Kể từ năm 1996, Đảng và nhà Nước bắt đầu thực hiện việc chuyển  đổi nền kinh tế 
từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà 
Nước và theo định hướng XHCN. Với cơ chế mới này, nền kinh tế của ta không còn là nền 
kinh tế tập thể, hợp tác nữa mà là nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế 
cùng tồn tại song song, cùng bổ xung hỗ trợ cho nhau để cùng tiến lên con đường CNXH. 
Cùng với sự chuyển  đổi nền kinh tế là một môi trường kinh doanh hoàn toàn mới mẻ  đầy 
những thuận lợi, những cơ hội và những thách thức  đối với các doanh nghiệp hoạt  động 
kinh doanh nói chung và với công ty nói riêng và cả với các doanh nghiệp nước ngoài. 
Những bất cập, những hạn chế còn tồn tại  đan xen với những quy luật những quy  định 
mới, khiến các doanh nghiệp phải lao  đao, vất vả trong qua trình tồn tại và phát triển của 
mình trong môi trường kinh  doanh khốc nghiệt  đó. Bên cạnh  đó cũng có nhiều doanh 
nghiệp tự mình tìm ra những cơ hội  để tự khẳng  định mình trong nền kinh tế thị trường 
như hiện nay.
Trước sự thay  đổi  đó, công ty cung  ứng nhân lực quốc tế và thương 
mại(SONA), một công ty  được thành  lập từ rất lâu, cũng  đã phải chải qua nhiều sóng gió 
để tồn tại và phát triển. Sự phát triển lớn mạnh với uy tín, lợi thế của mình trên thương 
trường và đặc biệt là hoạt động kinh doanh thương mại được ra đời từ năm 1997 đã là một 
minh chứng cụ thể về sự thành công trên con đường phát triển của công ty, mặc dù chỉ mới 
ra đời chưa lâu nhưng hoạt động kinh doanh thương mại của công ty cũng đã gặt hái được 
những thành công đáng kể trong hoạt động thương mại của mình. Để có được những thành 
công bước  đầu như vậy là cả một sự lỗ lực của ban quản trị, toàn thể nhân viên của công 
ty. Công ty đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ mà Đảng và Nhà Nước, cục quản lý lao động với 
nước ngoài, BLĐTBXH giao cho. Nghĩa vụ nộp ngân sách cho nhà nước luôn  được thực 
hiện đầy đủ, hơn nữa đời sống của CBCNV ổn định và ngày càng được nâng cao
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 51 trang
51 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2134 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động kinh doanh nhập khẩu của các doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế quốc dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu của 
các doanh nghiệp thương mại trong 
nền kinh tế quốc dân 
Lời mở đầu 
Kể từ năm 1996, Đảng và nhà Nước bắt đầu thực hiện việc chuyển đổi nền kinh tế 
từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà 
Nước và theo định hướng XHCN. Với cơ chế mới này, nền kinh tế của ta không còn là nền 
kinh tế tập thể, hợp tác nữa mà là nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế 
cùng tồn tại song song, cùng bổ xung hỗ trợ cho nhau để cùng tiến lên con đường CNXH. 
Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế là một môi trường kinh doanh hoàn toàn mới mẻ đầy 
những thuận lợi, những cơ hội và những thách thức đối với các doanh nghiệp hoạt động 
kinh doanh nói chung và với công ty nói riêng và cả với các doanh nghiệp nước ngoài. 
Những bất cập, những hạn chế còn tồn tại đan xen với những quy luật những quy định 
mới, khiến các doanh nghiệp phải lao đao, vất vả trong qua trình tồn tại và phát triển của 
mình trong môi trường kinh doanh khốc nghiệt đó. Bên cạnh đó cũng có nhiều doanh 
nghiệp tự mình tìm ra những cơ hội để tự khẳng định mình trong nền kinh tế thị trường 
như hiện nay. 
