Trong những năm gần đây, đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội Việt Nam
ngày càng được phát triển một cách toàn diện. Đặc biệt, sự phát triển đó gắn chặt với sự
phát triển của ngành Bưu chính - Viễn thông, trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò
then chốt. Sự phát triển mạnh mẽ của mạng điện thoại (PSTN), điện thoại di động
(GSM), mạng truyền số liệu (DATA), mạng internet. không chỉ góp phần xây dựng nền
kinh tế đất nước, giữ vững an ninh quốc phòng mà còn là hạ tầng kinh tế kỹ thuật để góp
phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc nghiên cứu ảnh hưởng của
công nghệ thông tin đối với đời sống văn hóa là vô cùng quan trọng. Trong đời sống văn
hóa, thông tin đóng vai trò như một động lực thúc đẩy sự phát triển ở cả hai lĩnh vực: Vật
chất và tinh thần bởi tính ứng dụng của nó. Điều này càng được nhìn nhận rõ hơn trong
bối cảnh có sự phát triển kinh tế đối ngoại, xu thế quốc tế hóa kinh tế và toàn cầu hóa.
Xét như vậy, muốn đánh giá sự phát triển văn hóa của một quốc gia hiện nay thì
không thể không nhìn nhận nó trong và dưới sự tác động của công nghệ thông tin trong
đó quan trọng hơn cả là thông tin trên internet bởi tính nhanh nhạy, tính toàn cầu cùng
với những ứng dụng tiện lợi và kho tàng tri thức kỳ diệu mà dịch vụ internet mang đến
cho người sử dụng.
94 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1937 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Internet với đời sống văn hóa ở nhân dân Thủ đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Internet với đời sống văn hóa của
nhân dân Thủ đô
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Trong những năm gần đây, đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội Việt Nam
ngày càng được phát triển một cách toàn diện. Đặc biệt, sự phát triển đó gắn chặt với sự
phát triển của ngành Bưu chính - Viễn thông, trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò
then chốt. Sự phát triển mạnh mẽ của mạng điện thoại (PSTN), điện thoại di động
(GSM), mạng truyền số liệu (DATA), mạng internet... không chỉ góp phần xây dựng nền
kinh tế đất nước, giữ vững an ninh quốc phòng mà còn là hạ tầng kinh tế kỹ thuật để góp
phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc nghiên cứu ảnh hưởng của
công nghệ thông tin đối với đời sống văn hóa là vô cùng quan trọng. Trong đời sống văn
hóa, thông tin đóng vai trò như một động lực thúc đẩy sự phát triển ở cả hai lĩnh vực: Vật
chất và tinh thần bởi tính ứng dụng của nó. Điều này càng được nhìn nhận rõ hơn trong
bối cảnh có sự phát triển kinh tế đối ngoại, xu thế quốc tế hóa kinh tế và toàn cầu hóa.
Xét như vậy, muốn đánh giá sự phát triển văn hóa của một quốc gia hiện nay thì
không thể không nhìn nhận nó trong và dưới sự tác động của công nghệ thông tin trong
đó quan trọng hơn cả là thông tin trên internet bởi tính nhanh nhạy, tính toàn cầu cùng
với những ứng dụng tiện lợi và kho tàng tri thức kỳ diệu mà dịch vụ internet mang đến
cho người sử dụng.
