Ngân sách nhà nước (NSNN) là bộ phận cơ bản, là khâu chủ đạo, có vị trí, vai trò
đặc biệt quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, đồng thời là công cụ tài chính để
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với hoạt động kinh tế - xã hội của đất
nước trong từng giai đoạn phát triển.
Những năm qua, cùng với quá trình đổi mới kinh tế nói chung, việc quản lý, điều
hành NSNN đã có những đổi mới căn bản và từng bước được hoàn thiện góp phần thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, giải quyết được những vấn đề bức thiết về kinh tế -xã hội kể từ khi Luật NSNN ra đời và bắt đầu có hiệu lực từ năm 1997, đánh dấu bước
đổi mới quan trọng trong lĩnh vực quản lý NSNN. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cho đến
nay cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu sửa đổi bổ sung cho phù hợp
với thực tiễn.
Quảng Ngãi là một tỉnh thuộc Nam Trung Bộ có nguồn thu còn hạn hẹp, trong
khi nhu cầu chi cho đầu tư phát triển ngày càng lớn, đòi hỏi quản lý ngân sách cần phải
được hoàn thiện. Trong thực tế các biện pháp quản lý NSNN còn những vấn đề như: Quy
trình NSNN chưa được tiêu chuẩn hóa và chưa thống nhất hóa, các chỉ tiêu tài chính,
ngân sách còn rất phức tạp, chưa đồng bộ, chưa tính đến sự biến đổi trong quá trình vận
động...; phân cấp quản lý chưa rõ nét gây nên tình trạng chồng chéo trách nhiệm, quyền
hạn giữa các cơ quan quản lý NSNN... Do vậy, việc quản lý NSNN đôi khi xử lý chậm
chạp, bị động, không phù hợp, hiệu quả chưa cao. Đây là những vấn đề bức xúc trong
quản lý ngân sách hiện nay. Chính vì vậy, cần thiết phải đánh giá lại việc thực hiện quy
trình và phân cấp quản lý ngân sách trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và những vấn đề đặt ra
từ thực tiễn do quản lý chưa đồng bộ, phân cấp chưa hợp lý, để tìm giải pháp phù hợp
góp phần hoàn thiện quản lý NSNN, nhằm thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội
do Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đề ra.
Với lý do đó, tôi chọn đề tài: "Hoàn thiện quy trình và phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi" làm luận văn thạc sĩ kinh tế.
114 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2040 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện quy trình và phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện quy trình và phân cấp
quản lý ngân sách nhà nước trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân sách nhà nước (NSNN) là bộ phận cơ bản, là khâu chủ đạo, có vị trí, vai trò
đặc biệt quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, đồng thời là công cụ tài chính để
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với hoạt động kinh tế - xã hội của đất
nước trong từng giai đoạn phát triển.
Những năm qua, cùng với quá trình đổi mới kinh tế nói chung, việc quản lý, điều
hành NSNN đã có những đổi mới căn bản và từng bước được hoàn thiện góp phần thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, giải quyết được những vấn đề bức thiết về kinh tế -
xã hội kể từ khi Luật NSNN ra đời và bắt đầu có hiệu lực từ năm 1997, đánh dấu bước
đổi mới quan trọng trong lĩnh vực quản lý NSNN. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cho đến
nay cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu sửa đổi bổ sung cho phù hợp
với thực tiễn.
Quảng Ngãi là một tỉnh thuộc Nam Trung Bộ có nguồn thu còn hạn hẹp, trong
khi nhu cầu chi cho đầu tư phát triển ngày càng lớn, đòi hỏi quản lý ngân sách cần phải
được hoàn thiện. Trong thực tế các biện pháp quản lý NSNN còn những vấn đề như: Quy
trình NSNN chưa được tiêu chuẩn hóa và chưa thống nhất hóa, các chỉ tiêu tài chính,
ngân sách còn rất phức tạp, chưa đồng bộ, chưa tính đến sự biến đổi trong quá trình vận
động...; phân cấp quản lý chưa rõ nét gây nên tình trạng chồng chéo trách nhiệm, quyền
hạn giữa các cơ quan quản lý NSNN... Do vậy, việc quản lý NSNN đôi khi xử lý chậm
chạp, bị động, không phù hợp, hiệu quả chưa cao. Đây là những vấn đề bức xúc trong
quản lý ngân sách hiện nay. Chính vì vậy, cần thiết phải đánh giá lại việc thực hiện quy
trình và phân cấp quản lý ngân sách trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và những vấn đề đặt ra
từ thực tiễn do quản lý chưa đồng bộ, phân cấp chưa hợp lý, để tìm giải pháp phù hợp
góp phần hoàn thiện quản lý NSNN, nhằm thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội
do Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đề ra.