 Trước sự thay đổi đó, công ty cung ứng nhân lực quốc tế và thương 
mại(SONA), một công ty được thành lập từ rất lâu, cũng đã phải chải qua nhiều sóng gió 
để tồn tại và phát triển. Sự phát triển lớn mạnh với uy tín, lợi thế của mình trên thương 
trường và đặc biệt là hoạt động kinh doanh thương mại được ra đời từ năm 1997 đã là một 
minh chứng cụ thể về sự thành công trên con đường phát triển của công ty, mặc dù chỉ mới 
ra đời chưa lâu nhưng hoạt động kinh doanh thương mại của công ty cũng đã gặt hái được 
những thành công đáng kể trong hoạt động thương mại của mình. Để có được những thành 
công bước đầu như vậy là cả một sự lỗ lực của ban quản trị, toàn thể nhân viên của công 
ty. Công ty đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ mà Đảng và Nhà Nước, cục quản lý lao động với 
nước ngoài, BLĐTBXH giao cho. Nghĩa vụ nộp ngân sách cho nhà nước luôn được thực 
hiện đầy đủ, hơn nữa đời sống của CBCNV ổn định và ngày càng được nâng cao 
Chương i. Cơ sử lý luận về hoạt động kinh doanh nhập khẩu của các doanh nghiệp 
thương mại trong nền kinh tế quốc dân. 
 I. Khái niệm, vai trò, hình thức hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế quốc 
dân. 
1. Khái niệm. 
 Từ lâu nay nhập khẩu hàng hóa đã trở thành một việc làm quan trọng trong hoạt 
động kinh doanh thương mại. Đó chính là việc trao đổi hàng hóa từ các tôt chức kinh tế, 
các công ty có pháp nhân tại nước sở tại và việc tiến hành tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu 
trong thị trường nội địa hoặc tái – xuất khẩu với mục đích cuối cùng là thu lợi nhuận và 
nối liền sản xuất vầ tiêu thụ giữa các quốc gia. 
 2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân. 
 Nhập khẩu là một hoạt động hữu cơ của hoạt động ngoại thương nó tác động trực 
tiếp tới sản xuất và đời sống của mỗi quốc gia. Nhập khẩu thể hiện mức độ gắn bó phụ 
thuộc lẫn nhau giữa nề kinh tế của mỗi quốc gia với tổng thể của nền kinh tế thế giới. Nó 
tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng thế mạnh của nền kinh tế 
mỗi quốc gia về sức lao động, vốn, tài nguyên, và khoa học công nghệ. Trong xu thế vận 
động của nền kinh tế thế giới như hiện nay, Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia khác 
trên thế giới đã và đang không ngừng mở rộng quan hệ buôn bán quốc tế, sự phụ thuộc lẫn 
nhau ngày càng lớn mạnh, cùng với sợ hình thành các trung tâm thương mại, khối mậu 
dịch tự do đã chứng tỏ việc lưu chuyển hàng hóa giữa các quốc gia không ngừng được cải 
thiện và nâng cao. lúc này vai trò của hoạt động nhập khẩu có ý nghĩa rất lớn đối với việc 
ổn định và phát triển kinh tế quốc gia nói riêng và phát triển kinh tế thế giới nói chung. 
Lý do là: 
 - Nhập khẩu là cơ sở nhằm bổ sung hàng hóa trong nước không sản xuất được hoặc 
sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu, hơn nữa nó cũng cho phép đa dạng hóa các chủng loại 
hàng hóa, chất lượng cho phép thảo mãn nhu cầu trong nước. 
 - Nhập khẩu còn khai thác được lợi thế so sánh tạo ra được sự phát triển vượt bậc 
trong sản xuất xã hội, tiết kiệm chi phí, thời gian tạo ra sự phát triển đồng đều về trình độ 
xã hội, phá bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất kinh doanh trong nước, tạo điều kiện 
cho các tổ chức kinh tế có cơ hội tham gia trên thị trường quốc tế. 
