hệ thống các giải pháp, trong đó việc hoàn thiện các
chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp.
Từ những vấn đề như đã phân tích trên, chúng tôi cho rằng để tài: "Hoàn thiện
chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay"
là có tính cấp thiết cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều tác giả trong nước có công trình nghiên cứu hoặc viết bài về các chính
sách kinh tế thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam. Chỉ tính riêng trong
những năm đầu của thế kỷ XXI có khá nhiều công trình nghiên cứu tiêu biểu được công bố
như: "Ảnh hưởng của chính sách nông nghiệp nông thôn Việt Nam trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa" của PGS.TS Ngô Đức Cát, Trường Đại học Kinh tế quốc dân;
"Về một số chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta trong thời kỳ mới" của
PGS.TS Đặng Văn Thanh, Bộ Tài chính; "Hoàn thiện các chính sách đầu tư cho phát triển
nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của ThS. Vũ Thị Thảo,
Trường Đại học Kinh tế quốc dân; Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Tiến Dĩnh,
năm 2003: "Hoàn thiện các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp, nông thôn ngoại
thành Hà Nội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa"...
Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung vào phân tích vai trò của hệ thống
chính sách trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH ở hai
khía cạnh lý luận và thực tiễn, trên phạm vi quốc gia và địa phương. Đồng thời, đưa ra các
kiến nghị, giải pháp nhằm không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển kinh tế
nông nghiệp ở nước ta và ở một số địa phương cụ thể. Tuy nhiên, các công trình nghiên
cứu này chưa có điều kiện đi sâu tính đặc thù, điều kiện xuất phát thấp, tính đa dạng và
phức tạp... trong phát triển kinh tế nông nghiệp của một địa phương như ở Thanh Hóa.
Vì vậy, việc tiếp tục hướng nghiên cứu về vấn đề hoàn thiện chính sách phát triển
kinh tế nông nghiệp là cần thiết, có cơ sở khoa học và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện các chính sách kinh tế nông nghiệp, đề
xuất giải pháp nhằm hoàn thiện một số chính sách kinh tế chủ yếu thúc đẩy phát triển nông
nghiệp Thanh Hóa trong những năm tới theo hướng nông nghiệp hàng hóa và CNH, HĐH.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách kinh tế nông nghiệp, ở
ba cấp độ: thế giới, quốc gia và địa phương.
- Phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện một số chính sách kinh tế trong nông
nghiệp của tỉnh Thanh Hóa trong thời gian qua, những vấn đề đặt ra nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện một số chính sách kinh tế thúc đẩy phát
triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thực tiễn cho thấy luôn có một hệ thống các chính sách đồng thời tác động đến
kinh tế nông nghiệp, với phạm vi rất rộng gồm nhiều loại, tuy nhiên trong khuôn khổ của
luận văn, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu sáu chính sách kinh tế chủ yếu trong phát
triển nông nghiệp đó là: Chính sách sử dụng đất đai; chính sách đầu tư vốn; chính sách
chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chính sách ứng dụng khoa học - công nghệ trong trồng trọt và
chăn nuôi; chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; chính sách phát triển các
thành phần kinh tế.
Luận văn được nghiên cứu trong phạm vi địa bàn nông nghiệp, nông thôn ở các
huyện, thị và thành phố của tỉnh Thanh Hóa.
5. Phương pháp nghiên cứu
Các quan điểm và sự phân tích của luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phát triển kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp nông thôn. Đồng thời, luận văn vận
dụng các học thuyết kinh tế hiện đại, gắn với đặc thù của địa phương theo quan điểm toàn
diện, lịch sử và cụ thể.
Luận văn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp
giữa lôgic và lịch sử, toàn diện và cụ thể để hệ thống hóa quá trình và các quan điểm, lý
thuyết trong phát triển kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp. Cũng như kết hợp với thực
tiễn, kinh nghiệm phát triển kinh tế nông nghiệp ở trong nước và các nước nước trên thế
giới. Từ đó tiến hành phân tích, đánh giá, chọn lọc rút ra những nhận xét, kết luận và những
đề xuất cụ thể cho việc hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp của Thanh
Hóa.
