Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) là tổ chức kinh tế tập thể có vai trò đặc biệt
quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; được Đảng, Nhà nước
quan tâm phát triển trong mọi giai đoạn cách mạng. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi
mới, nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, thì HTXNN cũng được
chuyển đổi cả về nội dung và hình thức hoạt động theo Luật Hợp tác xã (HTX) (ban hành
năm 1996), nhằm thích ứng kịp thời với môi trường sản xuất - kinh doanh mới. Tuy nhiên,
trong thực tế hoạt động, mô hình HTXNN kiểu mới vấp phải rất nhiều khó khăn, hiệu quả
sản xuất kinh doanh thấp.
Tổng kết năm năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (1996), Hội nghị
Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã ra Nghị quyết về: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Trên cơ
sở nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, ngày 26-11-2003, tại kỳ
họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật hợp tác xã mới (Luật HTX năm 2003), và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2004. Đó là căn cứ thực tiễn và pháp lý quan trọng để tiếp tục
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Do vậy, việc
nghiên cứu kinh tế HTX vẫn là vấn đề cấp bách cả về lý luận và thực tiễn.
Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng có điều kiện tự nhiên
thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa lớn. Do vậy, phải quan tâm
phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp.
Từ khi triển khai thực hiện Luật HTX (ban hành 1996), HTX kiểu mới nói chung
và HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình có bước phát triển mới, đã đáp ứng được
một phần nhu cầu của những người lao động, hộ sản xuất - kinh doanh nông nghiệp, đóng
góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, HTXNN kiểu
mới trên địa bàn tỉnh hiện nay còn yếu kém nhiều mặt, một số lớn HTX chuyển đổi còn
mang tính hình thức, năng lực nội tại hạn chế, số HTX làm ăn hiệu quả còn ít, lợi ích đem
lại cho các thành viên chưa nhiều, HTXNN kiểu mới phát triển chưa tương xứng với tiềm
năng và vai trò kinh tế - xã hội vốn có của nó.
100 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2204 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở
Thái Bình hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) là tổ chức kinh tế tập thể có vai trò đặc biệt
quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; được Đảng, Nhà nước
quan tâm phát triển trong mọi giai đoạn cách mạng. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi
mới, nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, thì HTXNN cũng được
chuyển đổi cả về nội dung và hình thức hoạt động theo Luật Hợp tác xã (HTX) (ban hành
năm 1996), nhằm thích ứng kịp thời với môi trường sản xuất - kinh doanh mới. Tuy nhiên,
trong thực tế hoạt động, mô hình HTXNN kiểu mới vấp phải rất nhiều khó khăn, hiệu quả
sản xuất kinh doanh thấp.
Tổng kết năm năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (1996), Hội nghị
Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã ra Nghị quyết về: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Trên cơ
sở nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, ngày 26-11-2003, tại kỳ
họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật hợp tác xã mới (Luật HTX năm 2003), và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2004. Đó là căn cứ thực tiễn và pháp lý quan trọng để tiếp tục
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Do vậy, việc
nghiên cứu kinh tế HTX vẫn là vấn đề cấp bách cả về lý luận và thực tiễn.
Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng có điều kiện tự nhiên
thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa lớn. Do vậy, phải quan tâm
phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp.
Từ khi triển khai thực hiện Luật HTX (ban hành 1996), HTX kiểu mới nói chung
và HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình có bước phát triển mới, đã đáp ứng được
một phần nhu cầu của những người lao động, hộ sản xuất - kinh doanh nông nghiệp, đóng
góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, HTXNN kiểu
mới trên địa bàn tỉnh hiện nay còn yếu kém nhiều mặt, một số lớn HTX chuyển đổi còn
mang tính hình thức, năng lực nội tại hạn chế, số HTX làm ăn hiệu quả còn ít, lợi ích đem
lại cho các thành viên chưa nhiều, HTXNN kiểu mới phát triển chưa tương xứng với tiềm
năng và vai trò kinh tế - xã hội vốn có của nó.
Những hạn chế, yếu kém của HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh có nhiều nguyên
nhân, trong đó có nguyên nhân cả về khách quan, chủ quan; cả về kinh tế, chính trị, xã hội;
đòi hỏi phải được nghiên cứu, giải quyết. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới HTXNN
cả về nội dung và phương thức hoạt động theo Luật HTX năm 2003 cho phù hợp với yêu
cầu thực tiễn của tỉnh.
