Ngân sách nhà nước (NSNN) là bộ phận cơ bản, là khâu chủ đạo, có vị trí, vai trò 
đặc biệt quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, đồng thời là công cụ tài chính để Nhà 
nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước 
trong từng giai đoạn phát triển. 
Những năm qua, cùng với quá trình đổi mới kinh tế nói chung, việc quản lý, điều 
hành NSNN đã có những đổi mới căn bản và từng bước được hoàn thiện góp phần thúc đẩy 
tăng trưởng và phát triển kinh tế, giải quyết được những vấn đề bức thiết về kinh tế - xã hội 
kể từ khi Luật NSNN ra đời và bắt đầu có hiệu lực từ năm 1997, đánh dấu bước đổi mới 
quan trọng trong lĩnh vực quản lý NSNN. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cho đến nay cũng 
đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu sửa đổi bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
Quảng Ngãi là một tỉnh thuộc Nam Trung Bộ có nguồn thu còn hạn hẹp, trong khi 
nhu cầu chi cho đầu tư phát triển ngày càng lớn, đòi hỏi quản lý ngân sách cần phải được 
hoàn thiện. Trong thực tế các biện pháp quản lý NSNN còn những vấn đề như: Quy trình 
NSNN chưa được tiêu chuẩn hóa và chưa thống nhất hóa, các chỉ tiêu tài chính, ngân sách 
còn rất phức tạp, chưa đồng bộ, chưa tính đến sự biến đổi trong quá trình vận động.; phân 
cấp quản lý chưa rõ nét gây nên tình trạng chồng chéo trách nhiệm, quyền hạn giữa các cơ 
quan quản lý NSNN. Do vậy, việc quản lý NSNN đôi khi xử lý chậm chạp, bị động, không 
phù hợp, hiệu quả chưa cao. Đây là những vấn đề bức xúc trong quản lý ngân sách hiện nay. 
Chính vì vậy, cần thiết phải đánh giá lại việc thực hiện quy trình và phân cấp quản lý ngân 
sách trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và những vấn đề đặt ra từ thực tiễn do quản lý chưa đồng 
bộ, phân cấp chưa hợp lý, để tìm giải pháp phù hợp góp phần hoàn thiện quản lý NSNN, 
nhằm thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đề ra.
Với lý do đó, tôi chọn đề tài: " Hoàn thiện quy trỡnh và phõn cấp quản lý ngõn 
sỏch nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ngói " làm luận văn thạc sĩ kinh tế.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 110 trang
110 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2410 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện quy trình và phân cấp quản lý ngân sách nhà nước tại địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Hoàn thiện quy trình và phân cấp quản 
lý ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh 
Quảng Ngãi 
Mở đầu 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Ngân sách nhà nước (NSNN) là bộ phận cơ bản, là khâu chủ đạo, có vị trí, vai trò 
đặc biệt quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, đồng thời là công cụ tài chính để Nhà 
nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước 
trong từng giai đoạn phát triển. 
Những năm qua, cùng với quá trình đổi mới kinh tế nói chung, việc quản lý, điều 
hành NSNN đã có những đổi mới căn bản và từng bước được hoàn thiện góp phần thúc đẩy 
tăng trưởng và phát triển kinh tế, giải quyết được những vấn đề bức thiết về kinh tế - xã hội 
kể từ khi Luật NSNN ra đời và bắt đầu có hiệu lực từ năm 1997, đánh dấu bước đổi mới 
quan trọng trong lĩnh vực quản lý NSNN. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cho đến nay cũng 
đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu sửa đổi bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. 
Quảng Ngãi là một tỉnh thuộc Nam Trung Bộ có nguồn thu còn hạn hẹp, trong khi 
nhu cầu chi cho đầu tư phát triển ngày càng lớn, đòi hỏi quản lý ngân sách cần phải được 
hoàn thiện. Trong thực tế các biện pháp quản lý NSNN còn những vấn đề như: Quy trình 
NSNN chưa được tiêu chuẩn hóa và chưa thống nhất hóa, các chỉ tiêu tài chính, ngân sách 
còn rất phức tạp, chưa đồng bộ, chưa tính đến sự biến đổi trong quá trình vận động...; phân 
cấp quản lý chưa rõ nét gây nên tình trạng chồng chéo trách nhiệm, quyền hạn giữa các cơ 
quan quản lý NSNN... Do vậy, việc quản lý NSNN đôi khi xử lý chậm chạp, bị động, không 
phù hợp, hiệu quả chưa cao. Đây là những vấn đề bức xúc trong quản lý ngân sách hiện nay. 
