VŨ CHÍ CƯƠNG – Ảnh hưởng của giống, loài gia súc đến tỷ lệ tiêu hóa ... 
 37 
ẢNH HƯỞNG CỦA GIỐNG, LOÀI GIA SÚC ĐẾN TỶ LỆ TIÊU HÓA VÀ GIÁ TRỊ 
DINH DƯỠNG CỦA MỘT SỐ LOẠI THỨC ĂN THÔ 
DÙNG CHO GIA SÚC NHAI LẠI 
Vũ Chí Cương1, Nguyễn Đức Chuyên2, Đinh Văn Tuyền, Phạm Bảo Duy, Bùi Thị Thu Hiền, 
Nguyễn Viết Đôn, Nguyễn Văn Quân và Lê Thị Oanh 
1Bộ môn Dinh dưỡng - Thức ăn và Đồng cỏ Viện Chăn nuôi 
2Trung tâm NC&PT CN miền núi 
*Tác giả liên hệ: Vũ Chí Cương - Viện Chăn nuôi - Từ Liêm - Hà Nội Tel: (04) 38.386.127/ 0912.121.506; 
Fax: (04) 38 389.775; Email: 
[email protected] 
ABSTRACT 
Effects of animal breed species on digestibility and nutritive value of some roughages as feed for the 
ruminant 
In vivo digestibility and metabolisable energy of seven roughage samples including urea treated rice straw, stylo 
hay and 5 elephant grass samples were simultaneously determined on sheep, dairy cows and lai Sind bulls to 
investigate the effect of breed and/or species of animal on digestibility and energy values of the feed. The results 
showed that the digestibility of DM, OM, CP and NDF in most of the samples determined on sheep was 
significantly lower than that determined on the dairy cow and lai Sind bull except for samples of 35, 45 and 50 
days regrowth elephant grasses. As a result ME values of these roughages were lower when determined on sheep 
than determined on the dairy cow and lai Sind bull. There was no significant difference in digestibility of 
nutrients in the roughage samples determined by the dairy cow or beef bull except for the urea treated rice straw 
sample. Comparison between ME values determined by equations of INRA (1989) and the values determined 
directly from the in vivo trial suggested that using the INRA equations could overestimate ME vales of the 
roughages used for ruminant in Vietnam. Several regression equations were developed for correction of ME 
values estimated in the previous in vivo experiments using INRA equations. 
Key words: sheep, dairy cow, lai Sind bull, digestibility, metabolisable energy 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ở nước ta đã có nhiều nghiên cứu xây dựng bảng thành phần giá trị dinh dưỡng thức ăn cho 
gia súc nhai lại được triển khai từ nhiều năm nay và thu được những kết quả đáng khích lệ. 
Cuốn sách “Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng thức ăn gia súc, gia cầm Việt nam” 
được xuất bản lần đầu năm 1962 và tái bản vào những năm 1983, 1992 và năm 2001 trình bày 
khá đầy đủ thành phần hóa học và giá trị năng lượng của các lọai thức ăn phổ biến dùng cho 
gia súc gia cầm ở Việt nam (Viện Chăn nuôi, 2001). Năm 2002, Pozy và cs, (2002) đã xuất 
bản Bảng thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của trên 300 mẫu thức ăn thu thập trên 
địa bàn Đông Anh và vùng phụ cận. Và gần đây nhất, Vũ Chí Cương (2008) đã bổ sung thêm 
kết quả xác định thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của một số loại thức ăn vào kho dữ 
liệu giá trị dinh dưỡng thức ăn cho gia súc nhai lại. Tuy nhiên, trong tất cả các ấn bản trên, giá 
trị dinh dưỡng của các loại thức ăn chỉ được ước tính hoặc dựa hoàn toàn trên các công thức 
sẵn có từ nước ngoài hoặc dựa vào thí nghiệm in vivo trên cừu rồi mới ước tính theo công 
thức của INRA (1989) với giả thiết khả năng tiêu hóa thức ăn của cừu và bò là tương tự nhau. 
