Chuyển đổi từ cơ chế quản lý nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi
phải đổi mới toàn diện nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực tài chính nói chung và
thuế nói riêng. Từ năm 1990 đến nay, Nhà nước đã từng bước thực hiện cải cách hệ
thống chính sách thuế và bộ máy ngành thuế được tổ chức lại thống nhất theo ngành
dọc từ Trung ương đến quận huyện. Quản lý thu thuế đã được dổi mới căn bản, từng
bước hiện đại hóa và phát huy được vai trò tích cực trong việc thực hiện các luật
thuế mới và tăng thu cho ngân sách nhà nước.
Trong quản lý thuế các khu vực kinh tế, thì khu vực doanh nghiệp luôn được
quan tâm hàng đầu vì đây là khu vực đóng góp lớn nhất vào thu ngân sách nhà
nước, mặc dù số doanh nghiệp chỉ chiếm 10% trong tổng số đối tượng nộp thuế giá
trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp và bằng 1% tổng số đối tượng nộp thuế,
nhưng đóng góp gần 2/3 tổng thu nội địa. Số thu của một đối tượng ở khu vực này
thường gấp nhiều lần số thu của đối tượng là hộ cá thể hoặc cá nhân. Mặt khác, đây
là khu vực đòi hỏi trình độ quản lý cao của cán bộ thuế và là khu vực có nhiều phức
tạp nhất trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý.
Quá trình thực hiện đổi mới quản lý thuế khu vực doanh nghiêp cũng bộc lộ
nhiều bất cập cả về qui trình quản lý, ứng dụng công nghệ tin học, bố trí nguồn
nhân lực, trình độ cán bộ quản lý của cơ quan thuế, chưa tận dụng được kinh
nghiệm quản lý thu thuế của các nước tiên tiến. Số lượng đối tượng nộp thuế nói
chung và số doanh nghiệp nói riêng tăng lên nhanh chóng; tính tuân thủ, tự nguyện
của đối tượng nộp thuế chưa cao, tình trạng trốn thuế, nợ đọng thuế vẫn còn và diễn
ra ở nhiều địa phương trong cả nước.
Trước vấn đề đặt ra như trên đòi hỏi phải có những nghiên cứu cơ bản từ lý
luận đến thực tiễn để tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục trong đó hoàn
thiện quản lý thu thuế được coi là nội dung trọng tâm của cải cách hệ thống thuế. Là
người tham gia quản lý lĩnh vực này của Tổng cục Thuế, tôi lựa chọn đề tài: "Hoàn
thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay" làm luận văn
thạc sĩ Kinh doanh và quản lý - chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
111 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2104 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện quản lý thu thuế đối với
doanh nghiệp ở nước ta hiện nay
MỞ ĐẦU
1 - Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển đổi từ cơ chế quản lý nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi
phải đổi mới toàn diện nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực tài chính nói chung và
thuế nói riêng. Từ năm 1990 đến nay, Nhà nước đã từng bước thực hiện cải cách hệ
thống chính sách thuế và bộ máy ngành thuế được tổ chức lại thống nhất theo ngành
dọc từ Trung ương đến quận huyện. Quản lý thu thuế đã được dổi mới căn bản, từng
bước hiện đại hóa và phát huy được vai trò tích cực trong việc thực hiện các luật
thuế mới và tăng thu cho ngân sách nhà nước.
Trong quản lý thuế các khu vực kinh tế, thì khu vực doanh nghiệp luôn được
quan tâm hàng đầu vì đây là khu vực đóng góp lớn nhất vào thu ngân sách nhà
nước, mặc dù số doanh nghiệp chỉ chiếm 10% trong tổng số đối tượng nộp thuế giá
trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp và bằng 1% tổng số đối tượng nộp thuế,
nhưng đóng góp gần 2/3 tổng thu nội địa. Số thu của một đối tượng ở khu vực này
thường gấp nhiều lần số thu của đối tượng là hộ cá thể hoặc cá nhân. Mặt khác, đây
là khu vực đòi hỏi trình độ quản lý cao của cán bộ thuế và là khu vực có nhiều phức
tạp nhất trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý.