Luận văn đặc biệt quan tâm đến việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa
học về kinh tế: Phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu, chuyên gia
và hệ thống hóa để từ thực tiễn rút ra những vấn đề lý luận và các chính sách cụ thể chỉ
đạo hoạt động thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
Kết quả của luận văn sẽ đóng góp những vấn đề sau:
- Tiếp tục hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách kinh tế phát
triển nông nghiệp.
- Đánh giá thực trạng xây dựng và thực hiện các chính sách kinh tế trong nông
nghiệp Thanh Hóa, đồng thời đưa ra những vấn đề cần phải tiếp tục hoàn thiện.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện các chính sách kinh tế chủ yếu phát triển nông
nghiệp Thanh Hóa trong những năm tới.
- Luận văn sẽ góp phần bổ sung vào nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho công
tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập và chỉ đạo thực tiễn về lĩnh vực chính sách kinh tế phát
triển nông nghiệp, nông thôn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP
1.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.1. Một số lý thuyết kinh tế bàn về vai trò của nông nghiệp
Trong lịch sử phát triển tri thức khoa học kinh tế của nhân loại đã xuất hiện nhiều
lý thuyết kinh tế đề cập tới vai trò của kinh tế nông nghiệp trong toàn bộ quá trình phát
triển kinh tế-xã hội. Các lý thuyết đó có ảnh hưởng quan trọng tới việc xây dựng phát triển
các mô hình kinh tế nông nghiệp của các quốc gia và khu vực trong những thời kỳ lịch sử
nhất định. Trong quá trình khảo cứu chúng tôi nhận thấy nội dung của các lý thuyết bàn về
phát triển nông nghiệp là rất phong phú, tuy nhiên có một vấn đề hết sức quan trọng và
liên quan đến chuyên đề nghiên cứu của tác giả chính là, sự khẳng định và nhấn mạnh vai
trò của phát triển kinh tế nông nghiệp ở các nước đang phát triển. Đẩy mạng phát triển
kinh tế nông nghiệp chính là yếu tố then chốt để tăng trưởng kinh tế cho các nước đang
phát triển, đồng thời góp phần tạo ra những tiền đề ban đầu để tiến hành CNH, HĐH. Sau
đây chúng tôi xin giới thiệu một số lý thuyết kinh tế cơ bản bàn đến vai trò của kinh tế
nông nghiệp.
1.1.1.1. Kinh tế học cổ điển
Trường phái trọng thương: Trường phái này ra đời ở Tây Âu trong điều kiện chủ
nghĩa tư bản tích lũy nguyên thủy, cho rằng nông nghiệp chỉ là một nghề "trung gian" giữa
hoạt động tích cực và tiêu cực, vì nông nghiệp không tăng thêm nhưng cũng không tiêu
hao của cải. Còn nguồn gốc của cải nằm trong ngoại thương và trong lợi nhuận do chuyển
nhượng. Do đó, quan điểm bao trùm của phái trọng thương là coi ngoại thương là nguồn
gốc duy nhất và không thể thay thế để tạo ra của cải quốc dân. Như vậy, lý thuyết này có
đề cập đến kinh tế nông nghiệp, tuy nhiên lại chưa thực sự đánh giá hết vai trò của nó
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Trường phái trọng nông: Cùng tồn tại với trường phái trọng thương ở Tây Âu thế
kỷ XVIII còn xuất hiện trường phái trọng nông. Trường phái này phát triển và có ảnh
hưởng mạnh mẽ ở nước Pháp thời bấy giờ. Lúc đó nền kinh tế nông nghiệp của nước Pháp
ở giữa thế kỷ XVIII đang lâm vào tình trạng trì trệ, giảm sút nghiêm trọng, để thoát khỏi
tình trạng đó giải pháp được thực hiện là phát triển kinh tế nông nghiệp. Gần như đối lập
và chống lại phái trọng thương, phái trọng nông lại coi nông nghiệp là ngành duy nhất tạo
ra sản phẩm cho xã hội và chỉ có lao động nông nghiệp mới là lao động sản xuất. Đại biểu
lớn nhất của trường trọng phái nông là Ph.Quyêc-nê. Ông cho rằng chỉ có nông nghiệp mới
làm tăng sự giàu có cho xã hội. Còn các ngành kinh tế khác như công nghiệp, thương
mại... chỉ làm thay đổi hình thái của của cải và chúng không tạo thêm giá trị cho của cải.