Trong khi đó kết quả của nhiều thí nghiệm lại cho thấy giả thiết này là chưa được chứng minh 
đầy đủ (Aerts và cs, 1984). Kết quả nghiên cứu của Playne (1978) cho thấy tỷ lệ tiêu hóa chất 
khô của cỏ nhiệt đới chất lượng thấp xác định trên bò cao hơn rất nhiều so với kết quả xác 
định trên cừu. Terada và cs (1987), trích dẫn bởi Kawashima và cs (2007) so sánh tỷ lệ tiêu 
hóa các chất dinh dưỡng giữa bò, cừu và dê cho ăn khẩu phần cơ sở là rơm và hạt mạch có bổ 
sung các nguồn protein khác nhau và cho biết tỷ lệ tiêu hóa xác định trên bò và cừu khác nhau 
rất lớn khi khẩu phần có hàm lượng protein thấp nhưng khi hàm lượng CP đạt khoảng 10% trở 
VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 24-Tháng 6 - 2010 
 38 
lên thì tỷ lệ tiêu hóa giữa 2 loài gia súc lại tương đương nhau. Kết quả nghiên cứu của 
Kawashima và cs (2007) tại Thái Lan cũng cho kết quả tương tự: với thức ăn có hàm lượng 
CP thấp tỷ lệ tiêu hóa chất khô, chất hữu cơ, NDF... của cừu thấp hơn đáng kể so với bò 
nhưng khi hàm lượng CP đạt mức trên 10% thì tỷ lệ tiêu hóa trên cừu tương đương với bò. 
Như vậy, với đặc điểm thức ăn thô nước ta chủ yếu có hàm lượng dinh dưỡng thấp thì việc sử 
dụng trực tiếp các giá trị tỷ lệ tiêu hóa và năng lượng trao đổi xác định được trên cừu cho bò 
sữa và bò thịt có thể không phù hợp. Do đó, chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm xác định ảnh 
hưởng của giống gia súc đến tỷ lệ tiêu hóa in vivo của các chất dinh dưỡng và giá trị năng 
lượng trao đổi của một số loại thức ăn thô dùng cho gia súc nhai lại để tiến tới xây dựng 
phương trình hồi quy chẩn đoán tỷ lệ tiêu hóa và giá trị năng lượng trao đổi của các loại thức 
ăn thô cho bò sữa và bò thịt từ các giá trị đó xác định trên cừu. Ngoài ra đề tài cũng sẽ tiến 
hành xác định giá trị ME theo phương pháp trực tiếp từ kết quả phân tích hàm lượng năng 
lượng thô trong thức ăn, phân, nước tiểu và khí mêtan để so sánh với các giá trị ước tính theo 
công thức của INRA, qua đó xây dựng phương trình hiệu chỉnh các giá trị đã xác định trong 
các nghiên cứu trước đây. 
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Gia súc thí nghiệm 
Thí nghiệm được tiến hành trên 04 bò đực lai Sind trưởng thành, 04 bò cái tơ (18-20 tháng 
tuổi) lai ¾ HF không mang thai và 04 cừu đực trưởng thành. Tất cả các gia súc thí nghiệm ở 
trong điều kiện sức khỏe bình thường. 