Chính vì vậy, cần thiết phải đánh giá lại việc thực hiện quy trình và phân cấp quản lý ngân 
sách trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và những vấn đề đặt ra từ thực tiễn do quản lý chưa đồng 
bộ, phân cấp chưa hợp lý, để tìm giải pháp phù hợp góp phần hoàn thiện quản lý NSNN, 
nhằm thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đề ra. 
Với lý do đó, tôi chọn đề tài: " Hoàn thiện quy trỡnh và phõn cấp quản lý ngõn 
sỏch nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ngói " làm luận văn thạc sĩ kinh tế. 
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 
Nghiên cứu về quản lý NSNN đã có nhiều công trình của các nhà khoa học đề cập 
đến những khía cạnh riêng, với qui mô rộng, hẹp khác nhau, trong điều kiện thời gian khác 
nhau, chẳng hạn các công trình: 
- Đổi mới ngân sách Nhà nước của Tào Hữu Phùng, Nguyễn Công Nghiệp, Nxb 
Thống kê, Hà Nội, 1992. 
- Ngân sách Nhà nước của Lê Văn ái, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1992. 
- Đổi mới chính sách tài khóa đáp ứng yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 
2000 - 2010 của Bùi Đường Nghiêu, Nxb Tài chính, Hà Nội, 2001. 
- Đổi mới phân cấp NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, luận văn thạc sĩ kinh tế của 
Nguyễn Lương Thăng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000. 
Song chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu một cách có hệ thống về hoàn 
thiện quy trình và phân cấp quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. 
Để thực hiện đề tài tôi có kế thừa một số ý tưởng của các công trình đã công bố, kết 
hợp với thực trạng tại địa phương để đề xuất giải pháp thiết thực góp phần vào thực tiễn 
quản lý ngân sách hiện nay. 
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 
- Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực 
tiễn về quy trình và phân cấp quản lý NSNN, đề xuất giải pháp hoàn thiện hai nội dung trên 
ở địa phương. 
- Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: 
+ Phân tích luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về NSNN và sự cần thiết khách 
quan phải hoàn thiện quy trình và phân cấp quản lý NSNN. 
+ Phân tích thực trạng việc thực hiện quy trình và phân cấp quản lý ngân sách hiện 
nay ở tỉnh Quảng Ngãi, rút ra những mặt đạt được, những hạn chế và nguyên nhân. 
+ Đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình và phân cấp 
quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh. 
- Phạm vi nghiên cứu: Trong luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm vi 
quy trình quản lý NSNN và phân cấp quản lý NSNN, các nội dung khác của quản lý NSNN 
được đề cập chỉ nhằm làm rõ thêm hai nội dung trên. Phạm vi giới hạn trong thời gian 4 
năm 1998, 1999, 2000 và 2001 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. 
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
- Cơ sở lý luận: 
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch 
sử và các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm 
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật hiện hành của Nhà nước. 
- Phương pháp nghiên cứu: 
Luận văn sử dụng phương pháp luận khoa học, phương pháp diễn dịch qui nạp, 
phương pháp phân tích - khái quát, phương pháp hạch toán thống kê, kết hợp với khảo cứu 
thực tiễn và các tài liệu khác có liên quan. 
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài 
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý quy trình và phân cấp quản lý 
NSNN trên địa bàn cấp tỉnh. 
- Phân tích làm rõ thực trạng quản lý NSNN, tìm ra những vấn đề chưa hoàn thiện 
trong các văn bản quy định và thực hiện chưa đúng hoặc chưa hợp lý trong tổ chức quản lý 
cụ thể tại địa bàn khảo sát. 
- Đề xuất những vấn đề có tính khả thi để hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, trách 
nhiệm, quyền hạn quản lý ngân sách, phù hợp với yêu cầu quản lý hiện nay và nhiệm vụ 
phát triển kinh tế - xã hội địa phương. 
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 
- Tài liệu dùng tham khảo cho công việc nghiên cứu, giảng dạy, hoạch định các 
chính sách quản lý nhà nước và quản lý NSNN. 
- Tài liệu giúp cho các nhà quản lý ở địa phương tham khảo để vận dụng vào công 
tác quản lý NSNN. 
7. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 
3 chương, 8 tiết. 
Chương 1 
Những vấn đề cơ bản về ngân sách Nhà nước 
và sự cần thiết hoàn thiện quy trình phân cấp 
quản lý ngân sách Nhà nước 
1.1. Những vấn đề cơ bản về ngân sách nhà nước 
1.1.1. Bản chất của ngân sách nhà nước 
Lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế bao 
giờ cũng gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước và sự tồn tại phát triển kinh tế của mỗi 
quốc gia. 
Khái niệm NSNN xuất hiện sau khái niệm Nhà nước. Sự xuất hiện của Nhà nước 
đòi hỏi cần phải có nguồn tài lực để đáp ứng các khoản chi tiêu 
của mình. 
Đó là điều kiện cần để xuất hiện NSNN; song khái niệm NSNN ra đời khi quan hệ 
hàng hóa - tiền tệ phát triển mạnh, đó là điều kiện đủ để xuất hiện NSNN. Ngày nay hệ 
thống NSNN phát triển đầy đủ ở mọi quốc gia, song quan niệm về NSNN vẫn chưa có sự 
thống nhất. 
Trong chế độ phong kiến thường chưa có các văn bản tài chính thống nhất, bao quát 
toàn bộ các khoản thu và chi của Nhà nước mà việc thu, chi của Nhà nước thường rất tuỳ 
tiện không chịu ràng buộc bởi sự kiểm soát nào. Khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa 
(TBCN) ra đời nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ, giai cấp tư sản đấu tranh nhằm có 
được môi trường tài chính, chế độ thuế khóa rõ ràng để tự do hoạt động kinh doanh. Kết quả 
cuộc đấu tranh đó Nhà nước TBCN đã xây dựng một thể chế tài chính mới; lúc này, các 
nhân tố của NSNN mới hội tụ đầy đủ và NSNN từng bước được hình thành hoàn chỉnh; đó 
là một ngân sách được thiết lập và phê chuẩn bởi Nhà nước. Thuật ngữ NSNN được dùng từ 
đó. 
Theo Luật NSNN được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa 
XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20 tháng 3 năm 1996 và có hiệu lực thi hành từ năm 1997, 
tại Điều 1 quy định: "Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong 
dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một 
năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước" [19, tr. 19-20]. 
Hoạt động của NSNN được biểu hiện thông qua các hiện tượng, bị ràng buộc bởi 
những nội dung bên trong hết sức chặt chẽ, đó là dự toán thu, chi bằng tiền của Nhà nước 
trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Đặc trưng của ngân sách: 
- Các khoản thu NSNN phần lớn đều mang tính chất cưỡng bức, còn các khoản chi 
lại mang tính cấp phát [16, tr. 8-13]. NSNN khác với ngân sách của các chủ thể ở chỗ dự 
toán thu, chi của nó được thể chế hóa bằng luật pháp và do luật định của Nhà nước. Nguồn 
thu của NSNN do Luật Thuế và các văn bản khác qui định; còn chi NSNN thì căn cứ vào 
điều kiện kinh tế, tình hình tài chính quốc gia, nhu cầu chi và hệ thống định mức, tiêu chuẩn 
do cấp Nhà nước có thẩm quyền ban hành để lập dự toán chi. 
- Mọi hoạt động của NSNN đều là hoạt động phân phối bằng tiền của các chủ thể 
nào đó, tạo mối quan hệ giữa các chủ thể một bên là Nhà nước với một bên là xã hội. Như 
vậy, thực chất của hoạt động này là hoạt động phân phối các nguồn tài chính trong nền kinh 
tế - xã hội. 
Như vậy, bản chất của NSNN được quan sát qua hai khía cạnh bộc lộ, đó là: 
Về nội dung vật chất: Là các khoản thu và chi NSNN. Các khoản thu vào NSNN từ 
nền kinh tế phần lớn đều mang tính bắt buộc của Nhà nước, Nhà nước đã sử dụng quyền lập 
pháp để qui định hệ thống pháp luật tài chính và thuế khoá để động viên các nguồn lực vào 
tay Nhà nước. Tính chất bắt buộc các nguồn thu này không mang ý nghĩa tiêu cực, bởi vì 
mọi người trong diện động viên nguồn thu đều hiểu được nghĩa vụ của mình và tầm quan 
trọng của NSNN đối với sự ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội mà Nhà nước 
có chức năng điều hành. 