Nhưng không phải bất kỳ nền nông nghiệp nào cũng tạo ra sản phẩm ròng, mà chỉ có nền
nông nghiệp tổ chức theo kiểu đồn điền tư bản chủ nghĩa mới tạo ra sản phẩm ròng, vì như
vậy mới đảm bảo được chi phí lao động ở mức thấp nhất. Quan điểm trường phái này đã
nhấn mạnh: trong một xã hội nông nghiệp là nền tảng, tất yếu phải chú trọng tới sản xuất
nông nghiệp, vì nó là điểm xuất phát cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Và con đường của
sự phát triển nông nghiệp là làm tan rã nông nghiệp truyền thống, tạo ra một nền nông
nghiệp sản phẩm ròng, tức là một nền nông nghiệp thương phẩm. Nền nông nghiệp mà chủ
nghĩa trọng nông hướng tới là một nền nông nghiệp kinh doanh theo phương thức tư bản
chủ nghĩa, với mục tiêu theo đuổi các giá trị mới. Họ khẳng định, nông nghiệp là nơi tạo ra
tích lũy vốn ban đầu cho sự phát triển. Hạn chế của trường phái này là tuyệt đối hóa vai trò
của xã hội công nghiệp phát triển, còn phát triển nông nghiệp chỉ là giai đoạn tất yếu, cơ
bản và phải bị vượt qua trong quá trình phát triển.
Trường phái của David Ricado: Khi bàn đến phát triển kinh tế nông nghiệp, nhà
kinh tế học cổ điển người Anh là David Ricado cho rằng: Phát triển nông nghiệp không có
lợi vì đất đai có giới hạn, do đó khi dân cư tăng lên phải canh tác cả trên những đất đai
xấu, dẫn đến tình trạng lợi nhuận nông nghiệp giảm, ảnh hưởng đến tích lũy của cải, tăng
tư bản, do đó nông nghiệp là giới hạn của sự tăng trưởng. "Trong "Nguyên lý kinh tế chính
trị học và thuế", Ricardo đã cho rằng hạn chế tăng trưởng nông nghiệp sẽ tạo ra giới hạn
cận trên cho khu vực phi nông nghiệp và sự hình thành vốn để mở rộng kinh tế"" [37, tr.
5]. Ricacdo còn cho rằng, khi dân số tăng lên, nhu cầu về nông sản ngày càng nhiều, buộc
người ta phải tính đến những mảnh đất ít màu mỡ hơn để canh tác và như vậy làm cho hiệu
quả đầu tư vốn trong nông nghiệp bị giảm dần. Theo ông sự phát triển của nông nghiệp
cũng là động lực để phát triển các ngành kinh tế khác.
1.1.1.2. Kinh tế học Mác - Lênin
Có thể chia kinh tế học Mác - Lênin thành hai giai đoạn phát triển, giai đoạn Mác
- Ăngghen và giai đoạn Lênin.