Thức ăn thử nghiệm 
Với 7 mẫu bao gồm: 1 mẫu cỏ voi trồng tại Trạm nghiên cứu và thử nghiệm thức ăn gia súc – 
Viện Chăn nuôi thu cắt lúc 40-45 ngày tuổi vào mùa xuân (tháng 4/2008) (mẫu CV1); 4 mẫu 
cỏ voi cắt lúc 35, 40, 45 và 50ngày tái sinh ở mùa hè (mẫu CV35, CV40, CV45, CV50); 1 
mẫu cỏ khô stylo trồng tại Ninh Bình và 1 mẫu rơm ủ urea 4%. Trong các loại thức ăn này, 
mẫu cỏ voi CV1 là cỏ cắt vào tháng 4 năm 2008 (mùa xuân) lúc 40 ngày tuổi còn cỏ voi 35, 
40, 45 và 50 là các mẫu thu hoạch vào tháng 5-6 năm 2009 và được sử dụng trong một thí 
nghiệm nhằm so sánh ảnh hưởng của tuổi tái sinh trong mùa hè đến thành phần hóa học và tỷ 
lệ tiêu hóa của cỏ voi dùng làm thức ăn cho gia súc nhai lại. Chi tiết về thí nghiệm này được 
trình bày ở báo cáo riêng còn trong khuôn khổ báo cáo này chúng tôi chỉ tập trung phân tích 
ảnh hưởng của giống hoặc loài gia súc đến tỷ lệ tiêu hóa và giá trị dinh dưỡng của các thức ăn 
thô trong đó có các mẫu cỏ voi này. 
Thời gian và địa điểm 
Thí nghiệm tiêu hoá in vivo được tiến hành tại Trạm nghiên cứu và thử nghiệm thức ăn gia 
súc, Viện Chăn nuôi trong 3 đợt. Đợt đầu tháng 4/2008 trên mẫu CV1; đợt 2 trong thời gian 
tháng 9-12/2008 trên mẫu cỏ khô Stylo và rơm ủ urea 4%; và đợt 3 kéo dài từ tháng 5-7/2009 
trên mẫu CV35, CV40, CV45, CV50. 
Phương pháp tiến hành 
Thí nghiệm tiêu hoá in vivo được tiến hành theo quy trình thí nghiệm xác định tỷ lệ tiêu hoá in 
vivo do Viện Chăn Nuôi hiệu chỉnh từ qui trình của trường Đại học Công giáo Lovain (Bỉ). 
Mô tả vắn tắt như sau: gia súc thí nghiệm (cừu, bò sữa, bò thịt) được nuôi nhốt cá thể và cho 
ăn ở mức ước tính gần với nhu cầu duy trì trong thời gian chuẩn bị 10 ngày, sau đó được đưa 
lên cũi trao đổi chất để thu phân và nước tiểu liên tục trong 7 ngày tiếp theo. Trong thời gian 
thu mẫu toàn bộ lượng phân gia súc bài tiết ra được thu nhặt hàng ngày, xác định khối lượng 
VŨ CHÍ CƯƠNG – Ảnh hưởng của giống, loài gia súc đến tỷ lệ tiêu hóa ... 
 39 
rồi lấy mẫu (10% tổng lượng phân) để trong tủ lạnh sâu. Đến ngày thứ 6 của giai đoạn thu 
mẫu, toàn bộ mẫu đã lưu trong tủ lạnh sâu được lấy ra để giải đông. Sáng ngày thứ 7 của giai 
đoạn này, các mẫu phân của cùng 1 cá thể thu được trong thời gian 7 ngày được trộn đều với 
nhau và lấy 2 mẫu đại diện đem đi xác định hàm lượng chất khô (DM), thành phần hóa học 
(protein thô (CP), mỡ thô, xơ thô (CF), NDF, ADF, khoáng) và giá trị năng lượng thô (GE). 