Với lý do đó, tôi chọn đề tài: "Hoàn thiện quy trình và phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi" làm luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về quản lý NSNN đã có nhiều công trình của các nhà khoa học đề
cập đến những khía cạnh riêng, với qui mô rộng, hẹp khác nhau, trong điều kiện thời gian
khác nhau, chẳng hạn các công trình:
- Đổi mới ngân sách Nhà nước của Tào Hữu Phùng, Nguyễn Công Nghiệp, Nxb
Thống kê, Hà Nội, 1992.
- Ngân sách Nhà nước của Lê Văn ái, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1992.
- Đổi mới chính sách tài khóa đáp ứng yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2000 - 2010 của Bùi Đường Nghiêu, Nxb Tài chính, Hà Nội, 2001.
- Đổi mới phân cấp NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, luận văn thạc sĩ kinh tế
của Nguyễn Lương Thăng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000.
Song chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu một cách có hệ thống về hoàn
thiện quy trình và phân cấp quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Để thực hiện đề tài tôi có kế thừa một số ý tưởng của các công trình đã công bố,
kết hợp với thực trạng tại địa phương để đề xuất giải pháp thiết thực góp phần vào thực
tiễn quản lý ngân sách hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn về quy trình và phân cấp quản lý NSNN, đề xuất giải pháp hoàn thiện hai nội dung
trên ở địa phương.
- Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về NSNN và sự cần thiết
khách quan phải hoàn thiện quy trình và phân cấp quản lý NSNN.
+ Phân tích thực trạng việc thực hiện quy trình và phân cấp quản lý ngân sách
hiện nay ở tỉnh Quảng Ngãi, rút ra những mặt đạt được, những hạn chế và nguyên nhân.
+ Đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình và phân cấp
quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm
vi quy trình quản lý NSNN và phân cấp quản lý NSNN, các nội dung khác của quản lý
NSNN được đề cập chỉ nhằm làm rõ thêm hai nội dung trên. Phạm vi giới hạn trong thời
gian 4 năm 1998, 1999, 2000 và 2001 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử và các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan
điểm đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật hiện hành của Nhà nước.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp luận khoa học, phương pháp diễn dịch qui nạp,
phương pháp phân tích - khái quát, phương pháp hạch toán thống kê, kết hợp với khảo
cứu thực tiễn và các tài liệu khác có liên quan.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý quy trình và phân cấp quản
lý NSNN trên địa bàn cấp tỉnh.
- Phân tích làm rõ thực trạng quản lý NSNN, tìm ra những vấn đề chưa hoàn
thiện trong các văn bản quy định và thực hiện chưa đúng hoặc chưa hợp lý trong tổ chức
quản lý cụ thể tại địa bàn khảo sát.
- Đề xuất những vấn đề có tính khả thi để hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, trách
nhiệm, quyền hạn quản lý ngân sách, phù hợp với yêu cầu quản lý hiện nay và nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Tài liệu dùng tham khảo cho công việc nghiên cứu, giảng dạy, hoạch định các
chính sách quản lý nhà nước và quản lý NSNN.