1.2. Tại Việt Nam, việc phổ cập internet đến từng người dân đang là mục tiêu của
chính phủ. Năm 2003, Bộ Bưu chính - Viễn thông đã quyết tâm lấy internet kích cầu
công nghệ thông tin. Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam đã xây dựng dự án
"internet cộng đồng" nhằm đưa internet đến hơn 10.000 điểm Bưu điện - văn hóa xã hoặc
các cơ sở tương đương, hơn 600 Trung tâm văn hóa quận huyện, tỉnh, hơn 800 trường
Đại học, Cao đẳng, Trung học và phổ thông, 130 bệnh viện lớn và trọng điểm... nhằm
xây dựng một cơ sở hạ tầng viễn thông phát triển để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
1.3. Như vậy, vấn đề đặt ra cho những người làm quản lý văn hóa là sẽ phải xác
định được vai trò của internet trong đời sống văn hóa của người Việt Nam. Trực tiếp đối
mặt với những ảnh hưởng của sự phát triển internet ở Việt Nam. Kinh tế nào thì văn hóa
ấy, song một khi kinh tế phát triển nhanh đi trước quá xa so với văn hóa thì sẽ gặp phải
những bất cập. Vậy sự nhận thức của người Việt Nam sử dụng internet như thế nào, cần
điều chỉnh, giáo dục hướng dẫn những gì khi internet - một sản phẩm văn minh của nhân
loại còn là một dịch vụ mới mẻ đối với người Việt Nam. Đây là những vấn đề được
Chính phủ và các nhà cung cấp đang quan tâm, đặc biệt với những nhà văn hóa thì đây
cũng là một thách thức trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Việc nghiên cứu những ảnh hưởng của internet đối với đời sống văn hóa của
người Việt Nam sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn khách quan hơn sự phát triển của văn
hóa nước nhà trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
1.4. Theo con số thống kê chính thức của Bộ Bưu chính - Viễn thông thì 86% số
người truy cập internet hàng ngày ở Việt Nam tập trung ở hai thành phố lớn là Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, Hà Nội là một trong hai địa bàn chính có số người
truy nhập internet cao hiện nay và là trung tâm kinh tế - văn hóa - chính trị của cả nước
nên người viết mạnh dạn chọn đề tài: "Internet với đời sống văn hóa của nhân dân Thủ
đô" làm luận văn Thạc sĩ khoa học, chuyên ngành Văn hóa học cho mình.
Đề tài này tập trung nghiên cứu về sự ảnh hưởng của internet với đời sống văn
hóa của nhân dân Thủ đô Hà Nội. Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là tầng lớp học sinh,
sinh viên, các cán bộ nghiên cứu, những nhà quản lý. Ngoài ra, đề tài cũng phân tích
những hệ quả của sự phát triển mạng internet ở Việt Nam nhằm giúp cho người sử dụng
dịch vụ internet có cách đánh giá và tiếp thu nền văn hóa, văn minh của nhân loại một
cách có chọn lọc trước những thông tin mà dịch vụ này mang lại.
2. Tình hình nghiên cứu và sưu tầm
2.1. Về nghiên cứu
Dịch vụ internet là sản phẩm văn minh của thời đại, mới được chính thức sử dụng
ở Việt Nam từ năm 1997. Tuy vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả, các
nhà khoa học viết về lĩnh vực này, tuy nhiên đó chỉ là những công trình khoa học đi sâu
nghiên cứu về kỹ thuật và học thuật, về cấu trúc mạng hay công nghệ công cụ xây dựng,
hướng dẫn cách truy cập, khai thác... Đứng trên quan điểm xã hội học đã có một vài công
trình của các tác giả là giảng viên Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả
Trần Hữu Quang trong cuốn sách "Chân dung công chúng truyền thông" cũng đi sâu phân
tích mối quan hệ đa chiều giữa truyền thông đại chúng và những người tiếp nhận nhưng
tác giả chưa đề cập gì đến internet - một loại truyền thông mới. Viết về internet, tác giả
Phạm Thị Thanh Tâm đưa ra cái nhìn thực tế hơn về những khó khăn mà chúng ta thực
sự phải đối đầu khi bước vào xa lộ thông tin với internet. Đó chính là vấn đề mới mẻ đòi
hỏi các nhà quản lý cần quan tâm giải quyết. Một số khảo sát của sinh viên khoa Xã hội
học - Phân viện Báo chí và Tuyên truyền về "Mức độ hài lòng về việc truy cập internet
trong sinh viên" cũng cho thấy được nhu cầu của lớp tri thức trẻ về internet. Năm 2001