 - Nhập khẩu tạo ra sự liên kết trong nước với nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho 
sự phát triển, phân công lao động và hợp tác quốc tế, khai thác được lợi thế so sánh trên cơ 
sở chuyên môn hóa sản xuất. 
 - Nhập khẩu đem lại cho nền kinh tế trang thiết bị hiện đại, công nghệ sản xuất tiên 
tiến, tăng cường chuyển giao công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – 
HĐH đất nước. 
 - Nhập khẩu có vai trò tích cực đến việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, thể hiện ở 
chỗ nhập khẩu tạo điều kiện đầu vào cho sản xuất hàng hóa xuất khẩu, tạomt thuận lợi cho 
việc xuất khẩu hàng hóa trong nước ra nước ngoài, đặc biệt là nước xuất khẩu. 
 Ngoài ra nhập khẩu còn góp phần tích cực vào việc thúc đẩy sản xuất nhằm góp 
phần nâng cao chất lượng sản xuất hàng hóa xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng hóa của 
một nước đạt được tiêu chuẩn của thế giới quy định. 
 Tuy nhiên, liệu có thể tận dụng hết được lợi thế của hoạt động nhập khẩu còn phải 
xem chính sách, đường lối phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, trước đây 
quan hệ kinh tế quốc tế chỉ thu hẹp trong một số nước XHCN, nền kinh tế kế hoạch hóa 
tập trung, chỉ mang tính tự cung tự cấp, hàng hóa chủ yếu nhập khẩu thông qua các khoản 
viện trợ và mua bán theo nghị định thư đã là mất đi tính đúng đắn của hoạt động nhập khẩu 
của các doanh nghiệp Nhà nước đđộc quyền. Do vậy hoạt động nhập khẩu rất trì trệ và 
không đáp ứng được nhu cầu về hàng hóa trong nước. 
 Nhận được tầm quan trọng đó, Đại hội Đảng toàn quốc VI đã là bước ngoặc mới, 
một động lực mới đưa đất nước ta đi vào con đường cải cách triệt để, nhằm thoát khỏi nền 
kinh tế đó chính là một bước tiến vĩ đại giúp nền kinh tế nước ta hội nhập vào nền kinh tế 
thế giới, tạo ra một thị trường nội địa đầy sôi động, hàng hóa phong phú, phát huy mạnh 
tính cạnh tranh. Trên thực tế đã chứng minh được sự năng động của kinh tế thị trường 
cũng như khẳng định rõ vai trò hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế mới. 
 Nhập khẩu đã góp phần quan trọng vào việc phát triển sản xuất chuyển dich cơ cấu 
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với định hướng phát triển nền 
kinh tế, nhập khẩu luôn là giải pháp có tầm cỡ chiến lược, nhằm phục vụ cho việc phát 
triển nền kinh tế quốc dân. Chính sách nhập khẩu phải luôn tranh thủ nguồn vốn, khoa học 
công nghệ tiên tiến một cách có hiệu quả nhất cũng như bồi dưỡng đọi ngũ cán bộ kỹ thuật 
và quản lý nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hóa của nước ta một cách phát triển với mục đích 
vừa sản xuất vừa tiêu dùng trong nước, vừa xuất khẩu thu ngoại tệ, tăng tích luỹ cho đất 
nước. Nhờ có hoạt động nhập khẩu mà các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia 
cạnh tranh trên thị trường quốc tế, khi đó buộc các doanh nghiệp phải hình thành một 
chiến lược kinh doanh riêng nhưng phải phù hượp với cơ chế thị trường, đồng thời phải 
nâng cao năng lực quản lý sao cho phù hợp với xu thế chung nhằm tạo ra nhiều cơ hội mới 
thồn qua quan hệ với ca đối tác nước ngoài trên cơ sở các bên cùng hưởng lợi. 
 Như vậy, để phát huy hết được vai trò của hoạt động nhập khẩu là một việc làm 
không hề đơn giản, nó đòi hỏi mỗi quốc gia nó chung và các doanh nghiệp nói riêng phải 
có sự lựa xhọn đúng đắn các hình thức nhập khẩu để xác định rõ các nhân tố ảnh hưởng 
đến hoạt động này, như thế thì với có thể khai thác được tối đa lợi thế so sánh. 