Thức ăn cho ăn và thức ăn thừa cũng được cân, lấy mẫu hàng ngày và bảo quản trong tủ lạnh 
(trừ mẫu cỏ khô stylô). Đến ngày cuối cùng của giai đoạn thu phân, các mẫu thức ăn cho ăn 
của 7 ngày được trộn đều và lấy 1 mẫu đại diện còn các mẫu thức ăn thừa của mỗi cá thể 
trong 7 ngày cũng được trộn đều cho từng cá thể và lấy mẫu đại diện. Tất cả các thức ăn này 
đều được đem sấy khô xác định hàm lượng chất khô, thành phần hóa học và giá trị GE như 
đối với mẫu phân. Tổng lượng nước tiểu bài tiết hàng ngày được hứng vào xô nhựa đặt dưới 
cũi trao đổi chất (có bổ sung 250 ml đối với bò và 70 ml đối với cừu dung dịch H2SO4 5N), 
cân xác định khối lượng và lấy mẫu hàng ngày (5% tổng lượng thu được của ngày) lưu tủ lạnh 
sâu. Đến ngày cuối cùng của giai đoạn thu mẫu, toàn bộ các mẫu lấy trong 7 ngày của mỗi cá 
thể sẽ được trộn đều lại với nhau rồi lấy 1 mẫu đại diện cho mỗi cá thể đem xác định hàm 
lượng GE. Các chỉ tiêu phân tích hóa học được tiến hành theo các qui trình hiện đang được áp 
dụng tại phòng phân tích thức ăn và sản phẩm chăn nuôi của Viện Chăn nuôi. Giá trị ME 
được tính theo phương pháp trực tiếp theo công thức: 
ME = GE thức ăn - GE phân – GE nước tiểu – GE khí metan 
Trong đó: GE khí thải metan được ước tính bằng 6% tổng GE trong thức ăn ăn vào. 
 Giá trị ME tính theo công thức của INRA (1989) dựa vào các công thức sau: 
ME (Mcal/kg DM) = DE x (ME/DE) 
Trong đó: DE =[4543 + 2,0113 x CP (g/kg OM)] x [1,0087 – (161,1809 –1,5641 x NDF)/100 – 0,377)] 
 ME/DE = 0,8417 – [9,9 x 10-5 x CF (g/kg OM)] – [1,96 x 10-4 x CP (g/kg OM)] + 0,221 x NA (NA = chất 
 hữu cơ tiêu hóa ăn vào/W0,75/23) 
Xử lý số liệu 
Tỷ lệ tiêu hóa in vivo của mẫu thử nghiệm được tính toán trên bảng tính Excel (Office 2007). 
Sự khác nhau về tỷ lệ tiêu hóa của mẫu thử nghiệm bởi các giống hoặc loài gia súc khác nhau 
xác định qua phân tích ANOVA trên phần mềm Minitab 14.0. Các phương trình hồi qui (giữa 
tỷ lệ tiêu hóa và giá trị ME xác định được trên cừu với các giá trị tương ứng xác định được 
trên bò sữa và bò thịt, giữa ME xác định theo công thức và ME xác định trực tiếp) được xây 
dựng trên Excel và phân tích phương sai trên phần mềm Minitab 14.0. 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Thành phấn hóa học các mẫu thức ăn 
Kết quả phân tích thành phần hóa học các mẫu thức ăn thử nghiệm trình bày ở Bảng 1. Nhìn 
chung các loại thức ăn trong nghiên cứu này đều có hàm lượng xơ cao kể cả cỏ khô họ đậu 
stylo. Hàm lượng CP của các loại cỏ voi non (35 -40 ngày) là khá cao trong khi của cỏ khô 
stylo lại thấp (14,5%). Hàm lượng NDF của rơm thấp hơn của cỏ voi là do rơm được xử lý 
urea nên một phần hemixellulo đã được giải phóng và làm giảm hàm lượng NDF trong rơm. 
Tỷ lệ tiêu hóa của thức ăn thô xác định được trên các loại gia súc khác nhau 
Bảng 2 cho thấy, nhìn chung có khác nhau đáng kể về tỷ lệ tiêu hóa in vivo của hầu hết các 
chất dinh dưỡng xác định được trên các nhóm gia súc khác nhau ngoại trừ mẫu cỏ voi cắt tại 
thời điểm 35, 45 và 50 ngày tái sinh. Phân tích phương sai cho thấy, đối với cỏ voi cắt lúc 40 
ngày tuổi trong mùa xuân (mẫu CV1) tỷ lệ tiêu hóa chất khô và chất hữu cơ trên bò sữa cao 
VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 24-Tháng 6 - 2010 
 40 
hơn đáng kể so với kết quả cừu, trong khi giá trị trên bò thịt không sai khác so với cả hai 
nhóm gia súc trên. Đối với tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng của cỏ voi cắt lúc 40 ngày tái 
sinh trong mùa hè (CV40) các giá trị trên bò sữa và bò thịt là tương tự nhau và đều cao hơn 
đáng kể so với giá trị trên cừu (P<0,05). 