Với lý do đó, tác giả chọn đề tài "Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình
hiện nay" làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị, nhằm góp phần giải
quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế HTXNN là một trong những vấn
đề được Đảng và Nhà nước luôn quan tâm. Trong suốt quá trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) ở nước ta, vấn đề HTXNN là chủ đề được nhiều cơ quan khoa học, nhiều
nhà khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ, phạm vi và mức độ khác nhau. Trong đó, có
những công trình tiêu biểu được công bố như:
- Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã: "Đổi mới tổ chức và quản lý hợp tác xã
trong nông nghiệp nông thôn", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1999. Các tác giả đã khái quát
toàn bộ quá trình phát triển của các hình thức tổ chức, quản lý HTX trong nông thôn Việt
Nam từ trước đây đến khi chuyển sang kinh tế thị trường và phân tích thực trạng mô hình tổ
chức quản lý các HTX ở một số địa phương tiêu biểu. Trên cơ sở đó, phác họa một số
phương hướng và giải pháp chủ yếu để xây dựng mô hình tổ chức có hiệu quả cho các loại
hình HTX.
- Nguyễn Văn Bình, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng: "Kinh tế hợp tác, hợp tác xã
ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2001. Các
tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, HTX
trên thế giới và ở Việt Nam với những thành công và tồn tại, từ đó nêu lên định hướng
phát triển phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
- Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ: "Kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Các tác giả tập trung
trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế hợp tác, HTX; sự cần thiết khách
quan phải lựa chọn các mô hình kinh tế hợp tác, HTX phù hợp với đặc điểm, điều kiện
nông nghiệp, nông thôn nước ta, đề xuất những giải pháp phát triển các mô hình kinh tế
hợp tác, HTX trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Trần Minh Tâm, năm 2000, về "Phát triển
kinh tế hợp tác ở ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp". Tác giả
nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động của kinh tế hợp tác ở Thành phố Hồ Chí Minh và
đề xuất các giải pháp phát triển.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Lê Thùy Hương, năm 2003, về "Kinh tế tập thể
trên địa bàn tỉnh Hải Dương, thực trạng và giải pháp". Tác giả trình bày vai trò, tính tất yếu
khách quan của việc phát triển kinh tế tập thể; đánh giá thực trạng và giải pháp phát triển kinh
tế tập thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
- "Hợp tác xã nông nghiệp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long - nhìn từ thực tiễn"
của Nguyễn Văn Tuất, Tạp chí Khoa học về chính trị, số 3, 2002.
- "Về chế độ kinh tế hợp tác xã ở nước ta" của PGS.TS Vũ Văn Phúc, Tạp chí Lý
luận chính trị, số 1, 2002.
Một số bài viết của tác giả như: Trần Ngọc Dũng, Mai Công Hòa, Hoàng Việt...
Nhìn chung, các công trình đã nghiên cứu trên nhiều khía cạnh của kinh tế
HTXNN. Trong đó, các công trình nghiên cứu trước năm 2001 chủ yếu đi vào làm rõ
những yếu kém của mô hình HTX kiểu cũ, luận giải sự cần thiết, thực trạng chuyển đổi mô
hình HTX theo Luật HTX (1996); các công trình nghiên cứu sau năm 2001, nghiêng về
nghiên cứu sự phát triển của kinh tế tập thể nói chung theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
Đảng IX. Cho đến nay, chưa có đề tài nghiên cứu cụ thể về HTXNN kiểu mới trên địa bàn
tỉnh Thái Bình. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả muốn kế thừa thành quả nghiên cứu
của các công trình trên, vận dụng tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) và cập
nhật những điểm mới của Luật HTX năm 2003 vào nghiên cứu, đánh giá hoạt động của
các HTXNN kiểu mới (theo Luật HTX 1996) ở Thái Bình, để từ đó đề xuất phương hướng
và giải pháp tiếp tục xây dựng, phát triển HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh trong thời
gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Khảo sát, đánh giá hoạt động của HTXNN kiểu mới ở Thái Bình từ năm 1997 (khi
Luật HTX năm 1996 có hiệu lực) đến nay. Từ đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp
tiếp tục hoàn thiện HTXNN kiểu mới ở Thái Bình trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
- Khái quát lại những vấn đề cơ bản về HTXNN kiểu mới: nội dung, phương thức
hoạt động và tính cấp thiết phải phát triển HTXNN kiểu mới (theo Luật HTX năm 2003) ở
Thái Bình hiện nay;
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng của HTXNN kiểu mới ở Thái Bình từ
1997 đến nay;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp tiếp tục phát triển, hoàn thiện HTXNN kiểu mới ở
Thái Bình trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới theo Luật HTX (năm 1996 và năm 2003).
- Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình từ năm 1997 (khi
Luật HTX năm 1996 có hiệu lực) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh; đường lối, quan điểm, những tổng kết kinh nghiệm của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước; kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung
gần gũi với đề tài.
- Về phương pháp nghiên cứu: vận dụng phương pháp chung của kinh tế chính trị
như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc với lịch sử, kết hợp lý luận với
thực tiễn; đồng thời khảo sát thực tế, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa vấn đề, rút
ra kết luận.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn đã hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về HTXNN kiểu mới; trên cơ
sở đó, khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển HTXNN kiểu mới ở Thái Bình, xác định
nguyên nhân những yếu kém tồn tại; từ đó, đề xuất các giải pháp phát triển, hoàn thiện
HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở đánh giá HTXNN kiểu mới ở Thái Bình, luận văn rút ra những vấn đề
phù hợp và chưa phù hợp của mô hình HTXNN kiểu mới hiện nay; từ đó, đề xuất các giải
pháp để hoàn thiện chúng.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh đạo, hoạch định chính sách,
chỉ đạo thực tiễn, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đồng thời
có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ công tác giảng dạy ở trường chính trị tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.
Chương 1
Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới và sự cần thiết
phát triển Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
1.1. Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
1.1.1. Khái niệm Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
* Hợp tác:
Hợp tác là sự kết hợp sức lực của các cá nhân hoặc đơn vị để tạo nên sức mạnh lớn
hơn, nhằm thực hiện những công việc mà mỗi cá nhân, đơn vị hoạt động riêng rẽ sẽ gặp
khó khăn, thậm chí không thể thực hiện được, hoặc thực hiện kém hiệu quả so với hợp tác
[7, tr. 11].
Hợp tác là hình thức tất yếu trong lao động sản xuất và hoạt động kinh tế của con
người. Hợp tác bắt nguồn từ tính chất xã hội của hoạt động nói chung, của lao động sản
xuất và hoạt động kinh tế nói riêng của con người. Do vậy, sự phát triển của hợp tác gắn
liền và bị quy định bởi tiến trình nâng cao trình độ xã hội hóa sản xuất và hoạt động kinh
tế. Trong lao động sản xuất, hợp tác có tác dụng làm tăng năng suất lao động. Sự phát triển
của các hình thức và tính chất thích hợp của hợp tác có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh
tế.
Hợp tác lao động được thực hiện từ khi loài người xuất hiện và ngày càng phát
triển. Cùng với tiến trình phát triển xã hội, phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản
xuất ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Do đó, nhu cầu về hợp tác lao động ngày
càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng chặt chẽ và mở rộng. Nó không bị giới hạn trong
phạm vi từng đơn vị, từng ngành, từng địa phương, trong một nước, mà còn mở rộng trên
phạm vi quốc tế.
Hợp tác có nhiều hình thức với đặc điểm, tính chất, trình độ khác nhau: hợp tác
ngẫu nhiên, nhất thời; hợp tác thường xuyên, ổn định; hợp tác lao động như Mác đã phân
tích về ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp; hợp tác giữa các
đơn vị, các ngành v.v...
* Kinh tế hợp tác:
Kinh tế hợp tác là phạm trù hẹp của hợp tác, phản ánh một phạm vi hợp tác - hợp
tác trong lĩnh vực kinh tế.
Kinh tế hợp tác là một hình thức quan hệ kinh tế, hợp tác tự nguyện, phối hợp, hỗ
trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, kết hợp sức mạnh của từng thành viên với
ưu thế và sức mạnh của tập thể để giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất - kinh
doanh và đời sống kinh tế, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi thành
viên.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, thì kinh
tế hợp tác là một hình thức kinh tế mà nhờ đó các chủ thể kinh tế tự chủ có điều kiện phát
triển. Như vậy, quan hệ kinh tế hợp tác phải được xây dựng trên nguyên tắc: tự nguyện,
bình đẳng, cùng có lợi và tính tự chủ, độc lập của các thành viên tham gia.