- Tài liệu giúp cho các nhà quản lý ở địa phương tham khảo để vận dụng vào
công tác quản lý NSNN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về ngân sách nhà nước và sự
cần thiết hoàn thiện quy trình và phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước
5
1.1. Những vấn đề cơ bản về ngân sách nhà nước 5
1.2. Quy trình và phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 12
1.3. Yêu cầu hoàn thiện quy trình và phân cấp quản lý ngân sách nhà
nước
25
Chương 2: Thực trạng tổ chức quy trình và phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước ở tỉnh Quảng Ngãi (1998 -
2001)
32
2.1. Đặc điểm chủ yếu của tỉnh Quảng Ngãi chi phối hoạt động quản lý
ngân sách nhà nước địa phương
32
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện quy trình và phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước ở tỉnh Quảng Ngãi (1998 - 2002)
42
2.3. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân trong việc thực hiện quy
trình và phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi
58
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu hoàn thiện quy
trình và phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở
tỉnh Quảng Ngãi
66
3.1. Phương hướng chung 66
3.2. Giải pháp chủ yếu hoàn thiện nội dung quy trình và phân cấp quản 79
lý ngân sách ở tỉnh Quảng Ngãi
Kết luận 94
danh mục tài liệu tham khảo 96
phụ lục 99
Chương 1
Những vấn đề cơ bản về ngân sách Nhà nước
và sự cần thiết hoàn thiện quy trình phân cấp
quản lý ngân sách Nhà nước
1.1. Những vấn đề cơ bản về ngân sách nhà nước
1.1.1. Bản chất của ngân sách nhà nước
Lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế
bao giờ cũng gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước và sự tồn tại phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia.
Khái niệm NSNN xuất hiện sau khái niệm Nhà nước. Sự xuất hiện của Nhà nước
đòi hỏi cần phải có nguồn tài lực để đáp ứng các khoản chi tiêu
của mình.
Đó là điều kiện cần để xuất hiện NSNN; song khái niệm NSNN ra đời khi quan
hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển mạnh, đó là điều kiện đủ để xuất hiện NSNN. Ngày nay
hệ thống NSNN phát triển đầy đủ ở mọi quốc gia, song quan niệm về NSNN vẫn chưa có
sự thống nhất.
Trong chế độ phong kiến thường chưa có các văn bản tài chính thống nhất, bao
quát toàn bộ các khoản thu và chi của Nhà nước mà việc thu, chi của Nhà nước thường
rất tuỳ tiện không chịu ràng buộc bởi sự kiểm soát nào. Khi phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa (TBCN) ra đời nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ, giai cấp tư sản đấu
tranh nhằm có được môi trường tài chính, chế độ thuế khóa rõ ràng để tự do hoạt động
kinh doanh. Kết quả cuộc đấu tranh đó Nhà nước TBCN đã xây dựng một thể chế tài
chính mới; lúc này, các nhân tố của NSNN mới hội tụ đầy đủ và NSNN từng bước được
hình thành hoàn chỉnh; đó là một ngân sách được thiết lập và phê chuẩn bởi Nhà nước.
Thuật ngữ NSNN được dùng từ đó.
Theo Luật NSNN được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20 tháng 3 năm 1996 và có hiệu lực thi hành từ
năm 1997, tại Điều 1 quy định: "Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của
Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước"
[19, tr. 19-20].
Hoạt động của NSNN được biểu hiện thông qua các hiện tượng, bị ràng buộc bởi
những nội dung bên trong hết sức chặt chẽ, đó là dự toán thu, chi bằng tiền của Nhà nước
trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Đặc trưng của ngân sách:
- Các khoản thu NSNN phần lớn đều mang tính chất cưỡng bức, còn các khoản
chi lại mang tính cấp phát [16, tr. 8-13]. NSNN khác với ngân sách của các chủ thể ở chỗ
dự toán thu, chi của nó được thể chế hóa bằng luật pháp và do luật định của Nhà nước.
Nguồn thu của NSNN do Luật Thuế và các văn bản khác qui định; còn chi NSNN thì căn
cứ vào điều kiện kinh tế, tình hình tài chính quốc gia, nhu cầu chi và hệ thống định mức,
tiêu chuẩn do cấp Nhà nước có thẩm quyền ban hành để lập dự toán chi.