một cuộc hội thảo quốc tế mang chủ đề "Trẻ em trên mạng internet" (Kid - on line) được tổ
chức tại Hà Nội, báo cáo dự hội nghị là những nghiên cứu về tình hình sử dụng internet
của trẻ em cùng những vấn đề có liên quan ở các nước châu á. Tham dự hội thảo này,
Việt Nam có hai báo cáo xã hội học, đó là "Một nghiên cứu thử nghiệm về trẻ em và các
trò chơi điện tử ở Việt Nam" (An exploratory study of children and electronic games in
Vietnam) của Nguyễn Quý Thanh và Nguyễn Quý Nghi; "Nghiên cứu ảnh hưởng của
internet đến trẻ em, trường hợp Hà Nội" (Stealing access - a case study in Hanoi). Các
nghiên cứu trên mới là những nghiên cứu thực địa cho chúng ta thấy tình hình sử dụng
internet rất hiếm hoi của trẻ em lúc bấy giờ, khi mà internet chưa phổ biến và thực sự
"bùng phát". Tháng 3 năm 2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Công nghệ thông
tin và IDG World expo đã tổ chức hội thảo quốc tế về công nghệ thông tin và truyền
thông trong giáo dục ở Việt Nam. Bên cạnh các chủ đề mang tính bao quát như: Đề án
mạng giáo dục Edunet, giải pháp học qua mạng thế hệ tiếp theo, đào tạo qua mạng, E-
learning- đào tạo trực tuyến... hội thảo còn là nơi trao đổi những vấn đề cụ thể liên quan
đến các phòng ban, sở giáo dục và các giáo viên... tuy nhiên, hội thảo chưa hề đề cập đến
những mặt trái của internet khi đưa vào giáo dục.
Trong cái nhìn tổng quan về nhu cầu giải trí của thanh niên Việt Nam hiện nay,
cuốn "Nhu cầu giải trí của thanh niên" xuất bản năm 2003 của tác giả Đinh Thị Vân Chi
đã phân tích khá tỷ mỷ và nêu ra một số ảnh hưởng của internet đối với thanh niên ở một số
thành phố lớn, trong đó có Hà Nội. Tác giả đã đề cập đến một số mặt tích cực và mặt trái
của internet. Cuốn sách là một tài liệu tham khảo rất bổ ích cho người thực hiện đề tài này.
1.2. Về sưu tầm
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các nguồn tư liệu sau:
* Những văn bản, quyết định của chính phủ về việc chính thức kết nối internet tại
Việt Nam, bao gồm:
- Hướng dẫn kết nối, sử dụng internet tại Việt Nam.
- Quyết định số 136/TTg ngày 5 tháng 3 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ về
việc thành lập ban điều phối quốc gia mạng internet ở Việt Nam - Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ về một số chính sách, biện pháp khuyến khích, đầu tư và phát triển công
nghệ phần mềm.
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt kế hoạch phát triển internet
Việt Nam giai đoạn 2001- 2005 về quản lý, cung cấp và sử dụng internet.
- Nghị định 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ internet tại
Việt Nam.
* Những văn bản, quyết định của Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện về phát triển
internet ở Việt Nam. Các tạp chí của ngành Bưu chính - Viễn thông các số từ năm 1996
đến tháng 8/2004.
* Tổng hợp "Tin nhanh" của Trung tâm Thông tin Bưu điện - Tổng công ty Bưu
chính - Viễn thông Việt Nam (tài liệu lưu hành nội bộ phát hành hàng tuần vào sáng thứ
sáu).
* Tham khảo các tài liệu về internet, thương mại điện tử của Học viện Công nghệ
Bưu chính - Viễn thông.
* Tham khảo các phóng sự, bài viết về internet trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Trực tiếp khảo sát trên internet và những người sử dụng internet tại một số cơ
quan và các điểm dịch vụ công cộng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích khái niệm văn hóa, đời sống văn hóa và thực trạng sử dụng
internet, những ảnh hưởng của việc sử dụng internet tới đời sống văn hóa của người dân
Thủ đô. Đề tài đưa ra một số dự báo, xu hướng và giải pháp nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả của việc sử dụng internet trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích khái niệm văn hóa, đời sống văn hóa, internet, những ứng dụng của
internet trong đời sống xã hội.
- Phân tích thực trạng của internet và vai trò và ảnh hưởng của internet trong đời
sống văn hóa của người dân Thủ đô Hà Nội.