Quá trình thực hiện đổi mới quản lý thuế khu vực doanh nghiêp cũng bộc lộ
nhiều bất cập cả về qui trình quản lý, ứng dụng công nghệ tin học, bố trí nguồn
nhân lực, trình độ cán bộ quản lý của cơ quan thuế, chưa tận dụng được kinh
nghiệm quản lý thu thuế của các nước tiên tiến. Số lượng đối tượng nộp thuế nói
chung và số doanh nghiệp nói riêng tăng lên nhanh chóng; tính tuân thủ, tự nguyện
của đối tượng nộp thuế chưa cao, tình trạng trốn thuế, nợ đọng thuế vẫn còn và diễn
ra ở nhiều địa phương trong cả nước.
Trước vấn đề đặt ra như trên đòi hỏi phải có những nghiên cứu cơ bản từ lý
luận đến thực tiễn để tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục trong đó hoàn
thiện quản lý thu thuế được coi là nội dung trọng tâm của cải cách hệ thống thuế. Là
người tham gia quản lý lĩnh vực này của Tổng cục Thuế, tôi lựa chọn đề tài: "Hoàn
thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay" làm luận văn
thạc sĩ Kinh doanh và quản lý - chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
2 - Tình hình nghiên cứu
Từ năm 1990 đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu quản lý thu thuế, tập
trung vào các nhóm sau:
- Quản lý thu thuế trên địa bàn một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
như: "Công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn Hà Nội", Luận văn
thạc sĩ Quản lý kinh tế của Vũ Thị Toản, Hà Nội, 1996; "Các giải pháp nhằm tăng
cường công tác thanh tra thuế trên địa bàn Hà Nội", Luận văn thạc sĩ Quản lý kinh
tế của Phi Văn Tuấn, Hà Nội, 1997; "Những giải pháp chủ yếu chống thất thu thuế
trên địa bàn Nghệ An trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ Quản lý kinh tế
của Đoàn Hồng Vũ, Hà Nội, 1999.
- Ngoài ra, nghiên cứu quản lý thu thuế nói chung có đề tài: "Nâng cao hiệu
quả quản lý thu thuế ở Việt Nam trong quá trình đổi mới", Luận văn thạc sĩ Kinh tế
của Trịnh Hoàng Cơ, Hà Nội, 2004.
Các đề tài, bài viết có đề cập ở mức độ nhất định về quản lý thu thuế đối với
doanh nghiệp, nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu độc lập, có hệ thống về lĩnh vực
này.
Để thực hiện đề tài, chúng tôi có tham khảo ý tưởng trong các công trình
khoa học, bài viết đã công bố, giúp cho việc hệ thống hoá lĩnh vực nghiên cứu từ
khi đổi mới đến nay, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện trong thời gian tới.
3 - Mục đích của luận văn
Mục đích chủ yếu của luận văn là nghiên cứu là rõ cơ sở lý luận và thực
trạng quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp, chỉ ra kết quả, hạn chế và nguyên
nhân, đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta
hiện nay.
4 - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề có liên quan đến quản lý thu thuế
đối với doanh nghiệp bao gồm doanh nghiệp thành lập theo luật doanh nghiệp,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo Luật Đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp
nhà nước theo Luật Doanh nghiệp nhà nước.
- Phạm vi nghiên cứu của Luận văn giới hạn trong lĩnh vực quản lý thu thuế
đối với doanh nghiệp của cơ quan thuế nội địa và trong khoảng thời gian từ năm
1990 đến nay.
5 - Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử
để nghiên cứu và trình bày các nội dung lý luận và thực tiễn. Luận văn sử dụng một
số phương pháp khác nhau như kết hợp lịch sử với lôgíc, tổng hợp và phân tích để
qua đó rút ra kết luận.
- Nghiên cứu lý luận chung có liên quan đến thuế và quản lý thu thuế đối với
đoanh nghiệp; tổng kết quá trình cải cách quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp của
Việt Nam. Đồng thời, có kết hợp nêu kinh nghiệm các nước tiên tiến.
6 - Những đóng góp chủ yếu của luận văn
- Hệ thống hoá và có đóng góp bổ sung những vấn đề lý luận cơ bản về quản
lý thu thuế đối với doanh nghiệp.
- Tìm hiểu và rút ra bài học kinh nghiệm về quản lý thu thuế đối với doanh
nghiệp ở một số nước có thể tham khảo vận dụng đối với Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở
nước ta.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước
ta hiện nay.