Các khoản chi NSNN cho hoạt động và phát triển kinh tế - xã hội mang tính cấp 
phát (không hoàn lại trực tiếp) gồm chi cho đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Đây là 
nội dung quan trọng, dựa vào quyền lực và khả năng tài chính của mình mà Nhà nước thực 
hiện chức năng quản lý kinh tế - xã hội của mình. Như vậy, vai trò của Nhà nước mang yếu 
tố quyết định đến tính chất, qui mô hoạt động của NSNN. 
Về nội dung kinh tế - xã hội: Đó là các quan hệ kinh tế thuộc nội dung NSNN chỉ 
nảy sinh trong quá trình phân phối giá trị của cải xã hội, nó chịu 
sự điều chỉnh của Nhà nước theo những yêu cầu quản lý trong từng giai đoạn lịch sử. 
Việc phân phối và phân phối lại các nguồn lực tài chính để hình thành nguồn thu 
của Nhà nước, dù thực hiện dưới hình thức nào, thực chất cũng là quá trình giải quyết lợi 
ích kinh tế giữa Nhà nước và xã hội. Phân phối nguồn lực tài chính là kết quả tài chính của 
các đơn vị kinh tế được chia thành hai phần, phần nộp cho NSNN và phần để lại cho các 
thành viên của đơn vị. Thông qua phần nộp NSNN, Nhà nước tiếp tục phân phối lại qua các 
khoản cấp phát ngân sách cho mục đích tiêu dùng và đầu tư. Do vậy có thể thấy rằng, mối 
quan hệ kinh tế - xã hội của NSNN là quan hệ ở phạm vi rộng lớn liên quan đến mọi khu 
vực của nền kinh tế quốc dân [39]. 
Với quyền lực tối cao của mình, Nhà nước có thể sử dụng các công cụ sẵn có để bắt 
buộc mỗi thành viên trong xã hội cung cấp cho mình các nguồn lực tài chính cần thiết. Song 
các chủ thể sản xuất - kinh doanh, các thành viên trong xã hội thì luôn đấu tranh để bảo vệ 
lợi ích kinh tế của mình. Nghĩa là, Nhà nước không thể dựa vào quyền lực của mình để huy 
động sự đóng góp của xã hội dưới bất kỳ hình thức nào, bằng mọi giá phải có giới hạn hợp 
lí, đó chính là việc giải quyết hài hoà lợi ích kinh tế nhà nước và xã hội. Nếu chỉ chú trọng 
đến lợi ích của Nhà nước mà không chú trọng đến lợi ích của xã hội thì quan hệ giữa Nhà 
nước và xã hội trở nên căng thẳng, sản xuất đình trệ, đời sống nhân dân bị bần cùng. 
Mọi hoạt động thu, chi của NSNN đều nhằm tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài 
chính, nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội. 
Do đó, có thể kết luận về bản chất NSNN như sau: NSNN là hệ thống các mối quan hệ giữa 
Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài 
chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế - xã hội 
của mình. 
1.1.2. Chức năng của ngân sách nhà nước 
Trong thời gian dài nhiều nhà kinh tế đều cho rằng, NSNN có hai chức năng là phân 
phối và giám đốc, mỗi chức năng có những đặc trưng riêng. Chức năng phân phối bao gồm: 
phân phối lần đầu là phân phối lại giá trị tổng sản phẩm xã hội, cùng với các nguồn tài chính 
khác dưới hình thức động viên các nguồn thu vào NSNN theo các luật định như thuế, phí, lệ 
phí và các văn bản khác, sau đó phân phối lại thông qua các khoản chi đầu tư phát triển và 
chi thường xuyên cho nền kinh tế - xã hội. Chức năng giám đốc là hệ quả của chức năng 
phân phối, tùy thuộc vào việc triển khai chức năng phân phối, chức năng giám đốc của 
NSNN là việc kiểm tra, kiểm soát tình hình thu, chi NSNN, nhưng nếu chỉ nhìn nhận ở phạm 
vi hai chức năng trên của NSNN thì chức năng của NSNN chỉ mới có ý nghĩa quá trình 
phân chia số học, chưa thể hiện rõ ý nghĩa kinh tế tổng hợp và bao quát của chức năng. 