- Dự báo xu hướng và những định hướng lớn về sự phát triển của internet ở Hà
Nội.
- Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần phát huy những mặt tích cực
của công nghệ thông tin nói chung và dịch vụ internet nói riêng vào việc nâng cao đời
sống văn hóa của người dân Thủ đô Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Sự hình thành và phát triển của mạng internet ở Việt Nam;
- Vai trò của internet trong đời sống văn hóa của người Việt Nam;
- Thực trạng tình hình sử dụng internet ở Thủ đô Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Văn hóa trong khai thác mạng internet ở Thủ đô Hà Nội. Đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu vào bốn nhóm xã hội chính, gồm học sinh sinh viên, cán bộ làm công tác nghiên
cứu và giảng dạy, cán bộ làm công tác quản lý và nhóm cán bộ, công nhân, viên chức trong
thời gian gần đây (từ 1998 đến nay).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Trên quan điểm duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nắm vững các
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng một nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển khoa học kỹ thuật mà trong đó công nghệ
thông tin là một ngành then chốt.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành; văn hóa học - xã hội học.
- Phương pháp xã hội học và điền dã để tìm hiểu, thống kê thực trạng truy cập
internet ở Hà Nội.
- Trực tiếp khai thác, khảo sát trực tuyến trên mạng nhằm so sánh, tổng hợp và
tìm hiểu các vấn đề đã được xác định trên cơ sở các nguồn tư liệu đã thu thập để thực
hiện mục tiêu đề tài đặt ra.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ vai trò của internet trong đời sống văn hóa của người Việt
Nam nói chung và nhân dân Thủ đô nói riêng.
- Phân tích tương đối có hệ thống những ảnh hưởng của sự phát triển mạng
internet đối với đời sống văn hóa của nhân dân Thủ đô Hà Nội.
- Đưa ra một số dự báo, kiến nghị và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng internet trong đời sống văn hóa của người dân trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Là tài liệu tham khảo đối với các nhà hoạch định chính sách, từ đó có thể đưa ra
những phương hướng để có thể khai thác triệt để những mặt tích cực, giảm thiểu những
tiêu cực do một số phần tử phản động lạm dụng mạng internet để tuyên truyền.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Internet - một nhân tố mới trong đời sống văn hóa hiện nay
Chương 2: Thực trạng của việc sử dụng internet ở Hà Nội
Chương 3: Dự báo xu hướng và một số giải pháp nhằm góp phần phát huy hiệu
quả của việc sử dụng internet trong đời sống văn hóa của người dân Thủ đô.
Chương 1
internet - một nhân tố mới
trong đời sống văn hóa hiện nay
1.1. một số khái niệm then chốt
1.1.1. Văn hóa
Khái niệm "văn hóa" từ lâu đã được giới nghiên cứu quan tâm xác định nội hàm
từ nhiều phương diện khác nhau. Xét một cách tổng quát, văn hóa thể hiện bản chất năng
lực của con người trong mối quan hệ với thiên nhiên, với xã hội và với chính bản thân
mình, văn hóa gắn liền với hoạt động sống của cá nhân và của cộng đồng. Văn hóa là dấu
hiệu phân biệt đặc trưng và trình độ của loài người, như vậy, văn hóa phản ánh các mặt
trong hoạt động của cá nhân và cộng đồng. Từ sinh hoạt, ăn, mặc, ở, đi lại đến các hoạt
động chính trị, khoa học, giáo dục, nghệ thuật, lối sống, phong tục, tập quán, tín
ngưỡng... ở đâu có hoạt động sống của con người là ở đó có sự can thiệp và định hướng
của nhân tố văn hóa.
Theo W. Ostawald thì: Chúng ta gọi những gì phân biệt con người với động vật
là "văn hóa" [6].
Theo Abrraham Moles, một nhà văn hóa học Pháp thì: Văn hóa là chiều cạnh trí
tuệ của môi trường nhân đạo do con người xây dựng nên trong tiến trình đời sống xã hội
của mình [6].