Hợp tác trong nông nghiệp là nhu cầu khách quan. Từ thời xa xưa, các hộ nông
dân đã có nhu cầu hợp tác với nhau để hỗ trợ, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn, nâng cao
hiệu quả sản xuất.
Khi nền sản xuất còn mang nặng tính tự cung, tự cấp thì quá trình hợp tác mang
tính chất hợp tác lao động theo mùa vụ, đổi công, cùng làm giúp nhau v.v... nhằm đáp ứng
nhu cầu thời vụ, hoặc tăng thêm sức mạnh để giải quyết những công việc mà từng hộ gia
đình không có khả năng thực hiện, hoặc làm riêng rẽ không có hiệu quả như: phòng chống
thiên tai, thú dữ, sâu bệnh, đào kênh dẫn nước v.v... Đặc điểm cơ bản của hợp tác kiểu này
là hợp tác theo thời vụ, việc hợp tác ngẫu nhiên, không thường xuyên, chưa tính đến giá trị
ngày công. Đây là các hình thức hợp tác ở trình độ thấp.
Khi nền nông nghiệp hàng hóa phát triển, nhu cầu dịch vụ cho quá trình tái sản
xuất ngày càng tăng cả về quy mô và chất lượng, như dịch vụ về giống, phòng trừ sâu
bệnh, chế biến và tiêu thụ nông sản, thủy lợi v.v... Trong điều kiện này, từng hộ nông dân
tự đảm nhiệm tất cả các khâu cho quá trình sản xuất sẽ gặp khó khăn, hoặc không đủ khả
năng đáp ứng, hoặc hiệu quả kinh tế thấp kém hơn so với hợp tác. Từ đó, nảy sinh nhu cầu
hợp tác ở trình độ cao hơn, đó là hợp tác thường xuyên, ổn định, có tính đến giá trị ngày
công, giá trị dịch vụ, dẫn đến hình thành hợp tác xã.
Như vậy, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, không phân biệt chế độ chính trị -
xã hội, xuất phát từ mục tiêu kinh tế, nông dân đều có nhu cầu hợp tác từ hình thức giản
đơn đến phức tạp, từ đơn ngành đến đa ngành. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì nhu
cầu hợp tác càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng sâu rộng. Do đó, tất yếu hình thành
và ngày càng phát triển các hình thức kinh tế hợp tác ở trình độ cao hơn, từ kinh tế hợp tác
giản đơn như các tổ, hội nghề nghiệp; các tổ, nhóm hợp tác, đến các tổ kinh tế hợp tác và
hợp tác phát triển ở trình độ cao là hợp tác xã.
* Hợp tác xã:
Hợp tác xã là loại hình kinh tế hợp tác phát triển ở trình độ cao hơn loại hình kinh
tế hợp tác giản đơn. ở nhiều nước trên thế giới, HTX đã có lịch sử hình thành và phát triển
hơn 100 năm. Trong luật HTX của nhiều nước cũng như một số tổ chức quốc tế đều có các
định nghĩa về HTX. Liên minh HTX quốc tế (International Covperatise Alliance - ICA) được
thành lập tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn, Vương quốc Anh, đã định nghĩa HTX như sau:
"Hợp tác xã là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các
nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hóa qua một xí nghiệp cùng
sở hữu và quản lý dân chủ". Năm 1995, định nghĩa này được hoàn thiện: "Hợp tác xã dựa
trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng, công bằng và đoàn kết.
Theo truyền thống của những người sáng lập ra hợp tác xã, các xã viên hợp tác xã tin
tưởng vào ý nghĩa đạo đức, về tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội và quan tâm
chăm sóc người khác" [1].
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: HTX là sự liên kết của những người
đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết nhau lại trên cơ sở
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ đã chuyển giao vào HTX phù
hợp với các nhu cầu chung và giải quyết những khó khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự
chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác,
phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh thần chung v.v...