- Mọi hoạt động của NSNN đều là hoạt động phân phối bằng tiền của các chủ thể
nào đó, tạo mối quan hệ giữa các chủ thể một bên là Nhà nước với một bên là xã hội.
Như vậy, thực chất của hoạt động này là hoạt động phân phối các nguồn tài chính trong
nền kinh tế - xã hội.
Như vậy, bản chất của NSNN được quan sát qua hai khía cạnh bộc lộ, đó là:
Về nội dung vật chất: Là các khoản thu và chi NSNN. Các khoản thu vào NSNN
từ nền kinh tế phần lớn đều mang tính bắt buộc của Nhà nước, Nhà nước đã sử dụng
quyền lập pháp để qui định hệ thống pháp luật tài chính và thuế khoá để động viên các
nguồn lực vào tay Nhà nước. Tính chất bắt buộc các nguồn thu này không mang ý nghĩa
tiêu cực, bởi vì mọi người trong diện động viên nguồn thu đều hiểu được nghĩa vụ của
mình và tầm quan trọng của NSNN đối với sự ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế -
xã hội mà Nhà nước có chức năng điều hành.
Các khoản chi NSNN cho hoạt động và phát triển kinh tế - xã hội mang tính cấp
phát (không hoàn lại trực tiếp) gồm chi cho đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Đây là
nội dung quan trọng, dựa vào quyền lực và khả năng tài chính của mình mà Nhà nước
thực hiện chức năng quản lý kinh tế - xã hội của mình. Như vậy, vai trò của Nhà nước
mang yếu tố quyết định đến tính chất, qui mô hoạt động của NSNN.
Về nội dung kinh tế - xã hội: Đó là các quan hệ kinh tế thuộc nội dung NSNN chỉ
nảy sinh trong quá trình phân phối giá trị của cải xã hội, nó chịu
sự điều chỉnh của Nhà nước theo những yêu cầu quản lý trong từng giai đoạn lịch sử.
Việc phân phối và phân phối lại các nguồn lực tài chính để hình thành nguồn thu
của Nhà nước, dù thực hiện dưới hình thức nào, thực chất cũng là quá trình giải quyết lợi
ích kinh tế giữa Nhà nước và xã hội. Phân phối nguồn lực tài chính là kết quả tài chính
của các đơn vị kinh tế được chia thành hai phần, phần nộp cho NSNN và phần để lại cho
các thành viên của đơn vị. Thông qua phần nộp NSNN, Nhà nước tiếp tục phân phối lại
qua các khoản cấp phát ngân sách cho mục đích tiêu dùng và đầu tư. Do vậy có thể thấy
rằng, mối quan hệ kinh tế - xã hội của NSNN là quan hệ ở phạm vi rộng lớn liên quan
đến mọi khu vực của nền kinh tế quốc dân [39].
Với quyền lực tối cao của mình, Nhà nước có thể sử dụng các công cụ sẵn có để
bắt buộc mỗi thành viên trong xã hội cung cấp cho mình các nguồn lực tài chính cần
thiết. Song các chủ thể sản xuất - kinh doanh, các thành viên trong xã hội thì luôn đấu
tranh để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình. Nghĩa là, Nhà nước không thể dựa vào quyền
lực của mình để huy động sự đóng góp của xã hội dưới bất kỳ hình thức nào, bằng mọi
giá phải có giới hạn hợp lí, đó chính là việc giải quyết hài hoà lợi ích kinh tế nhà nước và
xã hội. Nếu chỉ chú trọng đến lợi ích của Nhà nước mà không chú trọng đến lợi ích của
xã hội thì quan hệ giữa Nhà nước và xã hội trở nên căng thẳng, sản xuất đình trệ, đời
sống nhân dân bị bần cùng.
Mọi hoạt động thu, chi của NSNN đều nhằm tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài
chính, nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã
hội. Do đó, có thể kết luận về bản chất NSNN như sau: NSNN là hệ thống các mối quan
hệ giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các
nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng quản lý và điều hành nền
kinh tế - xã hội của mình.
