Học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối
với phụ nữ Việt Nam là một vấn đề vẫn có ý nghĩa thiết thực trong giai đoạn hiện nay.
Vấn đề này đã thu hút được sự tham gia nghiên cứu của nhiều học giả và trên thực tế
vẫn còn nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ.
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, đánh dấu một bước chuyển mình lớn lao của
dân tộc, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới. Đổi mới là một xu hướng tất yếu của của
đất nước, trên thực tế trải qua gần hai mươi năm thực hiện, nó đã tạo ra sự biến đổi mạnh
mẽ trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế. Tuy nhiên, đổi mới không đơn giản chỉ là đổi
mới về kinh tế mà nó kéo theo sự biến đổi toàn diện kể cả con người một cách sâu sắc, từ
đó, tạo điều kiện cho sự phát triển mới về vật chất. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn xác
định: Con người là yếu tố quan trọng hàng đầu, trong đó người phụ nữ là lực lượng đông
đảo, nắm vai trò to lớn trong gia đình và ngoài xã hội.
Việt Nam bước sang thời kỳ đổi mới với nhiều thay đổi lớn lao trên mọi lĩnh
vực: Kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá,... đã dẫn đến những thay đổi về yêu cầu,
những đòi hỏi, những tiêu chí đánh giá của xã hội về người phụ nữ. Người phụ nữ
trong thời đại mới phải đẹp toàn diện hơn, tài giỏi hơn, tích cực tham gia các công tác
xã hội, đảm đang việc gia đình.... Và bên c ạnh những nét đẹp hiện đại, người phụ nữ
cần phải gìn giữ những nét đẹp truyền thống quý báu của dân tộc
Việt Nam
Học thuyết "Tam tòng", "Tức đức" bên cạnh ảnh hưởng tiêu cực nó còn góp phần
làm nên những nét đẹp tryền thống của người phụ nữ Việt Nam. Trong giai đoạn đất
nước thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, người phụ nữ Việt
Nam cần khắc phục quan niệm “Tam tòng” và tiếp thu vận dụng "Tứ đức" ("công dung -ngôn -hạnh") như thế nào là một vấn đề có ý nghĩa thiết thực.
Chính vì vậy nghiên cứu vấn đề: Học thuyết “Tam tũng”, “Tứ đức”và ảnh hưởng
của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp sẽ góp phần vào
mục tiêu xây dựng, phát huy vai trò của ng ười phụ nữ Việt Nam hiện đại.
Đây cũng chính là lý do tác giả chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu cho luận
văn của mình.
78 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1979 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Học thuyết Tam tũng, Tứ đức và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Học thuyết “Tam tũng”, “Tứ đức”và ảnh
hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam
hiện nay - Thực trạng và giải pháp
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối
với phụ nữ Việt Nam là một vấn đề vẫn có ý nghĩa thiết thực trong giai đoạn hiện nay.
Vấn đề này đã thu hút được sự tham gia nghiên cứu của nhiều học giả và trên thực tế
vẫn còn nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ.
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, đánh dấu một bước chuyển mình lớn lao của
dân tộc, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới. Đổi mới là một xu hướng tất yếu của của
đất nước, trên thực tế trải qua gần hai mươi năm thực hiện, nó đã tạo ra sự biến đổi mạnh
mẽ trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế. Tuy nhiên, đổi mới không đơn giản chỉ là đổi
mới về kinh tế mà nó kéo theo sự biến đổi toàn diện kể cả con người một cách sâu sắc, từ
đó, tạo điều kiện cho sự phát triển mới về vật chất. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn xác
định: Con người là yếu tố quan trọng hàng đầu, trong đó người phụ nữ là lực lượng đông
đảo, nắm vai trò to lớn trong gia đình và ngoài xã hội.