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về HTX, cũng như sự khác nhau về đặc
điểm, cơ chế tổ chức, phương thức hoạt động v.v. của các mô hình HTX ở các nước trên
thế giới, song các loại hình HTX đều có một số đặc điểm chung sau đây:
- HTX là một tổ chức kinh tế do các chủ thể kinh tế tự nguyện góp vốn, góp sức
hình thành. Hoạt động của HTX chủ yếu nhằm mục đích phục vụ hoạt động kinh tế của
các thành viên tham gia với phương châm giúp đỡ lẫn nhau (cũng là giúp đỡ chính mình).
Ngoài ra, hoạt động của HTX còn mang tính cộng đồng xã hội - tương trợ, giúp đỡ cộng
đồng. Do vậy, lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất của HTX.
- Nguyên tắc cơ bản của HTX là tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân
chủ. ở các nước tư bản, kinh tế hợp tác mặc dù chỉ là dòng "Kinh tế phụ", nhưng nó đặc
biệt quan trọng đối với nông dân. HTX giúp đỡ các trang trại, hộ nông dân tồn tại trước
những tác động của kinh tế thị trường và ảnh hưởng của các tổ chức độc quyền lớn. Do
vậy, ngoài mục tiêu kinh tế, HTX còn là loại hình kinh tế mang tính chất xã hội - nhân đạo.
* Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới:
ở nước ta, trong quá trình cải tạo kinh tế XHCN và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, phát triển. Thời kỳ
1958 - 1980, kinh tế HTX phát triển mạnh trong phạm vi cả nước và đã có nhiều đóng góp
to lớn trong xây dựng nông thôn, phát triển cộng đồng, đặc biệt trong công cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước và bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc. Song, trong một
thời gian dài, do nhận thức chủ quan, nóng vội, bất chấp quy luật khách quan, chúng ta đã
đồng nhất hợp tác hóa với tập thể hóa, hợp tác hóa với cải tạo XHCN; xây dựng các HTX
không hoàn toàn dựa trên nguyên tắc tự nguyện, mà thực hiện bằng các biện pháp hành
chính, xem nhẹ các biện pháp kinh tế, coi thường các bước quá độ trung gian trong cải tạo
XHCN. ở thời kỳ này, vẫn có các hình thức tổ chức sản xuất ở trình độ thấp như tổ đổi
công, tổ đoàn kết sản xuất, HTX bậc thấp, nhưng cũng chỉ là tạm thời, xu hướng chung là
chuyển nhanh lên trình độ tập thể hóa bậc cao. Do vậy, chúng ta đã vi phạm nghiêm trọng
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Các HTX càng tập thể hóa ở trình độ cao, càng hoạt động kém hiệu quả; đã đẩy kinh
tế đất nước rơi vào khủng hoảng, trì trệ.
Khi đất nước đổi mới, mở cửa, chuyển đổi cơ chế hoạt động của nền kinh tế, hàng
loạt các HTX bị đổ vỡ, giải thể, đặt ra yêu cầu phải đổi mới cả về nội dung và phương thức
hoạt động của HTX cho phù hợp với cơ chế kinh tế mới.
Thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và các biện
pháp chỉ đạo hiệu quả của Chính phủ, sản xuất nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển
mạnh mẽ; kinh tế tập thể trong nông nghiệp cũng xuất hiện nhiều hình thức hợp tác, liên
kết mới, song chưa được định hình về tổ chức. ở một số địa phương, các HTX đã tìm tòi,
thử nghiệm mô hình HTX kiểu mới cho phù hợp với thực tế kinh tế.
Tổng kết thực tiễn đổi mới, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996)
đã đề ra nhiệm vụ phải xây dựng HTX kiểu mới - HTX cổ phần. Tháng 3-1996, tại kỳ họp thứ
9, Quốc hội khóa IX đã ban hành Luật HTX để tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt
động của HTX trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN. Những HTX được thành lập
và hoạt động theo Luật này được gọi là HTX kiểu mới (để phân biệt với mô hình HTX
trước đổi mới).
Theo luật này, HTX được định nghĩa:
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu
cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của
pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau
thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải
thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước 7, tr. 5].
Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (năm 1996), Hội nghị
Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã ra Nghị quyết về: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX.
Trên cơ sở nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, ngày 26-11-
2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật HTX sửa đổi, bổ sung (Luật
HTX năm 2003). Luật này định nghĩa:
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp
nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp
vốn, góp