Bảng 1. Thành phần hóa học của các mẫu thức ăn thử nghiệm 
Mẫu DM 
Protein 
thô (%) 
Mỡ thô 
(%) 
Xơ thô 
(%) 
NDF 
(%) 
ADF 
(%) 
Tro thô 
(%) 
CV1 11,85 13,22 2,36 34,55 65,49 36,20 12,81 
CV35 12,37 13,18 1,70 33,97 68,14 40,50 17,17 
CV40 12,63 12,10 1,48 37,06 70,27 41,46 16,59 
CV45 13,85 10,66 1,41 38,28 72,94 44,65 14,86 
CV50 14,21 10,10 1,51 38,47 74,12 43,87 12,90 
Rơm ủ urea 68,11 12,24 1,23 37,55 69,05 49,86 8,89 
Cỏ khô stylo 85,74 14,15 1,45 40,27 61,57 43,98 6,23 
Sự khác nhau về tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng trong mẫu cỏ stylo xác định trên các nhóm 
gia súc khác nhau cũng tương tự như kết quả đối với mẫu CV40. Tuy nhiên, đối với mẫu rơm 
ủ urea ngoại trừ tỷ lệ tiêu hóa mỡ và ADF là không khác nhau còn lại tỷ lệ tiêu hóa của các 
chất dinh dưỡng khác đều có sự sai khác giữa các nhóm gia súc, trong đó tỷ lệ tiêu hóa xác 
định trên cừu là thấp nhất, tiếp đến là bò thịt và cao nhất là giá trị xác định được trên bò sữa. 
Bảng 2. Tỷ lệ tiêu hóa (%) các chất dinh dưỡng trong một số loại thức ăn thô xác định trên các 
loại gia súc khác nhau 
 Cừu (Mean±SD) Bò sữa (Mean±SD) Bò thịt (Mean±SD) 
 Tỷ lệ tiêu hóa mẫu CV1 
Chất khô 63,3a±1,26 67,1b± 64,7ab± 
Chất hữu cơ 64,6a±0,96 68,1b± 65,9ab± 
Protein 74,3a±1,59 75,7a 71,4b± 
Mỡ thô 65,6±2,91 63,7± 58,0± 
Xơ thô 63,4±1,96 65,3± 63,5± 
NDF 64,2±1,79 67,5± 65,3± 
ADF 62,5±1,83 66,8± 64,1± 
Tỷ lệ tiêu hóa mẫu CV35 
Chất khô 63,4±2,84 67,6±2,20 62,0±6,30 
Chất hữu cơ 65,5±2,16 69,9±2,00 65,0±5,41 
Protein 66,2±2,40 69,9±1,32 65,5±4,26 
Mỡ thô 46,2±7,66 50,0±13,32 42,2±13,85 
Xơ thô 63,8±2,44 64,8±1,58 63,6±4,96 
NDF 65,1±3,75 68,0±3,24 64,7±3,45 
ADF 62,7±3,98 63,8±3,15 62,9±4,65 
Tỷ lệ tiêu hóa mẫu CV40 
Chất khô 57,3a±2,12 64,3b±3,55 63,6b±3,36 
Chất hữu cơ 59,9a±1,40 66,4b±3,78 65,7ab±4,91 
Protein 62,1a±2,40 66,3b±2,67 67,7b±3,49 
Mỡ thô 38,9±12,43 33,5±15,25 42,8±10,15 
Xơ thô 55,4a±1,94 62,0b±1,89 61,7b±1,95 
VŨ CHÍ CƯƠNG – Ảnh hưởng của giống, loài gia súc đến tỷ lệ tiêu hóa ... 