1.1.2. Chức năng của ngân sách nhà nước
Trong thời gian dài nhiều nhà kinh tế đều cho rằng, NSNN có hai chức năng là
phân phối và giám đốc, mỗi chức năng có những đặc trưng riêng. Chức năng phân phối
bao gồm: phân phối lần đầu là phân phối lại giá trị tổng sản phẩm xã hội, cùng với các
nguồn tài chính khác dưới hình thức động viên các nguồn thu vào NSNN theo các luật
định như thuế, phí, lệ phí và các văn bản khác, sau đó phân phối lại thông qua các khoản
chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên cho nền kinh tế - xã hội. Chức năng giám đốc là
hệ quả của chức năng phân phối, tùy thuộc vào việc triển khai chức năng phân phối, chức
năng giám đốc của NSNN là việc kiểm tra, kiểm soát tình hình thu, chi NSNN, nhưng nếu
chỉ nhìn nhận ở phạm vi hai chức năng trên của NSNN thì chức năng của NSNN chỉ mới
có ý nghĩa quá trình phân chia số học, chưa thể hiện rõ ý nghĩa kinh tế tổng hợp và bao
quát của chức năng.
Bản chất, chức năng của Nhà nước quyết định bản chất, chức năng của NSNN.
Hoạt động của NSNN, thực chất là hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực tài chính. Nhà
nước ra đời và tồn tại đều phải có nguồn lực tài chính để chi tiêu, phục vụ cho việc duy
trì bộ máy quản lý và phát triển kinh tế - xã hội. Chức năng của NSNN phải có nhiệm vụ
thống nhất tập hợp các khoản thu và các khoản chi, sự thống nhất đó thể hiện cả hệ thống
ngân sách, nghĩa là luôn giữ vững mối quan hệ và loại bỏ sự tuỳ tiện giữa thu và chi ngân
sách trong phạm vi thời gian ấn định không tách rời nhau.
Như vậy nguyên nhân ra đời và tồn tại của ngân sách là sự cần thiết tập hợp, cân
đối thu, chi của Nhà nước; các khoản thu phải thực hiện theo luật định, các khoản chi
phải dựa vào tiêu chuẩn, định mức và dự toán được cấp có thẩm quyền nhà nước phê
duyệt. Việc tập hợp cân đối thu, chi ngân sách là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh
vực tài chính quốc gia; thông qua đó mà thực hiện kiểm tra, giám sát việc thu, chi ngân
sách có đúng luật định và hiệu quả hay không. Từ đó ta có thể kết luận chức năng của
NSNN là:
- Huy động nguồn tài chính và đảm bảo các nhu cầu chi tiêu theo dự toán nhà
nước.
- Thực hiện cân đối giữa khoản thu và các khoản chi (bằng tiền) của Nhà nước
[16, tr. 8-13].
1.1.3. Vai trò của ngân sách nhà nước
Vai trò của NSNN được xác định trên cơ sở các chức năng và nhiệm vụ cụ thể
của nó trong từng giai đoạn. Theo yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
thì vai trò NSNN cũng được thể hiện khác nhau tùy theo từng thời kỳ phát triển kinh tế
và cơ chế quản lý tương ứng với từng thời kỳ đó. Vì vậy, vai trò của NSNN là khâu chủ
đạo trong hệ thống tài chính, là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện điều hành vĩ
mô và toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Với quan điểm đó, vai trò NSNN thể hiện nội
dung cơ bản sau đây:
* Huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, đồng
thời NSNN thực hiện cân đối giữa các khoản thu và các khoản chi (bằng tiền) của Nhà
nước [16, tr. 20-190]. Đây là vai trò lịch sử của NSNN mà bất cứ cơ chế kinh tế nào, hình
thái kinh tế - xã hội nào cũng phải thực hiện.
* Điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội.
Trong thời kỳ kinh tế hiện vật với cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp... công cụ
tài chính không phát huy được vai trò và vị trí của mình. Hoạt động tài chính luôn ở thế
bị động và nặng về nguyên tắc hành chính, các quan hệ tài chính chỉ chủ yếu tác động
trong phạm vi nhỏ hẹp, bản thân nguồn tài chính mang tính chất đơn điệu. Nhận thức về
các quan hệ tài chính nói chung và quan hệ ngân sách nói riêng chưa thật đầy đủ, rõ ràng.