7 - Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
bố cục làm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, YÊU CẦU HOÀN THIỆN QUẢN LÝ THU
THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.1.1. Thuế và các sắc thuế thu đối với doanh nghiệp
* Thuế đối với doanh nghiệp
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thuế ra đời là một sự cần thiết
khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Sự xuất hiện
thuế trong kỷ nguyên của nhân loại gắn liền với nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Có nhiều định nghĩa về thuế. Ở nước ta hiện nay cũng chưa có một định
nghĩa thống nhất về thuế. Chúng tôi cho rằng định nghĩa trong giáo trình "lý thuyết
về thuế" Học viện Tài chính được coi là chính thống thì thuế được định nghĩa như
sau: thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà
nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật qui định, nhằm sử dụng cho mục đích
công cộng [16].
Thuế không những là một phạm trù kinh tế mà còn là phạm trù tài chính: nó
biểu hiện những thuộc tính chung vốn có của các quan hệ tài chính. Những đặc
trưng để phân biệt thuế với các công cụ tài chính khác đó là: thuế mang tính chất bắt
buộc, tính không hoàn trả trực tiếp và tính pháp lý cao. Thuế thực hiện hai chức
năng cơ bản: chức năng huy động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh
tế.
Thuế đối với doanh nghiệp (DN) là thuế đánh vào các pháp nhân kinh
doanh bao gồm: doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp liên doanh, doanh
nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, hợp tác xã.
* Các sắc thuế thu vào doanh nghiệp
Thuế Giá trị gia tăng: là một loại thuế tiêu dùng, tính trên phần giá trị tăng
thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình sản xuất, lưu
thông đến tiêu dùng.
Giá trị gia tăng (GTGT) là phần giá trị mới được tạo ra trong sản xuất kinh
doanh. Nó được xác định bằng chênh lệch giữa tổng giá trị sản xuất và tiêu thụ với
tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng. Thuế GTGT phải nộp ở mỗi giai
đoạn được tính bằng cách lấy số thuế GTGT đầu ra (tính được bằng cách lấy thuế
suất x giá hàng hoá dịch vụ bán ra) trừ số thuế GTGT đầu vào (tính được bằng cách
lấy thuế suất x giá hàng hoá dịch vụ mua vào).
Thuế GTGT là công cụ có hiệu quả trong việc động viên nguồn thu cho ngân
sách nhà nước (NSNN). Số thuế GTGT từ sản xuất kinh doanh nội địa chiếm tỷ
trọng cao nhất (so với các loại thuế khác) trong tổng thu NSNN: khoảng 16,8%, (từ
kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu chỉ khoảng 9%) và chiểm 36 % trong tổng thu
từ doanh nghiệp. Thuế GTGT được áp dụng ở nước ta từ 1/1/1999 thay cho thuế
doanh thu trước đây (sắc thuế này hiện đã có trên 120 quốc gia áp dụng).
Thuế tiêu thụ đặc biệt: là loại thuế tiêu dùng, đánh vào một số hàng hoá dịch
vụ đặc biệt nằm trong danh mục Nhà nước qui định, được tính căn cứ vào giá cả và
thuế suất (giá tính thuế là giá chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt). Đối với hàng nhập
khẩu, giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá nhập khẩu cộng với thuế nhập khẩu.
Thuế tiêu thụ đặc biệt là nguồn thu quan trọng của NSNN, là công cụ quan
trọng thực hiện mục đích hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ
được coi là đặc biệt, thực hiện tái phân phối thu nhập của các tầng lớp có thu nhập
cao, đảm bảo công bằng xã hội. Hiện nay, số thuế tiêu thụ đặc biệt từ sản xuất kinh
doanh nội địa chiếm khoảng 8-10% trong tổng thu NSNN (từ kinh doanh hàng hoá
xuất, nhập khẩu là 1%), và chiếm 20,8 % trong tổng thu từ doanh nghiệp.
Thuế thu nhập doanh nghiệp: là một loại thuế trực thu, đánh vào thu nhập
chịu thuế của các DN.
Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) được tính bằng cách lấy thu nhập chịu thuế
(bằng doanh thu trừ chi phí+các thu nhập khác) x thuế suất.