Kinh tế học Mác - Lênin giai đoạn C.Mác - Ph. Ăngghen ra đời trong điều kiện
chủ nghĩa tư bản đang ở thời kỳ đầu của sự phát triển. Các ông cho rằng sự phát triển của
nông nghiệp là cơ sở cho sự phát triển của xã hội; năng suất lao động nông nghiệp vượt
quá mức nhu cầu cá nhân của người lao động là cơ sở của mọi xã hội và trước hết là cơ sở
của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Như vậy, trong quan điểm bàn về phát triển kinh tế
Mác và Ăng-ghen đã rất coi trọng phát triển nông nghiệp, coi nó là điểm xuất phát trong
tiến trình phát triển. Nhưng nông nghiệp phát triển theo con đường nào? Đó là vấn đề mà
các ông còn quan tâm hơn. Mác và Ăngghen đã đưa ra khái quát, rằng cần thiết phải giao
đất cho những người lao động nông nghiệp đã được liên hợp lại. Các ông cũng đã chỉ ra
tính chất nhiều vẻ của nông nghiệp trong những điều kiện khác nhau, sự khác nhau đó xuất
phát không chỉ về vị trí và chất lượng của đất đai mà còn là do sự khác nhau về qui mô đầu
tư vào tư bản ruộng đất, bao gồm thay đổi về kỹ thuật, tiến hành thâm canh và chế độ canh
tác hợp lý...
Kinh tế học Mác - Lênin giai đoạn Lênin được xây dựng trong điều kiện chủ nghĩa
tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xã hội (CNXH) đang được xác lập ở nước
Nga. Lênin là người đã kế tục xuất sắc các quan điểm của Mác - Ăngghen về kinh tế nói
chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng. Ông cho rằng việc xuất hiện chủ nghĩa tư bản
trong nông nghiệp, tức là hình thành một nông nghiệp thương phẩm, xét về mặt lịch sử là
một bước tiến bộ. Chủ nghĩa tư bản đã xã hội hóa sản xuất nông nghiệp, đã biến nông
nghiệp trở thành một lĩnh vực kinh doanh như những lĩnh vực khác. Lênin đã khẳng định
công lao của chủ nghĩa tư bản trong phát triển kinh tế nông nghiệp, chính chủ nghĩa tư bản
đã thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Ngay từ lúc đó Lênin đã khái quát và chỉ ra hai con
đường phát triển chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp là con đương kiểu Phổ (những đại
điền trang được duy trì) và con đường kiểu Mỹ (cách mạng xóa bỏ chế độ chiếm hữu đất
đai của địa chủ).
Sau Cách mạng tháng Mười Nga, khi chính quyền đã về tay những người cộng sản
và nhân dân lao động, Lênin có điều kiện để áp dụng tư tưởng kinh tế của mình vào quá
trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện chiến tranh ông đã tiến hành thực
hiện chính sách kinh tế "Cộng sản thời chiến". Sau khi hòa bình lập lại trên đất nước Lênin
sớm nhận ra sự lạc hậu, không phù hợp của mô hình chính sách kinh tế này trong điều kiện
mới. Do vây, ông đã nhanh chóng thực hiện mô hình "Chính sách kinh tế mới" (NEP).
Trong nội dung của (NEP) Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế nông
nghiệp ở nước Nga lúc bấy giờ. Chẳng hạn, dưới sự lãnh đạo của ông hàng loạt các chính
sách kinh tế phát triển nông nghiệp đã được thực hiện, như: chính sách thuế lương thực;
chính sách xóa bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa; chính sách khôi phục và phát triển sản
xuất hàng hóa trong nông nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp với công
nghiệp... Thực tế đã chứng minh tính đúng đắn của Lênin trong thực hiện các chính sách
kinh tế nông nghiệp thời kỳ hòa bình và xây dựng của nước Nga.
Từ quan điểm về chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp của Lênin đã thể hiện
sự khẳng định vai trò to lớn của phát triển kinh nông nghiệp trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội. Ông cho rằng, trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa, phát triển kinh tế
nông nghiệp là giải pháp đầu tiên trước khi tiến hành công nghiệp hóa đất nước.