Giáo sư Hà Văn Tấn cho rằng: Văn hóa là hệ thống ứng xử của con người với
thiên nhiên và xã hội, trong hoạt động sinh tồn và phát triển của mình. Nói khác đi, văn
hóa là sản phẩm hoạt động của con người trong mối quan hệ tương tác với tự nhiên và
xã hội diễn ra trong không gian, thời gian và hoàn cảnh nhất định [6].
Năm 1988, khi phát động thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa, Tổng Giám đốc
UNESCO - Federico Mayro, đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: Văn hóa là tổng thể sống
động của các hoạt động trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng
tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những
yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc [8].
Khái niệm "văn hóa" được đề cập đến trong luận văn này mang một ngoại diên
rất rộng, nghĩa là bất cứ cái gì do con người làm ra đều hàm chứa thuộc tính văn hóa, nó
gồm tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra nhằm phục vụ cho
sự tiến bộ của con người mà sản phẩm sáng tạo cụ thể đó chính là internet - sản phẩm của
thời đại văn minh công nghiệp, của công nghệ thông tin. Bản chất đặc trưng của văn hóa
chính là sự sáng tạo vươn tới giá trị nhân văn, khẳng định chất lượng của đời sống, trong
đó là chất lượng sống của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Internet được nghiên cứu trong
luận văn này với ý nghĩa vừa là một sản phẩm văn minh công nghiệp, vừa là một giá trị
văn hóa đánh dấu sự sáng tạo của nhân loại.
1.1.2. Đời sống văn hóa
Đời sống văn hóa là toàn bộ những giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần
được tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực của con người [10].
Khái niệm đời sống văn hóa là một khái niệm rộng để chỉ toàn bộ các thành tựu có ý
nghĩa văn hóa do con người sáng tạo ra cùng các phương thức, cách thức mà con người
sử dụng chúng trong đời sống hàng ngày. Đời sống văn hóa của cá nhân và cộng đồng
gắn liền với sự sống của họ thể hiện trong các hoạt động như: ăn, ở, đi lại, sản xuất, giao
tiếp xã hội, thể hiện các giá trị chuẩn mực định hướng trong lối sống, phong tục tập quán,
tín ngưỡng tôn giáo, trong các hoạt động giáo dục, khoa học, nghệ thuật, trong tổ chức,
quản lý đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng xã hội, trong các hoạt động văn hóa dân
gian như: tang ma cưới hỏi, trong lễ hội và trong các quan hệ ứng xử khác. Như vậy, nói
đến đời sống văn hóa tức là nói đến tất cả các nhân tố của đời sống sinh hoạt văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần.
1.1.3. Internet
Các phương tiện truyền thông cá nhân và đại chúng ra đời rất sớm trong lịch sử
loài người, trước cả ngôn ngữ và chữ viết. Khi mà động tác, cử chỉ là những phương tiện
ít ỏi để con người có thể hiểu và giao tiếp với nhau. Từ thế kỷ XX trở lại đây, các phương
tiện truyền thông mới bùng phát cả về nội dung và hình thức nhờ sự hỗ trợ của khoa học,
kỹ thuật. Chính truyền thông là một trong những lĩnh vực thừa hưởng nhiều thành quả
nhất của cuộc cách mạng khoa học lần thứ tư và cuộc cách mạng công nghệ lần thứ năm.
Những thành tựu của hai cuộc cách mạng trên đã đưa truyền thông vượt mọi rào cản về
khoảng cách địa lý, không gian và thời gian, đó là sự ra đời của phát thanh, truyền hình,
cùng với điện thoại vô tuyến...
Tóm lại, truyền thông là toàn bộ những phương tiện lan truyền thông tin như: sách
báo, truyền hình, phát thanh... Truyền thông phân làm ba loại chính: Truyền thông đại
chúng, truyền thông nhóm và truyền thông cá nhân với những nội dung và hình thức khác
nhau.
Truyền thông đại chúng là cách thức truyền đạt thông tin thông qua các phương
tiện kỹ thuật (đài, báo, phát thanh, truyền hình, ấn phẩm, phim ảnh, băng đĩa, mạng...)