Việt Nam bước sang thời kỳ đổi mới với nhiều thay đổi lớn lao trên mọi lĩnh
vực: Kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá,... đã dẫn đến những thay đổi về yêu cầu,
những đòi hỏi, những tiêu chí đánh giá của xã hội về người phụ nữ. Người phụ nữ
trong thời đại mới phải đẹp toàn diện hơn, tài giỏi hơn, tích cực tham gia các công tác
xã hội, đảm đang việc gia đình.... Và bên cạnh những nét đẹp hiện đại, người phụ nữ
cần phải gìn giữ những nét đẹp truyền thống quý báu của dân tộc
Việt Nam
Học thuyết "Tam tòng", "Tức đức" bên cạnh ảnh hưởng tiêu cực nó còn góp phần
làm nên những nét đẹp tryền thống của người phụ nữ Việt Nam. Trong giai đoạn đất
nước thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, người phụ nữ Việt
Nam cần khắc phục quan niệm “Tam tòng” và tiếp thu vận dụng "Tứ đức" ("công dung -
ngôn -hạnh") như thế nào là một vấn đề có ý nghĩa thiết thực.
Chính vì vậy nghiên cứu vấn đề: Học thuyết “Tam tũng”, “Tứ đức”và ảnh hưởng
của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp sẽ góp phần vào
mục tiêu xây dựng, phát huy vai trò của người phụ nữ Việt Nam hiện đại.
Đây cũng chính là lý do tác giả chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu cho luận
văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề ảnh hưởng của học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức”trong Nho giáo đối với
người phụ nữ Việt Nam ở mức độ ít nhiều trực tiếp hay gián tiếp đã được một số tác giả
Nho học, triết học các nhà bình luận.... nghiên cứu từ rất sớm. Cho đến nay, đã có nhiều
công trình nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này. Điển hình là “Nho
Giáo” của Trần Trọng Kim với hai tập: Quyển Thượng và Quyển Hạ; “Khổng học đăng”
của Phan Bội Châu; “Chuyên khảo về Nho giáo” của Đặng Thai Mai; “Nho giáo xưa và
nay” của Vũ Khiêu,...
Trong tác phẩm “Nho giáo” của Trần Trọng Kim, ông đã khái quát quá trình lịch
sử hình thành, phát triển của Nho giáo và các quan điểm cơ bản qua các thời kỳ. Ông đã
phân tích khá sâu học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong lịch sử phát triển của Nho giáo:
Nho giáo thời Xuân Thu; Nho giáo thời Lưỡng Hán; Nho giáo thời Tam Quốc; Nho giáo
đời Thanh và đặc biệt là Nho giáo ở Việt Nam.
Về sách, báo, tạp chí như: Báo Phụ nữ, Tạp chí Gia đình, Báo Tiền phong... phạm trù
công - dung - ngôn - hạnh và đạo tam tòng cũng được bàn đến nhưng nghiên cứu dưới góc độ
hẹp, đi vào từng khía cạnh nhỏ.
Như vậy, nhìn chung, những công trình nghiên cứu về đề tài này đã nêu lên nội
dung cơ bản của "Tứ đức" và học thuyết “Tam tòng” nhưng mới chỉ dùng lại ở mức đại
cương, khái quát. Vì vậy, học thuyết này rất cần được nghiên cứu sâu hơn, mang tính hệ
thống hơn nhất là sự ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của nó đối với người phụ nữ Việt Nam
hiện nay thì hầu như chưa có công trình nào đề cập đến. Bởi vậy, tôi mạnh dạn đề cập
đến vấn đề hầu như vẫn còn trống vắng này.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ giới hạn ở học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo chứ không
phải toàn bộ Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
4. Mục đích của đề tài
Mục đích:
- Nghiên cứu học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo.
- Đánh giá ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của học thuyết này đối với người phụ nữ
Việt Nam ngày nay.
- Trên cơ sở đó, đề ra một số giải pháp nhằm khắc phục những mặt hạn chế; tiếp
thu vận dụng sáng tạo giá trị tích cực của học thuyết "Tam tòng", "Tứ đức" góp phần vào
việc xây dựng và phát huy vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Nhiệm vụ:
- Phân tích rõ nội hàm, ngoại diên của phạm trù: Tam tòng, công - dung - ngôn -
hạnh ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam.