1.1.1.3. Kinh tế học hiện đại
Lịch sử phát triển tri thức khoa học về kinh tế của thế giới trong thế
kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI đã ghi nhận sự cạnh tranh, thay thế nhau của các
học thuyết kinh tế. Do thực tiễn không ngừng vận động biến đổi và phát triển, cho nên các
lý thuyết kinh tế trên thế giới cũng không ngừng vận động, nhằm giải quyết các vấn đề của
nền kinh tế thị trường hiện đại. Kinh tế học hiện đại rất phong phú, nghiên cứu nhiều lĩnh
vực của đời sống kinh tế và xuất hiện nhiều quan điểm, trường phái khác nhau. Tuy nhiên,
về phát triển nông nghiệp, quan điểm của các lý thuyết kinh tế thường tập trung nhấn mạnh
vào một số luận điểm như sau:
Một là, con đường phát triển tất yếu đối với mọi quốc gia để chuyển từ nền kinh tế tự
nhiên sang nền kinh tế phát triển là nền kinh tế thị trường. Trong tiến trình đó, nông nghiệp
phải được coi là xuất phát điểm cho sự phát triển.
Hai là, nông nghiệp phải được giải phóng khỏi những quan hệ phong kiến, lệ
thuộc - trở lực cho sự phát triển sức sản xuất và phải trở thành nền nông nghiệp thương
phẩm, một lĩnh vực kinh doanh, một bộ phận trong cơ cấu chung của nền kinh tế thì mới
phát triển.
Ba là, dù bước đi và nội dung có những đặc điểm riêng, nhưng cũng giống như những
ngành khác, nông nghiệp cũng phải được từng bước CNH, HĐH.
Bốn là, kinh tế hộ gia đình và hình thức phát triển của nó theo yêu cầu của nông
nghiệp hàng hóa - trang trại gia đình - là hình thức kinh tế có sức sống mãnh liệt và có tính
thích ứng cao đối với mọi chế độ xã hội.
Năm là, muốn phát triển lĩnh vực kinh tế nông nghiệp các quốc gia, vùng kinh tế
phải lựa chọn lợi thế so sánh của sản phẩm, nhằm khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế
cạnh tranh.
Sáu là, kinh tế nông nghiệp phụ thuộc lớn vào thể chế, chính sách trong tiến trình
phát triển của các quốc gia.
Bảy là, từng ngành sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử có khác nhau, nhưng nhìn
chung nông nghiệp luôn chiếm vị trí trọng yếu ban đầu, sau đó giảm dần trong quá trình
phát triển, nhưng vai trò lại không giảm, nhất là có tác động của kinh tế thị trường và công
nghiệp hóa.
1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế nông nghiệp trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Trải qua hai thập niên thực hiện công cuộc đổi mới, cơ cấu kinh tế của nước ta đã
có những chuyển biến tích cực.
Tính đến thời điểm hiện tại, nông nghiệp chiếm khoảng 25% GDP, 30%
tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm cho 70% lao động xã hội, và liên quan
đến thu nhập, đời sống của khoảng 80% dân số nước ta. Vì thế, nông nghiệp
Việt Nam chiếm vai trò cực kỳ quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, là cơ
sở của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, đảm bảo ổn định chính trị - xã hội
[14, tr. 9].
Ngành kinh tế nông nghiệp của nước ta hiện nay không chỉ đáp ứng nhu cầu lương
thực, thực phẩm cho nhân dân, đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước mà còn cung cấp
một lượng lớn những nguyên liệu phục vụ cho các ngành công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là
công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản,.. Đồng thời, nông nghiệp là nơi cung cấp nguồn
lao động dồi dào cho các ngành kinh tế khác trong xã hội.
Phát triển kinh tế nông nghiệp tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo
hướng tích cực. Phát triển nông nghiệp sẽ góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng
cao đời sống của lao động nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời làm tăng sức mua và thúc đẩy
các ngành công nghiệp, dịch vụ phát triển.
Phát triển kinh tế nông nghiệp không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa, mà sản
phẩm nông nghiệp còn tham gia xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới. Các sản phẩm từ
nông nghiệp xuất khẩu hàng năm đạt khoảng 5 tỷ UDS, chiếm khoảng 20% tổng kim
ngạch xuất khẩu. Chính nguồn thu nhập này đã góp phần quan trọng vào nguồn thu ngân
sách và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho phát triển nền kinh tế của đất nước