3. Các hình thức nhập khẩu. 
 Trong thực tế hoạt động ngoại thương có nhiều hình thức nhập khẩu, nhưng tuỳ 
theo đặc trưng của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp mà cần phải lựa chọn hình thức nào 
cho phù hợp nhất. Cũng do tác động của nhiều nhân tố trong nền kinh tế cùng với sự sáng 
tạo và năng nổ của các nhà kinh doanh đã tạo ra sự đa dạng của các hình thức nhập khẩu 
chứ không chỉ bó hẹp trong hình thức nhập khẩu trực tiếp. 
 - Nhập khẩu uỷ thác. 
 Trong hoạt động ngoại thương không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tham gia 
vào hoạt động nhập khẩu trực tiếp. Do đó khi một doanh nghiệp có vốn bằng ngoại tệ, lại 
có nhu cầu nhập khẩu trực tiếp thì họ phải lảm như thế nào? Từ đó đã hình thành nên nhu 
cầu nhập khẩu uỷ thác, đó là doanh nghiệp này uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng 
trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhân uỷ 
thác sẽ tiến hành đàm phán với bên đối tác nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa 
theo yêu cầu của bên uỷ thác và lợi nhuận nhận được gọi là phí uỷ thác. 
Hình thức này có đặc điểm sau: 
 + Doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu không phải bỏ vốn, không 
phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ do không phải tiêu 
thụ hàng hóa nhập khẩu, mà chỉ đứng ra làm đại diện ch bên uỷ thác giao dịch với bên 
nước ngoài, ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa, cũng như thay mặt cho bên 
uỷ thác khiếu nại bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất. 
 + Các doanh nghiệp được uỷ thác nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch nhập khẩu 
chứ không được tính doanh số, doanh thu, bên cạnh đó các doanh nghiệp nhập khẩu phải 
lập hai hợp đồng. Một hợp đồng mua bán hàng hóa với nước ngoài <giữa bên uỷ thác nhập 
khẩu với bên xuất khẩu>, một hợp đồng uỷ thác . 
 - Nhập khẩu hàng đổi hàng. 
 Nhập khẩu hàng đổi hàng cùng trao đổi bù trừ là nghiệp vụ chủ chốt của buôn bán 
đối lưu, nó lag hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu. Thanh toán trong trường hợp 
này không ogải bằng tiền mà bằng sử dụng uỷ thác, mục đích nk uỷ thác ở đây không phải 
chỉ để thu lãi từ nhập khẩu mà còn nhằm để xuất khẩu thu cả lãi từ hoạt động xuất khẩu. 
Đặc điểm của hình thức này là: 
 + Hoạt động nhập khẩu này mang lại cho các bên liên quan bởi cùng một hợp đồng 
có thể tiến hành cùng một lúc cả hoạt động nhập khẩu và hoạt động xuất khẩu do vậy có 
thể thu lời từ hại hoạt động này. 
 + Doanh nghiệp được tính trực tiếp cả kim ngạch xuất khẩu. Doanh số tiêu thụ được 
tính trên cả hai mặt hàng alf xuất khẩu và nhập khẩu. 
 + Hàng hóa trong hoạt động nhập khẩu cũng là bạn hàng trong hoạt động xuất khẩu. 
Để bảo đảm thực nhiện hợp đồng các bên có thể dùng biện pháp sau. 
 + Dùng thư tín đối ứng đây là một loại thư tín dụng mà trong nội dung của 
nó có các điều khoản chung. L/C chỉ có hiệu lực khi người hưởng lợi mở một thư tín dụng 
L/C khác có kim ngạch tương đương. 
 + Dùng người thứ 3 khống chế chứng từ sở hữu uỷ thác, người này chỉ giao chứng 
từ đó cho người nhận hàng khi người này nhận lại một chứng từ sở hữu một loại hàng hóa 
nào đó có giá trị tương đương. 