Thuế TNDN được sử dụng để điều tiết thu nhập của các nhà đầu tư nhằm
góp phần đảm bảo công bằng xã hội, là một trong các nguồn thu quan trọng của
NSNN, chiếm khoảng 15% trong tổng thu NSNN và chiếm 35,3% trong tổng thu từ
DN năm 2004, cao thứ hai sau thuế giá trị gia tăng và là công cụ có hiệu quả để Nhà
nước thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô.
Thuế tài nguyên: là loại thuế đánh vào tài nguyên thiên nhiên khai thác
được. Thuế này được tính bằng cách lấy số lượng tài nguyên thực tế khai thác x Giá
tính thuế đơn vị tài nguyên x Thuế suất.
Thuế tài nguyên là công cụ để quản lý, kiểm soát, hướng dẫn, điều tiết các
hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên của đất nước, bảo vệ môi
trường sinh thái và động viên một phần thu nhập cho NSNN. Số thuế tài nguyên
chiếm khoảng 0,7% trong tổng thu NSNN và chiếm 2 % trong tổng thu từ DN năm
2004.
Thuế môn bài: là thuế đăng ký kinh doanh được tính theo năm. Mức thuế
được áp dụng theo số tuyệt đối và được phân biệt theo 2 nhóm: tổ chức kinh tế và
hộ kinh doanh cá thể. Đối với DN (tổ chức) thì mức môn bài được qui định từ
1.000.000đ đến 3.000.000đ tuỳ theo vốn đăng ký.
Số thuế môn bài chiếm khoảng 0,4% trong tổng thu NSNN và chiếm 0,6%
trong tổng thu từ DN năm 2004.
Ngoài ra còn một số khoản thu khác đối với doanh nghiệp như thuế nhà đất,
tiền thuê đất. Những khoản thu này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu từ doanh
nghiệp.
Mỗi sắc thuế nêu trên có phương pháp quản lý cụ thể khác nhau, tuy nhiên
trong phạm vi luận văn không đi sâu vào quản lý của từng sắc thuế cụ thể mà chỉ đề
cập những vấn đề quản lý mang tính chất chung nhất của tất cả các sắc thuế thu
vào DN.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, yêu cầu hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh
nghiệp
* Khái niệm quản lý thuế và thu thuế đối với doanh nghiệp
- Quản lý thuế là vấn đề đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và có nhiều
quan niệm khác nhau. Mỗi quan niệm đều nhìn nhận quản lý thuế ở một góc độ,
phạm vi khác nhau và với mục đích, ý nghĩa thực tiễn khác nhau. Theo chúng tôi,
các quan niệm về quản lý thuế đều có các điểm chung là:
+ Đều đề cập đến các nội dung của khâu hành pháp về thuế;
+ Đều đề cập đến sự tác động của chủ thể quản lý đối với đối tượng bị quản
lý bằng các phương thức, phương tiện nào đó nhằm đạt mục đích nhất định. Chủ thể
quản lý là Nhà nước (mà trực tiếp là cơ quan thuế các cấp). Đối tượng bị quản lý là
các tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ về thuế. Mục đích quản lý là để đối tượng nộp
thuế và các đối tượng có liên quan thực hiện tốt nghĩa vụ luật định về thuế của
mình. Phương tiện quản lý là sử dụng các qui định về đăng ký thuế, kê khai thuế,
nộp thuế, hoàn thuế, thanh tra thuế...với bộ máy, đội ngũ cán bộ, cơ sở chất cần
thiết để quản lý.
Quản lý nhà nước về thuế là thuật ngữ dùng để chỉ tổng thể các khâu lập
pháp, hành pháp và tư pháp về thuế, còn quản lý thuế gồm những hoạt động có tổ
chức trong bộ máy nhà nước, thuộc lĩnh vực hành pháp và tư pháp về thuế của cơ
quan thuế các cấp, với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do luật định nhằm thực
hiện chính sách thuế đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua. Theo nghĩa rộng,
quản lý thuế là hoạt động nhằm đảm bảo sự thực thi nghiêm chỉnh pháp luật về thuế
thông qua sự tự giác của chính đối tượng nộp thuế và sự hỗ trợ của cơ quan thuế và
các cơ quan nhà nước có liên quan.
- Quản lý thu thuế đối với DN là hoạt động quản lý của Nhà nước mà cơ
quan thuế là đại diện để tổ chức hướng dẫn, điều hành, giám sát việc thực thi pháp
luật về thuế đối với các doanh nghiệp nhằm động viên nguồn thu vào ngân sách nhà
nước.