- Phân tích ảnh hưởng của học thuyết này đối với phụ nữ Việt Nam xưa (trong chế độ
phong kiến), đặc biệt là đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp và khắc phục
những ảnh hưởng tiêu cực của học thuyết này trong quá trình xây dựng phụ nữ Việt Nam
hiện đại.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về học thuyết tôn giáo nói chung và về
Nho giáo nói riêng; các tác phẩm kinh điển về Nho học; các văn kiện của Đảng; những
chính sách, chiến lược xây dựng con người mới của Nhà nước...
Luận văn cũng sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích,
tổng hợp, lôgíc, lịch sử, so sánh, thống kê, điều tra...
6. Điểm mới của luận văn
Hệ thống hơn và bắt đầu đi sâu thêm nội hàm, ngoại diên của học thuyết “Tam
tòng”, “Tứ đức”; trên cơ sở đó phân tích, đánh giá mặt tích cực cũng như hạn chế của học
thuyết này.
Phân tích ảnh hưởng của "Tam tòng", "Tứ đức" đối với người phụ nữ Việt Nam
hiện nay.
Đề xuất những giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực của học
thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho Hội Phụ nữ Trung ương cũng như
Hội Phụ nữ tỉnh và địa phương khác, cho những người quan tâm, nghiên cứu ảnh hưởng
của các hệ tư tưởng và tôn giáo phương Đông đối với con người Việt Nam hiện nay.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
học thuyết “Tam tòng” “Tứ đức”
Trong Nho giáo
1.1. Vị trí học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo
1.1.1. Một vài nét về sự hình thành và phát triển của Nho giáo
Thời kỳ lịch sử Cổ - Trung đại, Trung Quốc là một trong những trung tâm văn
minh lớn của thế giới. Giai đoạn này, Trung Quốc có nhiều phát minh vĩ đại như phát
minh ra chữ viết, giấy, nghề in, thuốc súng, thiên văn học… Cùng với ấn Độ và các dân
tộc phương Đông khác, Trung Quốc còn là quê hương của nhiều trường phái triết học
lớn; là chiếc nôi của nhiều nhà tư tưởng. Trong lịch sử cũng như trong hiện tại việc đánh
giá vai trò của triết học, tôn giáo Trung Quốc đối với sự phát triển của các nước chịu ảnh
hưởng Hán hoá vẫn là một vấn đề được nhiều người quan tâm, bàn luận.
Vào khoảng thế kỷ XVII đến thế kỷ XI (Trước Công nguyên) trên dải hoàng thổ
phì nhiêu của con sông Hoàng Hà phía Bắc Trung Quốc đã xuất hiện một liên minh thị
tộc lớn, một nền nông nghiệp định cư khá phát triển, chữ viết bắt đầu được sử dụng. Nhà
nước với những hình thức phôi thai của nó đã xuất hiện, đó là thời Ân - Thương.
Bước sang thế kỷ XI (Trước Công nguyên) bộ lạc du mục Chu từ phía Tây Bắc
men theo sông Hoàng Hà tiến vào và tiêu diệt nhà Ân, lập nên nhà Chu, mở đầu thời kỳ
"Văn minh dựng nước" Trung Quốc.
Giai đoạn đầu của nhà Chu, sử sách gọi là Tây Chu (tức vào khoảng thế kỷ XI
đến thế kỷ thứ VIII Trước Công nguyên). Căn cứ vào nguồn gốc tài liệu gián tiếp đời sau
ghi chép lại đã cho chúng ta biết tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Tây Chu có những đặc
điểm nổi bật: Thời kỳ này đồ sắt đã xuất hiện nhưng chưa phổ biến. Chế độ quốc hữu về
tư liệu sản xuất và sức lao động được nhà Chu thực hiện rất nghiêm ngặt. Về nguyên tắc,
ruộng đất, mọi thành viên trong xã hội đều thuộc quyền quản lý của vua nhà Chu. Nhà
Chu còn thành lập thành thị đại quy mô. Giữa thành thị, nông thôn đã có sự phân biệt.