 + Phạt về việc giao thiếu hay giao chậm hàng. 
 - Nhập khẩu tái xuất: 
 Là hoạt động nhập khẩu hàng hóa vào trong nước nhưng không phải là để tiêu dùng 
trong nước mà để xuất sang nước thứ 3 naò đó, hoạt động này không được chế biến ở nước 
tái xuất, như vậy hoạt động này được thực hiện qua ba nước; nước xuất khẩu, nước tái xuất 
khẩu, nước nhập khẩu. 
 Hình thức nhập khẩu này có những đặc trưng riêng khác với hình thức nhập khẩu 
khác, đó là: 
 + Doanh nghiệp nhập khẩu ở nước tái xuất phải tính toán chi phí gép nối bạn hàng 
nhập khẩu và bạn hàng xuất khẩu, bảo đảm sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng 
chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động này. 
 + Doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch xuất khẩu, doanh số 
tính trên giá trị hàng nhập khẩu đó vẫn phải chịu thuế doanh thu. 
 + Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập hai hợp đồng, một hợp đồng xuất khẩu và 
một bản hợp đồng nhập khẩu và không chịu thuế nhập khẩu về hình thức kinh doanh. 
 + Để đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường dùng thư tín dụng giáp lưng 
. 
 Ngoài ra hàng hóa không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể chuyển 
thẳng tới nước thứ 3, nhưng tiền trả phải do người tái xuất từ người nhập khẩu, trả cho 
người xuất khẩu, nhiều khi người xuất còn thu lợi nhuận từ do thu được nhanh và trả tiền 
chậm. 
 - Nhập khẩu liên doanh. 
 Là hoạt độngnk hàng hóa trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện giữa các doanh 
nghiệp nhằm phối hợp cùng 
nhau để tiến hành giao dịch và các chu trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập 
khẩu, thúc đẩy hoạt động này theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên, cùng chịu rủi ro và 
cùng hưởng lợi nhuận. 
 Sau đó một vài hình thức nhập khẩu khác thì hình thức này ít chịu rủi ro hơn vì mỗi 
doanh nghiệp tham gia nhập khẩu chỉ phải đóng góp một phần vốn nhất định, khi đó quyền 
hạn và trách nhiệm chỉ phải phân bổ theo tỷ lệ góp vốn. 
 Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu hàng sẽ được tính 
kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ chỉ được tính doanh số trên hàng 
theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế doanh thu trên doanh số đó. Doanh nghiệp đứng ra nhập 
khẩu phải lập hai hợp đồng, một hợp đồng mua hàng với bên nước ngoài và một hợp đồng 
liên doanh với các doanh nghiệp khác. Cách phân tích hình thức nhập khẩu trên dựa vào 
chủ thể của hoạt động nhập khẩu. Nếu quan tâm tới hình thức thanh toán trong hoạt động 
này thì có thể thấy hai hình thức chính là mua bán bằng tiền và mua bán thanh toán bằng 
hàng. Thanh toán bằng tiền là cách thức thông dụng, thanh toán bằng hàng <còn gọi là 
mua bán đối lưu> là hình thức còn khá mới mẻ với chúng ta. Do đó cần phải tìm hiểu kỹ 
hình thức này. 
 - Nhập khẩu tư doanh. 
 Là hoạt động độc lập của một số doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp, hoạt động này 
đòi hỏi nhà nhập khẩu phải tìm hiểu và nghiên cứu kỹ thị trường trong nước, môi trường 
kinh doanh như chính sách kinh tế, hành lang pháp luật của quốc gia và thông lệ quốc tế. 