Bản chất, chức năng của Nhà nước quyết định bản chất, chức năng của NSNN. Hoạt 
động của NSNN, thực chất là hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực tài chính. Nhà nước ra 
đời và tồn tại đều phải có nguồn lực tài chính để chi tiêu, phục vụ cho việc duy trì bộ máy 
quản lý và phát triển kinh tế - xã hội. Chức năng của NSNN phải có nhiệm vụ thống nhất 
tập hợp các khoản thu và các khoản chi, sự thống nhất đó thể hiện cả hệ thống ngân sách, 
nghĩa là luôn giữ vững mối quan hệ và loại bỏ sự tuỳ tiện giữa thu và chi ngân sách trong 
phạm vi thời gian ấn định không tách rời nhau. 
Như vậy nguyên nhân ra đời và tồn tại của ngân sách là sự cần thiết tập hợp, cân đối 
thu, chi của Nhà nước; các khoản thu phải thực hiện theo luật định, các khoản chi phải dựa 
vào tiêu chuẩn, định mức và dự toán được cấp có thẩm quyền nhà nước phê duyệt. Việc tập 
hợp cân đối thu, chi ngân sách là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực tài chính quốc 
gia; thông qua đó mà thực hiện kiểm tra, giám sát việc thu, chi ngân sách có đúng luật định 
và hiệu quả hay không. Từ đó ta có thể kết luận chức năng của NSNN là: 
- Huy động nguồn tài chính và đảm bảo các nhu cầu chi tiêu theo dự toán nhà nước. 
- Thực hiện cân đối giữa khoản thu và các khoản chi (bằng tiền) của Nhà nước [16, 
tr. 8-13]. 
1.1.3. Vai trò của ngân sách nhà nước 
Vai trò của NSNN được xác định trên cơ sở các chức năng và nhiệm vụ cụ thể của 
nó trong từng giai đoạn. Theo yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước thì vai 
trò NSNN cũng được thể hiện khác nhau tùy theo từng thời kỳ phát triển kinh tế và cơ chế 
quản lý tương ứng với từng thời kỳ đó. Vì vậy, vai trò của NSNN là khâu chủ đạo trong hệ 
thống tài chính, là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện điều hành vĩ mô và toàn bộ 
đời sống kinh tế - xã hội. Với quan điểm đó, vai trò NSNN thể hiện nội dung cơ bản sau 
đây: 
* Huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, đồng 
thời NSNN thực hiện cân đối giữa các khoản thu và các khoản chi (bằng tiền) của Nhà nước 
[16, tr. 20-190]. Đây là vai trò lịch sử của NSNN mà bất cứ cơ chế kinh tế nào, hình thái 
kinh tế - xã hội nào cũng phải thực hiện. 
* Điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội. 
Trong thời kỳ kinh tế hiện vật với cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp... công cụ tài 
chính không phát huy được vai trò và vị trí của mình. Hoạt động tài chính luôn ở thế bị động 
và nặng về nguyên tắc hành chính, các quan hệ tài chính chỉ chủ yếu tác động trong phạm vi 
nhỏ hẹp, bản thân nguồn tài chính mang tính chất đơn điệu. Nhận thức về các quan hệ tài 
chính nói chung và quan hệ ngân sách nói riêng chưa thật đầy đủ, rõ ràng. Các quan hệ tài 
chính lúc đó chủ yếu là quan hệ thu, chi trong phạm vi tài chính nhà nước với nét đặc trưng 
là quan hệ giao nộp cấp phát [13, tr. 29]. 
- Điều chỉnh cơ cấu kinh tế thông qua các hoạt động thu, chi: 
Thông qua các sắc thuế, là công cụ của NSNN và là nguồn thu chủ yếu của NSNN, 
có tác dụng để khuyến khích, mở rộng sản xuất. Những mặt hàng sản xuất trong nước, hàng 
xuất khẩu cần khuyến khích và tạo điều kiện cho cạnh tranh với hàng hóa trong khu vực và 
trên thế giới, nhất là hiện nay Việt Nam đã bắt đầu có những động thái hòa nhập thương mại 
với Mỹ, thế giới, đang đứng trước thời cơ và thách thức mới; cho nên cần phải có chính 
sách động viên NSNN hợp lý... Chính vì thế, thông qua chính sách thuế, không chỉ tập trung 
nguồn thu cho NSNN mà còn góp phần thực hiện vai trò định hướng đầu tư, điều chỉnh cơ 
cấu nền kinh tế phát triển theo hướng tích cực, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh 
[20, tr. 32]. 