Thành thị là nơi ở của tầng lớp quý tộc, thị tộc, của kẻ thống trị, còn nông thôn là nơi ở
của người thị tộc bị nô dịch. Như vậy, Nhà Chu đã giữ lại hình thức tổ chức của thị tộc
cũ, hệ quả dẫn đến là trong phân tầng xã hội chỉ có sự phân biệt người quân tử (quý tộc)
và tiểu nhân (kẻ hèn kém) chứ không có sự phân biệt kẻ giàu và người nghèo trên cơ sở
tài sản hoặc kẻ trí, người ngu trên cơ sở tri thức. Điều này tất yếu dẫn đến sự đối kháng,
đấu tranh giai cấp giữa thành thị và nông thôn.
Những đặc điểm khái quát về kinh tế - chính trị - xã hội trên đã làm cơ sở cho
sự hình thành tư tưởng tôn giáo, chính trị, đạo đức thời Tây Chu.
Về tôn giáo: tiếp thu truyền thống tế tổ, tiên vương của người Ân, người Chu còn
thêm tư tưởng kính trời, thờ thượng đế, hợp mệnh trời, người với trời hợp nhất.
Trên cơ sở quan niệm tôn giáo đó, nhà Chu xây dựng một nền văn hoá "học tại
quan phủ" tức văn hoá của riêng tầng lớp quý tộc, học vấn không xuống đến nông thôn.
Tư tưởng chính trị thời Chu đã được tôn giáo hoá một cách toàn diện. Mọi chính
sách của nhà Chu đều được giải thích là "vâng mệnh trời", "thuận theo mệnh trời"... Bên
cạnh đó, tư tưởng "trị dân" cũng là một tư tưởng chính trị quan trọng. Nó mang tính chất
chuyên chính tàn khốc của giai cấp quí tộc thị tộc Chu và luôn được phủ bằng một lớp
sơn tôn giáo "ý trời", "mệnh trời"…
Cơ sở để hình thành những quy tắc đạo đức trong thời kỳ này chính là mối quan
hệ giữa Thiên tử và muôn dân, từ đó sinh ra mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của
người dân. Vì vậy, tư tưởng đạo đức thời Tây Chu luôn lấy hai chữ Hiếu và Đức làm
nòng cốt. Quan niệm đạo đức này muốn tuyên truyền và củng cố địa vị của giai cấp quí
tộc thị tộc, bảo vệ Nhà nước chuyên chính thị tộc.
Từ thế kỷ thứ VIII (Trước Công nguyên), xã hội Tây Chu bước vào một thời kỳ có nhiều
biến động lớn, toàn diện, kéo dài cho đến thế kỷ thứ III (Trước Công nguyên). Lịch sử gọi thời này
là Đông Chu hay chính là thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Năm 770 Trước Công nguyên - 221
Trước Công nguyên).
Về mặt kinh tế, thời Đông Chu, đồ sắt đã được sử dụng phổ biến. Công cụ bằng
sắt tham gia vào sản xuất đem lại sự phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế nông nghiệp và
thương nghiệp. Đây cũng là giai đoạn khởi sắc của nền kinh tế thương nghiệp. Hiện
tượng buôn bán diễn ra rất nhộn nhịp ở các nước như: Hàn, Tề, Tấn, Sở.