Trong hình thức này doanh nghiệp phải tự đứng ra nhập khẩu, nên rất rễ xảy ra rủiro, tổn 
thất cũng như lợi nhuận thu được. Chính vì vậy trước khi nhập khẩu nhà nhập khẩu cần 
phải nghiên cứu kỹ từng bước, từ khâu nghiên cứu thị trường đầu vào, đầu ra, cho đến 
khâu ký kết thực hiện hợp đồng, kể cả khâu bán hàng, thanh toán tránh tình trạng tổn thất, 
trong việc thực hiện hợp đồng doanh nghiệp phải tự bỏ vốn ra để thanh toán, phải cân nhắc 
các khoản thu chi để đảm bảo việc kinh doanh mang lại lợi nhuận. 
II. Nội dung của hoạt động nhập khẩu. 
 Trong giao dịch ngoại thương nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng được 
thực hiện trên pahm vi quốc tế, vì vậy nội dung của hoạt động nhập khẩu phức tạp hơn so 
với việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong nước. Hoạt động này được thực hiện thông qua 
nhiều khâu và nhiều nghiệp vụ quan trọng khác, từ khâu nghiên cứu đầu vào, đầu ra đến 
khâu tiếp cận thị trường lựa chọn hàng hóa nhập khẩu, tiến hành giao dịch hàng hóa, đàm 
phán ký kết hợp đồng khi hàng hóa nhập cảng, chuyển giao quyền sở hữu cho người mua 
và hoàn thành các thủ tục thanh toán, mỗi khâu mỗi nghiệp vụ thanh toán đều có mối quan 
hệ phụ thuộc lẫn nhau, do đó phải nghiên cứu thực hiện đầy đủ, kỹ lưỡng bởi cán bộ ngoại 
thương có năng lực đề phòng sơ xẩy gây tổn thất cho các bên. vấn đề mấu chốt là phải nắm 
bắt được lợi thế nhằm đảm bảo cho hoạt động ngoại thương đạt hiệu quả cao. 
1. Nghiên cứu thị trường. 
 Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu việc nghiên cứu thị trường gồm: Nghiên cứu 
thị trường thanh toán bán trong nền kinh tế 
hàng hóa thì thị trường giữ vai trò quan trọng trọng của hoạt động kinh doanh của mỗi 
doanh nghiệp. Mà mục đích của hoạt động sản xuất là để tiêu thụ, phục vụ và thoả mãn 
nhu cầu của người tiêu dùng, do vậy thị trường mang tính sống còn đối với hoạt động sản 
xuất và kinh doanh hàng hóa. Vì vậy nếu còn thị trường thì hoạt động sản xuất kinh doanh, 
nế mất thị trường thì hoạt động này bị đình trệ. 
 Hoạt động nhập khẩu được thực hiện trên phạm vi quốc tế, vì vậy nội dung của hoạt 
động này phức tạp hơn nhiều so với việc kinh doanh hàng hóa nội địa, nó được thực hiện 
dưới nhiều khâu và nhiều hiệp định khác nhau, lựa chọn hàng hóa nhập khẩu, tiến hành 
giao dịch, đàm phán, tiếp cận thị trường, lựa chọn hàng hóa nhập khẩu, tiến hành giao 
dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng khi hàng hóa nhập cảng, 
chuyển giao quyền sở hữu cho người mua hoàn thành các thủ tục thanh toán, và mỗi khâu, 
mỗi nghiệp vụ đều có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, do vậy phải được thực hiện nghiên 
cứu đầy đủ kỹ lưỡng bởi cán bộ ngoại thương có năng lực để đề phòng sai sót gậy tổn thất 
cho các bên, vấn đề ở chỗ là phải nắm bắt được lợi thế đảm bảo cho hoạt động đạt hiệu quả 
cao. 
 1.1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu. 
 Khi nghiên cứu về thị trường nhập khẩu cần phải nắm bắt rõ các chính sách phát 
triển của các nước hay khu vực mà họ cần nhập, môi trường chính trị, tình hình tài chính 
tiền tệ, điều kiện vận tải và cước phí. 