đến đám đông công chúng nhằm mục đích củng cố hoặc thay đổi nhận thức, quan điểm,
hành vi của họ đối với các vấn đề khác nhau trong xã hội. Với cách định nghĩa như thế về
truyền thông thì ngày nay ta có thể coi internet như một phương tiện truyền thông đại
chúng mới, với tất cả các thuộc tính của truyền thông đại chúng như: Tính chất đại chúng,
tính gián tiếp, tính tập thể và vô nhân xưng. Tuy nhiên, do khả năng kỹ thuật ưu trội mà
internet cũng có thể được coi như phương tiện truyền thông nhóm trong các dịch vụ tin
tức nhóm (new group); giáo dục điện tử (E- learning) hay thậm chí nó cũng vừa là
phương tiện truyền thông cá nhân trong trường hợp: email, chat, điện thoại internet...
Chúng ta có thể hình dung internet là một môi trường truyền thông mới với ý
nghĩa là sự kết nối của các máy tính đầu cuối, bao gồm cả máy tính cá nhân, của hộ gia
đình, của các cơ quan, tổ chức... Tạo điều kiện cho tất cả các loại hình truyền thông khác
hoạt động được [21]. Các tờ báo, đài truyền hình, các hãng thông tấn, cơ quan báo chí,
các cơ quan giáo dục cũng như các tổ chức và cá nhân đều có cơ hội ngang bằng là thiết
lập website riêng để cung cấp thông tin đến đông đảo công chúng (công chúng ở đây là
tất cả những người sử dụng internet). Ngược lại, người sử dụng internet cũng có thể khai
thác các tiện ích của internet cho mỗi loại mục đích của mình.
Một cách tổng quát, internet là một mạng diện rộng (WAN) là tập hợp hàng ngàn
các mạng máy tính trải khắp thế giới thông qua hệ thống viễn thông. Sự phát triển nhanh
chóng của internet đã khiến cho nó còn có thêm một khái niệm là "siêu lộ thông tin"
(Information Super Highway). Ngoài ra, nó còn là nguồn tài nguyên vô giá cho các nhà
nghiên cứu, các nhà giáo dục, các quan chức chính phủ và các thủ thư..., internet đã trở
thành một công cụ thiết yếu cho mọi cá nhân đang sử dụng thư điện tử, đang nghiên cứu
và thực tế là mọi hoạt động liên quan đến việc thu thập thông tin.
Sau đây là định nghĩa về internet được nhiều nhà khoa học và cá nhân sử dụng
phổ biến hiện nay:
Internet là hệ thống thông tin toàn cầu mà:
- Được nối với nhau hợp lý bằng một không gian địa chỉ độc đáo dựa trên giao
thức mạng (IP).
- Có thể tạo điều kiện cho các máy tính giao tiếp với nhau thông qua bộ giao
thức (TCP/IP).
- Công khai hoặc bí mật cung cấp, cho phép sử dụng, cho phép truy cập các dịch
vụ cao cấp được xếp trên các mục giao tiếp và cơ sở liên quan.
- Không thể có được sơ đồ cụ thể của mạng internet vì các máy tính và các mạng
máy tính liên tục đăng ký thêm vào mạng internet cũng như các thông tin trên mạng liên
tục thay đổi, cập nhật.
- Internet mang đến cho bạn hạ tầng kỹ thuật để giao dịch trên mạng (on line).
- Internet là cấu trúc kỹ thuật giúp cho mọi người trên thế giới thu lợi khi thâm
nhập vào liên mạng toàn cầu [16].
Internet (được viết hoa chữ cái đầu tiên) ám chỉ tới tập hợp các mạng và các
cổng nối (gateway) trên toàn cầu, sử dụng bộ giao thức TCP/IP, đây chính là nghĩa được
nhiều người biết tới nhất. Tuy nhiên, khi gặp từ internet (không viết hoa chữ cái đầu) ta
phải hiểu rằng đây là chữ viết tắt của từ internetwork, có nghĩa là liên mạng, một tập hợp
các mạng máy tính bất kỳ, có thể khác nhau và được nối với nhau thông qu