Lĩnh vực chính trị: Sự phát triển mạnh trên lĩnh vực kinh tế đã tác động lớn đến
hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của trật tự xã hội cũ. Trong xã hội
xuất hiện một tầng lớp địa chủ mới lên, họ ngày càng giàu có và lấn át quý tộc, thị tộc
cũ. Họ đòi có được quyền bình đẳng với tầng lớp quý tộc Chu. Sự phân biệt sang hèn
dựa trên cơ sở huyết thống của nhà Chu tỏ ra không còn phù hợp nữa mà tình thế đòi
hỏi phải dựa trên cơ sở về giá trị tài sản. Quyền sở hữu tối cao (về đất và dân) của vua
nhà Chu đang bị tầng lớp địa chủ mới lên và có tiền của lấn át và chiếm lĩnh. Như vậy,
địa vị chính trị, ngôi thiên tử của vua nhà Chu đang dần chỉ còn là hình thức. Khi nhà
Chu lên giữ ngôi Thiên tử đã chia thiên hạ ra làm hơn 70 nước chư hầu. Khi nhà Chu
còn thịnh vượng những nước chư hầu này đều được quyền tự chủ và hàng năm phải
cống nạp Thiên tử nhà Chu. Khi có chinh phạt ở đâu, phải có mệnh lệnh của Thiên tử
đem quân đi chinh chiến. Nhưng ở giai đoạn Đông Chu, trật tự bị đảo lộn. Nhà Chu
suy nhược sau phải dời đô về phía Đông ở Lạc ấp. Mệnh lệnh của Thiên tử không ai
nghe theo. Các nước chư hầu phân tán ra đến 160 nước lớn nhỏ. Chiến tranh giữa các
quốc gia xảy ra liên miên và càng ngày càng khốc liệt. Nhân dân lầm than. Cương
thường đổ nát. Theo sử sách Trung Quốc còn ghi có tới 36 vụ bề tôi giết vua chúa; 52
vụ bán rẻ đất nước; loạn lạc, khổ đau không sao kể xiết. Đây cũng là thời kỳ vua
không ra vua, cha không ra cha, con không ra con. Nhiều người chỉ mải mê đường
danh lợi mà không nghĩ đến tình người, lòng nhân ái. Lịch sử gọi thời kỳ này "Bách
gia chư tử" (Trăm nhà, trăm thầy) "Bách gia tranh minh" (Trăm nhà đua tiếng).
Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội thời Đông Chu lúc này giống như một bức
tranh vẽ cảnh đất trời trong cơn giông bão với nhiều màu sắc và chính nó là cơ sở để
nhiều khuynh hướng, tư tưởng, học thuyết, triết gia xuất hiện. Dường như tất cả đều có
một mục đích: ổn định đất nước và cứu vớt thiên hạ khỏi khổ đau.
Thời kỳ này, Trung Quốc có nhiều trường phái triết học, tiêu biểu là: Nho gia,
Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm dương gia… Có thể khẳng định: trừ Phật giáo được du
nhập từ ấn Độ, các hệ thống triết học được thành lập thời kỳ này - với những tư tưởng cơ
bản của nó - còn tồn tại và ảnh hưởng sâu đậm trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Mỗi
nhà tư tưởng sau này đều tự xếp mình vào một trường phái nào đó để giải thích là phát
triển những quan niệm của bậc tiền bối.
Nho giáo ra đời trong hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức nói trên và nó
trở thành một trong sáu trường phái cơ bản của triết học Trung Quốc thời bấy giờ. Nho giáo ra
đời cách đây 26 thế kỷ, tức vào khoảng thế kỷ thứ VI (Trước Công nguyên) đến thế kỷ thứ V
(Trước Công nguyên).
Người sáng lập ra đạo Nho có tên là Khổng Tử. Khổng Tử sinh năm 551 Trước
Công nguyên mất năm 479 Trước Công nguyên, thọ 73 tuổi; tên thật là Khâu, tự là Trọng
Ni, sinh ở Khúc Phụ, nước Lỗ trong một gia đình quý tộc nhỏ, hoàn cảnh sa sút. Quê
hương nước Lỗ của ông là nơi trụ cột, nơi bảo tồn được nhiều di sản văn hoá cũ của Nhà
Chu. Sử sách còn ghi: Thời nhỏ, Khổng Tử hay chơi trò bày đồ cúng tế, ham học, thích
nghiên cứu thi, thư, lễ, nhạc đời trước. Điều này đã biểu hiện bản tính của Khổng Tử luôn
coi trọng những điều lễ nghĩa.