- Đối với cán bộ thuế, quản lý thu thuế nói chung và quản lý thu thuế DN nói
riêng bao gồm ba hoạt động riêng biệt, liên tiếp nhau: xác định đối tượng nộp thuế,
xác định số thuế phải nộp và thu thuế. Chức năng chủ yếu của quản lý ở đây là kiểm
soát sự tuân thủ và áp dụng các khoản phạt theo luật thuế để răn đe những đối tượng
nộp thuế vi phạm. Đồng thời, quản lý thu thuế cũng đảm bảo bên thứ ba có giao
dịch mua bán hay cung cấp dịch vụ với đối tượng nộp thuế phải báo cáo đầy đủ,
trung thực các giao dịch kinh tế có phát sinh thuế nộp ngân sách nhà nước theo qui
định của luật [25, tr. 39].
- Đối với một cơ quan thuế, quản lý thu thuế hay quản lý thu thuế đối với DN
là một quá trình giống như quá trình sản xuất. Trong đó, đầu vào gồm nhân công
(cán bộ thuế), tài liệu và các thông tin, còn đầu ra là số thu cho Nhà nước và sự
công bằng cho người nộp thuế.
- Trên phạm vi cả nước, quản lý thu thuế đối với DN bao gồm các hoạt động:
hoạch định mục tiêu, phân cấp quản lý, xây dựng và ban hành qui trình thủ tục, đề
ra giải pháp tổ chức thực hiện và kiểm tra, thanh tra, sắp xếp tổ chức bộ máy và
nhân sự để thực hiện các khâu công việc [25, tr. 20-22].
* Đặc điểm quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
- Quản lý thu thuế đối với đối với DN là quản lý thu thuế đối với những pháp
nhân và là những đối tượng nộp thuế (ĐTNT) lớn. Số thu từ DN chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng thu nội địa (như đã nêu trên) do vậy quản lý thu thuế đối với DN được
đặc biệt quan tâm và đặt ưu tiên hàng đầu. Hầu hết cơ quan thuế các nước cũng tập
trung không ngừng và đáng kể các nguồn lực vào việc quản lý nhóm đối tượng nộp
thuế này.
- Quản lý thu thuế trên cơ sở ĐTNT thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn,
chứng từ. Theo chế độ hiện hành, các DN đều phải mở sổ sách kế toán, và hạch toán
kế toán theo chế độ qui định và thực hiện nghĩa vụ thuế theo phương pháp kê khai
thuế.
- Doanh nghiệp có phạm vi kinh doanh rộng hơn và mức độ phức tạp cao
hơn so với đối tượng là hộ cá thể. Ngày nay, nhiều DN có phạm vi kinh doanh toàn
cầu. Vì vậy, việc kiểm soát chi phí và thu nhập khi tính thuế là hết sức phức tạp.
Nhiều DN lớn không trốn thuế một cách "ngây ngô" như các DN nhỏ hoặc cá nhân
kinh doanh bằng cách gian lận hoá đơn hay bán hàng không xuất hoá đơn. Các DN
này luôn xuất trình đủ hoá đơn, chứng từ và hạch toán rất bài bản, nhưng đằng sau
những số liệu "sạch sẽ" đó, là cả một kế hoạch tránh thuế hết sức tinh vi. Do đó,
quản lý thu thuế đối với DN đòi hỏi đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp
vụ cao. Có như vậy, mới phát hiện được các thủ thuật trốn thuế, tránh thuế hết sức
tinh vi của các đối tượng này, từ đó đề xuất hoàn thiện chính sách hoặc xử lý đối
tượng vi phạm.
* Yêu cầu hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
Xuất phát từ vị trí của thu từ doanh nghiệp trong thu nội địa
Tỷ trọng thu từ khu vực DN ngày càng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng chủ yếu
trong tổng thu nội địa, từ 70% giai đoạn 1996-2000 lên 76,8% giai đoạn 2001-2005,
tốc độ tăng thu khu vực DN bình quân 5 năm là 19% (trong khi tốc độ tăng tổng thu
NSNN bình quân chỉ đạt 13,9%/năm). Các khoản thu khác như phí, lệ phí, các
khoản thu từ nhà, đất và thu khác giảm dần, từ 30% giai đoạn 1996-2000 xuống còn
23,2% giai đoạn 2001-2005.