Ngoài công cụ thuế còn có khoản thu từ nguồn vay nợ trong nước và ngoài nước sẽ 
tạo thêm nguồn vốn cho NSNN, vấn đề là việc sử dụng nguồn vốn vay sao cho đúng hướng, 
có chế độ quản lý hợp lý để có hiệu quả. Nếu không sử dụng tốt thì đây là khoản nợ lớn của 
ngân sách, càng làm cho ngân sách khó khăn bởi gánh nợ chi trả. 
Thông qua chi đầu tư của NSNN cho xây dựng, kết cấu hạ tầng như xây dựng giao 
thông, thủy lợi, điện, nước, bưu điện đã tạo được môi trường kết cấu hạ tầng thuận lợi cho 
phát triển sản xuất kinh doanh. Ngân sách còn dành vốn đầu tư để hình thành các doanh 
nghiệp then chốt, mũi nhọn có tác dụng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và 
vùng lãnh thổ, và cuối cùng tác động đến tăng trưởng kinh tế và là một biện pháp để chống 
độc quyền, thực hiện các chính sách ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh 
miền núi, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp công ích đã tạo điều kiện hỗ trợ cho sự phát 
triển doanh nghiệp và góp phần điều chỉnh hoạt động kinh tế - xã hội giữa các vùng đảm 
bảo hợp lý hơn [2, tr. 83-86]. 
- Đảm bảo công bằng xã hội: 
Vai trò quan trọng nhất của NSNN về mặt xã hội là từ nguồn thu huy động được, 
NSNN chi đầu tư và phân phối thông qua dự toán chi NSNN cho các ngành và mọi lĩnh vực 
xã hội, đảm bảo cho Nhà nước thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình. 
NSNN chi phối toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội từ tiêu dùng, thu nhập cho đến các 
vấn đề kinh tế, xã hội; quan hệ chi tiêu liên quan đến mọi lĩnh vực như chi cho hoạt động 
của bộ máy nhà nước, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, chi cho giáo dục, y tế, văn 
hóa, xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ cho các đối tượng chính sách và chi cho nhiệm vụ xã hội 
khác... Những khoản chi này của NSNN thường được gom thành hai nhóm; chi thường 
xuyên để duy trì bộ máy nhà nước và chi phục vụ cho đầu tư phát triển. Quan hệ chi tiêu 
NSNN tỷ lệ tương quan giữa các nhóm, giữa các khoản mục chi tiêu, tốc độ tăng, giảm, chi 
thứ tự của ưu tiên cấp phát chi... không những chỉ phản ánh vấn đề có quan hệ kinh tế quan 
trọng mà còn có ý nghĩa giai cấp, dân tộc và các vấn đề chính trị, xã hội. 
- ổn định giá cả thị trường và chống lạm phát. Bằng các công cụ thu và các chính 
sách chi ngân sách, Nhà nước có thể điều chỉnh giá cả thị trường một cách chủ động. Mối 
quan hệ giữa giá cả, thuế và dự trữ nhà nước có ảnh hưởng sâu sắc tới tình hình thị trường. 
Quản lý nhà nước về thị trường, Nhà nước tác động vĩ mô thông qua các chính sách để định 
hướng, tạo hành lang cho thị trường hàng hóa phát triển mạnh và ổn định. Trong trường hợp 
thị trường có biến động mạnh về giá cả, để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng Nhà 
nước sử dụng nguồn dự trữ hàng hóa và tài chính để ổn định, điều hòa quan hệ cung - cầu, 
bình ổn sản xuất kinh doanh. Nguồn dự trữ này hình thành từ kinh phí cấp phát của NSNN 
[2, tr. 95]. 
1.2. Quy trình và phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 
1.2.1. Quản lý và chu trình quản lý ngân sách nhà nước 
Quản lý NSNN là quá trình Nhà nước vận dụng các chức năng của NSNN để hoạch 
định chính sách, chế độ; sử dụng hệ thống các phương pháp thích hợp tác động đến các hoạt 
động thu - chi của NSNN, làm cho chúng vận động theo yêu cầu khách quan của nền kinh tế 
- xã hội, nhằm phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện các chức năng do Nhà nước đảm nhận. 
Quản lý NSNN được thể hiện qua việc hoạch định các chính sách, cơ chế quản lý và 
Luật NSNN. Việc hoạch định chính sác