Năm 19 tuổi, ông thành gia thất rồi nhận chức quan coi kho, sau lại làm quan
coi việc cúng tế. Do chủ trương chính trị không hợp, ông bỏ nước Lỗ đi chu du qua
nước Vệ, Tống… Nhưng đường lối ông cũng không được những nước này tin dùng.
Năm 70 tuổi ông trở về nước Lỗ dạy học và là người đầu tiên mở nền tư học. Học trò
của ông đông đến 3000 người, trong đó có 72 người tài giỏi, nổi tiếng, được thờ cúng
cùng ông.
Khổng Tử là người ôn hoà, nghiêm trang, nhân hậu, ông thông minh, ham học,
hết lòng lo cứu đời.
Trong những năm đầu của lịch sử Trung Quốc, có ba nhà liên tiếp trị vì:
Hạ Vũ: 2205 Trước Công nguyên - 1766 Trước Công nguyên
Nhà Thương - Ân: 1766 Trước Công nguyên - 1027 Trước Công nguyên.
Vào năm 1027 Trước Công nguyên Cơ Phát diệt nhà Ân, sáng lập nhà Chu, trị vì dài
nhất (900 năm, từ 1027 Trước Công nguyên - 221 Trước Công nguyên) rực rỡ nhất trong số ba
nhà (Hạ, Thương, Chu) và có công tạo nên nền văn minh Trung Quốc. Người có công lớn nhất
- được nhân dân tôn là "Ông Thánh" trong thời kỳ này chính là Chu Công. Ông là em ruột của
vua Võ Vương. Võ Vương chết khi con còn nhỏ. Chu Công hết lòng phụ chính, giữ ngôi cho
cháu, dẹp bọn làm phản trong họ muốn cướp ngôi. Khổng Tử phục ông như vua Nghiêu, Vua
Thuấn. Suốt đời Khổng Tử chỉ ao ước lập được sự nghiệp như Chu Công. Nhà Chu châm
chước lễ chế của hai triều đại trước (Hạ, Ân) nên văn vẻ rực rỡ biết bao! Ta theo Chu" (Ngô
Tòng Chu)…Như đã bàn ở phần trên, thời đại Khổng Tử là thời đại nhà Chu suy nhược, chư
hầu lấn át, trật tự lễ pháp bị đảo lộn. Đứng trên lập trường của bộ phận cấp tiến trong giai cấp
quý tộc Chu, ông đem sách thánh hiền đời trước, phát triển, lập thành một học thuyết có hệ
thống; lấy nhân - nghĩa - lễ - trí dạy người, lấy cương thường hạn chế nhân dục, để giữ vững
trật tự xã hội. Khổng Tử chủ trương lập lại pháp chế kỷ cương của Nhà Chu với một nội dung
mới để khắc phục tình trạng xã hội hiện thời.
Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn, có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hoá Trung
Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Tài liệu chủ yếu để nghiên cứu tư tưởng của ông
là cuốn Luận ngữ, ghi lại lời của Khổng Tử và học trò. Bên cạnh đó còn có "Tứ Thư" và
Ngũ Kinh" trong đó có bốn cuốn không phải tác phẩm ông chước tác mà do ông chỉnh lý
lại, ông chỉ viết kinh “Xuân - Thu".
Học thuyết của Khổng Tử được lưu truyền rộng và gây ảnh hưởng tới nhiều dân
tộc á Đông trong đó có Việt Nam. Trong học thuyết Khổng Tử, người phụ nữ ít được bàn
đến nhưng không phải là không có. Điều này thể hiện trong học thuyết "Tam tòng", "Tứ
đức".