Các quan hệ tài chính lúc đó chủ yếu là quan hệ thu, chi trong phạm vi tài chính nhà nước
với nét đặc trưng là quan hệ giao nộp cấp phát [13, tr. 29].
- Điều chỉnh cơ cấu kinh tế thông qua các hoạt động thu, chi:
Thông qua các sắc thuế, là công cụ của NSNN và là nguồn thu chủ yếu của
NSNN, có tác dụng để khuyến khích, mở rộng sản xuất. Những mặt hàng sản xuất trong
nước, hàng xuất khẩu cần khuyến khích và tạo điều kiện cho cạnh tranh với hàng hóa
trong khu vực và trên thế giới, nhất là hiện nay Việt Nam đã bắt đầu có những động thái
hòa nhập thương mại với Mỹ, thế giới, đang đứng trước thời cơ và thách thức mới; cho
nên cần phải có chính sách động viên NSNN hợp lý... Chính vì thế, thông qua chính sách
thuế, không chỉ tập trung nguồn thu cho NSNN mà còn góp phần thực hiện vai trò định
hướng đầu tư, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế phát triển theo hướng tích cực, kích thích
hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh [20, tr. 32].
Ngoài công cụ thuế còn có khoản thu từ nguồn vay nợ trong nước và ngoài nước
sẽ tạo thêm nguồn vốn cho NSNN, vấn đề là việc sử dụng nguồn vốn vay sao cho đúng
hướng, có chế độ quản lý hợp lý để có hiệu quả. Nếu không sử dụng tốt thì đây là khoản
nợ lớn của ngân sách, càng làm cho ngân sách khó khăn bởi gánh nợ chi trả.
Thông qua chi đầu tư của NSNN cho xây dựng, kết cấu hạ tầng như xây dựng
giao thông, thủy lợi, điện, nước, bưu điện đã tạo được môi trường kết cấu hạ tầng thuận
lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh. Ngân sách còn dành vốn đầu tư để hình thành các
doanh nghiệp then chốt, mũi nhọn có tác dụng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
ngành và vùng lãnh thổ, và cuối cùng tác động đến tăng trưởng kinh tế và là một biện
pháp để chống độc quyền, thực hiện các chính sách ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh miền núi, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp công ích đã tạo điều kiện
hỗ trợ cho sự phát triển doanh nghiệp và góp phần điều chỉnh hoạt động kinh tế - xã hội
giữa các vùng đảm bảo hợp lý hơn [2, tr. 83-86].
- Đảm bảo công bằng xã hội:
Vai trò quan trọng nhất của NSNN về mặt xã hội là từ nguồn thu huy động được,
NSNN chi đầu tư và phân phối thông qua dự toán chi NSNN cho các ngành và mọi lĩnh
vực xã hội, đảm bảo cho Nhà nước thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình.
NSNN chi phối toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội từ tiêu dùng, thu nhập cho đến
các vấn đề kinh tế, xã hội; quan hệ chi tiêu liên quan đến mọi lĩnh vực như chi cho hoạt
động của bộ máy nhà nước, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, chi cho giáo dục,
y tế, văn hóa, xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ cho các đối tượng chính sách và chi cho nhiệm
vụ xã hội khác... Những khoản chi này của NSNN thường được gom thành hai nhóm; chi
thường xuyên để duy trì bộ máy nhà nước và chi phục vụ cho đầu tư phát triển. Quan hệ
chi tiêu NSNN tỷ lệ tương quan giữa các nhóm, giữa các khoản mục chi tiêu, tốc độ tăng,
giảm, chi thứ tự của ưu tiên cấp phát chi... không những chỉ phản ánh vấn đề có quan hệ
kinh tế quan trọng mà còn có ý nghĩa giai cấp, dân tộc và các vấn đề chính trị, xã hội.
- ổn định giá cả thị trường và chống lạm phát. Bằng các công cụ thu và các chính
sách chi ngân