Thu từ khu vực DN là khoản thu quan trọng, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong
tổng thu nội địa, vì vậy việc nghiên cứu để hoàn thiện quản lý thuế từ doanh nghiệp
có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý thuế nói riêng và quản lý tài chính nói
chung.
Tác động của việc hoàn thiện chính sách thuế đối với doanh nghiệp
Đối tượng quản lý là một hệ thống phức tạp, luôn vận động và phát triển. Qui
luật về sự phù hợp giữa cơ chế quản lý với đối tượng quản lý là một qui luật cơ bản
của quản lý mang tính lịch sử cụ thể rõ nét [15, tr.66].
Chức năng quản lý xác định khối lượng các công việc cơ bản và trình tự các
công việc của quá trình quản lý. Chức năng quản lý xác định vị trí, mối quan hệ
giữa các bộ phận, các khâu, các cấp trong hệ thống quản lý [15, tr.52]
Việc hoàn thiện chính sách thuế chính là làm thay đổi khối lượng công việc
và trình tự các công việc trong quá trình quản lý thuế, và làm thay đổi mạnh mẽ đối
tượng quản lý. Ví dụ khi ban hành Luật Thuế GTGT, khối lượng công việc quản lý
thuế thay đổi như phát sinh thêm các công việc về hoàn thuế, về đối chiếu hóa đơn;
đối tượng quản lý thay đổi như một số đối tượng trước đây chịu thuế doanh thu nay
không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT...
Từ năm 1986, đất nước ta bắt đầu chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống pháp luật thuế
mới bắt đầu được xây dựng và không ngừng được bổ sung sửa đổi. Việc hoàn thiện
chính sách thuế nói chung và thuế đối với DN nói riêng đặt ra yêu cầu phải hoàn
thiện về phương pháp, qui trình và tổ chức quản lý thuế.
Tác động của hội nhập kinh tế và hội nhập về thuế đối với doanh nghiệp
Xu thế hội nhập, liên kết kinh tế trong khu vực tiến tới toàn cầu hoá kinh tế
là tất yếu khách quan, một mặt tạo cơ hội thuận lợi cho các nước phát huy lợi thế
của mình để phát triển kinh tế. Các nước đang phát triển lợi dụng khoa học công
nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới
đồng thời thu hút được nguồn vốn từ nước ngoài để tạo bước phát triển nhảy vọt về
kinh tế, làm cho nền kinh tế có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, có cơ
hội thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển. Ngược lại, xu hướng hội nhập,
liên kết kinh tế trong khu vực, tiến tới toàn cầu hoá kinh tế sẽ làm tăng sức ép cạnh
tranh giữa các nền kinh tế. Mỗi nước phải tranh thủ được cơ hội, khắc phục yếu
kém vươn lên mới chiến thắng trong cạnh tranh và hội nhập.
Quá trình hội nhập không chỉ đòi hỏi hệ thống thuế nhập khẩu phải được sửa
đổi mà hệ thống thuế nội địa cũng phải được sửa đổi phù hợp với thông lệ quốc tế.
Quản lý thuế nội địa nói chung và quản lý thuế đối với DN nói riêng cũng phải
được cải cách theo các chuẩn mực quốc tế, tiến tới trao đổi thông tin về quản lý thuế
đối với các công ty đa quốc gia.
1.2. NỘI DUNG QUẢN LÝ THU THUẾ, CÁC CƠ CHẾ QUẢN LÝ VÀ
PHƯƠNG THỨC KÊ KHAI NỘP THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.2.1. Nội dung quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
* Thứ nhất là hoạch định mục tiêu
Mục tiêu là trạng thái tương lai, là đích phải đạt tới mà hệ thống quản lý
mong muốn đạt tới. Nó có vai trò chi phối và định hướng hoạt động của toàn bộ hệ
thống.
Mục tiêu quản lý phải được xác định trước, nó luôn chi phối, dẫn dắt cả chủ thể và
đối tượng quản lý trong toàn bộ quá trình hoạt động. Xác định mục tiêu đúng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hoạt động quản lý.
Mục tiêu của quản lý thuế nói chung thường được xác định bằng các chỉ tiêu
cụ thể như: số thuế thu trong một thời gian nhất định; tỷ lệ hu