1.1.2. Vấn đề người phụ nữ trong Nho giáo
Nho giáo là một học thuyết của xã hội phong kiến, nó đã giữ vai trò thống trị
trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc qua nhiều thế kỷ. Vì vậy những quan điểm đường nối
phương pháp chuẩn mực… mà Nho giáo đề ra phục vụ đắc lực cho chính xã hội sinh ra
nó. Nho giáo bàn đến nhiều vấn đề như quan điểm về thế giới (đạo, thiên lý, thiên
mệnh…) học thuyết về luân lý đạo đức với những nguyên lý căn bản như: nhân, lễ,
dũng... trong đó chữ “Nhân" được đề cập đến với ý nghĩa sâu rộng nhất, nó được coi là
nguyên lý chủ yếu quyết định bản tính con người và những quan hệ giữa con người với
con người trong gia tộc đến ngoài xã hội. Bên cạnh đó, Nho giáo còn bàn về quan điểm
chính trị - xã hội với phạm trù “Nhân trị", "Chính danh", “Thượng hiền”... Vấn đề con
người nói chung cũng được Nho giáo bàn đến. Muốn xây dựng thành công và giữ vị trí
thống trị một xã hội thì phải có con người điều hành, tổ chức xã hội đó. Điều này khiến
cho vấn đề con người được xã hội phong kiến cũng như Nho giáo rất quan tâm. Con
người là vấn đề trung tâm của Nho giáo nhưng không được bàn đến trong tất cả các mặt
của nó mà chú trọng vào khía cạnh luân lý, đạo đức nhằm mục đích xoa dịu mâu thuẫn
giai cấp và ổn định trật tự xã hội. Con người trong Nho giáo được bàn đến dưới những
góc độ: nguồn gốc con người, tính người, số phận con người, mẫu người lý tưởng, đạo
làm người… Trong tất cả các vấn đề nêu trên người phụ nữ ít được bàn đến vai trò của họ
rất mờ nhạt. Một số vấn đề trong Nho giáo đề cập đến người phụ nữ như: Học thuyết luân
lý đạo đức phong kiến; quan niệm về đạo làm vợ, đạo làm con; mối quan hệ với mọi
người trong gia tộc, ngoài xã hội; quan niệm về phạm vi, lĩnh vực, công việc mà họ được
phép tham gia. Nhìn chung người phụ nữ trong Nho giáo được đánh giá là một lực lượng
cơ bản để xây dựng xã hội nhưng họ luôn ở vị trí phụ thuộc vào nam giới. Họ chỉ tồn tại
với tư cách là một yếu tố cần, đủ cho trật tự gia đình, xã hội.
Về số phận của họ cũng như số phận con người nói chung, theo Khổng Tử, con
người có mệnh và họ không thể cưỡng lại mệnh (chữa được bệnh chứ không chữa được
mệnh). Còn Mạnh Tử cho rằng, trời an bài địa vị xã hội của con người. Đổng Trọng Thư
cho rằng, trời và người cảm thông với nhau (“Thiên nhân cảm ứng”), trời là chủ tể của
việc người, người có công thì hưởng, người có tội thì phạt, bắt khổ phải khổ, cho sung
sướng được sung sướng. Giống như:
“Ngẫm ra muôn sự tại trời”
“Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”
(Kiều)
Quan điểm này được xây dựng trên lập trường của giai cấp thống trị, nó phục vụ
cho mục đích của giai cấp thống trị, nó buộc con người nói chung, đặc biệt là phụ nữ vào
những khuôn phép nhất định của xã hội, nó xoa dịu mâu thuẫn giai cấp, sự bất công trong
xã hội, khiến cho người phụ nữ luôn cam chịu, nhẫn nhục, bằng lòng với số phận của
mình.
Nho giáo không tìm nguyên nhân rối loạn của xã hội ở cơ sở kinh tế mà tìm ở
bản chất con người đặc biệt là ở khía cạnh đạo đức. Mạnh Tử cho rằng bản chất con
người là thiện, là hiểu được các mối quan hệ vua - tôi, cha - con, vợ - chồng, trên -
dưới… và tự ghép được mình vào các mối quan hệ đó một cách phù hợp và theo đúng
chuẩn mực. Cụ thể, trong