 Vì là thị trường nước ngoài nên việc nghiên cứu gặp nhiều khó khăn do không tìm 
hiểu kỹ lưỡng được như thị trường nội địa. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu có thể được 
thực hiện qua các tài liệu, sách báo, tạp chí, các phương tiện truyền tin... về thị trường đó 
hoặc trực tiếp thông qua triển lãm, hay những cuộc thăm quan, những chuyến du lịch hoặc 
giao dịch trực tiếp. 
 Khi nghiên cứu thị trường nhập khẩu, doanh nghiệp cần phải nắm bắt đầy đủ các 
yếu tố của thị trường như khả năng sản xuất, giá cả, sự biến động của thị trường. Hơn nữa 
doanh nghiệp nhập khẩu cũng cần đặc biệt quan tâmđến hàng hóa vì đây là biểu hiện bằng 
tiền của giá trị hàng hóa. Trong kinh doanh nhập khẩu thì sự biến đọng của giá cả cũng trở 
nên phức tạp do việc buôn bán diễn ra không phải lúc nào thì thì nó diễn ra trong khoảng 
thời gian dài giữa hai quốc gia, hai khu vực khác nhau, so với lượng trao đổi buôn bán là 
bao nhiêu, các loại giá cả và những nhân tố tạo nên sự biến động của giá cả. 
 Giá cả trên thị trường biến động là do những nhân tố sau: 
 - Nhân tố chu kỳ: là do sự vận động theo quy luật của nền kinh tế thế giới, điều này 
ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả của hàng hóa nói chung trên thế giới và hàng hóa nhập khẩu 
của doanh nghiệp nói riêng. 
 - Sự lũng đoạn của thị trường: cũng làm xuất hiện mức giá của cùng một loại hàng 
hóa trên một hay nhiều thị trường khác nhau. 
 - Sự cạnh tranh: tuỳ thuộc vào mức độ cạnh tranh, đối tượng cạnh tranh. 
 - Tính thời vụ: giá cả sẽ thay đổi rất lớn nếu hàng hóa được thoả mãn nhu cầu nếu 
nó được sản xuất đúng thời vụ. 
 - Tình hình kinh tế xã hội: 
 Bên cạnh các nhân tố trên thì doanh nghiệp nhập khẩu cũng cần phải tìm hiểu tình 
hình vận chuyển hàng hóa, cước phí vận chuyển, câc chi phí phụ để sao cho có thể lựa 
chọn thị trường nhập khẩu phù hợp nhất. 
 1.2. Nghiên cứu thị trường trong nước. 
* Nhu cầu thị trường. 
 Nhu cầu là nhân tố đầu tiên mà các nhà kinh doanh nhập khẩu cần phải nghiên cứu 
là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của mỗi doanh nghiệp. Kinh nghiệm 
kinh doanh cũng cho thấy việc đầu tiện là phải nghiên cứu nhu cầu đầu tiên, sau đó mới tổ 
chức quá trình sản xuất kinh doanh để nhằm đáp ứng và thoả mãn nhu cầu đó. Thực tế là 
nhiều doanh nghiệp nước ta trong hoạt động nhập khẩu đã chưa nghiên cứu hay chưa 
nghiên cứu kỹ lưỡng nhu cầu thị trường trong nước, do đó hàng hóa nhập khẩu về đã 
không đáp ứng được nhu cầu của của người tiêu dùng cả về số lượng lẫn chất lượng. Đa 
số hàng hóa nhập khẩu chỉ dựa vào những ý kiến chủ quan hoặc các đơn đặt hàng, chào 
hàng của các công ty nước ngoài. 
 Nghiên cứu nhu cầu ở đây căqn cứ vào tình hình sản xuất và tiêu dùng về quy cách, 
chủng loại, kích kỡ, giá cả, thị hiếu, tập quán từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất, từ đó tiến 
hành nghiên cứu từng mặt của hàng hóa trên thế giới. Việc làm này đã phát hiện nhiều sự 
biến đổi trong tiêu dùng khi có tác động của nhân tố khác, đặc biệt là giá cả. 
* Dung lượng thị trường. 
 Đối với các doanh nghiệp kin