 41 
 Cừu (Mean±SD) Bò sữa (Mean±SD) Bò thịt (Mean±SD) 
NDF 60,4a±2,97 66,3b±2,77 64,7b±2,59 
ADF 57,8a±1,89 63,5b±2,84 62,2b±2,78 
Tỷ lệ tiêu hóa mẫu CV45 
Chất khô 63,9±3,85 64,3±2,75 63,7±4,66 
Chất hữu cơ 65,7±4,51 66,9±2,40 66,2±5.04 
Protein 63,8±5,77 62,9±3,15 65,1±6,97 
Mỡ thô 47,7±7,88 38,3±6,72 44,1±14,70 
Xơ thô 62,0±3,42 63,9±2,23 63,4±5,33 
NDF 64,5±4,64 65,2±3,34 66,2±3,69 
ADF 61,3±2,54 61,5±3,21 61,1±4,29 
Tỷ lệ tiêu hóa mẫu CV50 
Chất khô 59,1±5,41 62,9±5,93 66,4±7,20 
Chất hữu cơ 61,8±6,23 65,6±6,77 68,8±7,28 
Protein 60,4±6,81 63,7±7,49 66,7±8,05 
Mỡ thô 38,5±15,73 43,4±8,76 44,4±11,75 
Xơ thô 60,6±10,04 62,3±6,86 62,1±10,03 
NDF 61,4±5,55 64,6±6,26 67,3±6,86 
ADF 60,1±8,28 60,6±8,15 63,7±8,41 
Tỷ lệ tiêu hóa mẫu rơm ủ urea 
Chất khô 43,2a±3,81 64,0b±1,39 61,4b±2,66 
Chất hữu cơ 49,2a±1,61 68,9b±1,95 66,3b±2,27 
Protein 48,0a±2,79 67,2b±0,97 61,1b±2,90 
Mỡ thô 38,1±4,36 52,9±2,12 45,2±6,36 
Xơ thô 49,0a±2,18 66,3b±1,47 65,9b±2,45 
NDF 49,2a±3,02 68,9b±1,03 66,9b±2,51 
ADF 45,2a±3,55 63,9b±0,61 59,2b±2,70 
Tỷ lệ tiêu hóa mẫu cỏ khô stylo 
Chất khô 47,0a±0,66 62,2b±0,75 59,8b±2,05 
Chất hữu cơ 50,9a±0,19 64,6b±0,66 62,2b±1,98 
Protein 53,7a±1,40 70,5b±1,02 65,2b±1,64 
Mỡ thô 22,5a±4,08 60,1b±2,34 53,5b±4,48 
Xơ thô 45,4a±1,74 55,8b±1,60 54,8b±5,65 
NDF 40,8a±0,72 53,2b±0,85 50,2b±3,36 
ADF 39,1a±1,92 52,7b±1,65 45,6ab±3,91 
Tỷ lệ tiêu hóa trung bình tất cả các mẫu 
Chất khô 56,8a±8,38 63,7b±5,06 62,2b±5,41 
Chất hữu cơ 59,7a±6,92 66,4b±5,08 65,1b±4,82 
Protein 59,8a±11,22 66,5 b±5,93 64,0ab±8,67 
Mỡ thô 42,2±15,27 46,2±13,02 46,2±14,03 
Xơ thô 57,1a±7,37 62,9b±9,32 62,1b±9,45 
NDF 57,9a±5,50 64,8b±5,34 63,6b±4,48 
ADF 55,5a±5,51 61,8b±6,01 59,8b±6,49 
Các giá trị TB trong cùng một hàng có chỉ số trên bằng chữ khác nhau thì sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05) 
Kết quả so sánh chung cho tất cả các mẫu thử nghiệm trình bày ở Bảng 2 và Đồ thị 1 cho thấy 
chỉ có tỷ lệ tiêu hóa của mỡ và ADF là không sai khác giữa các nhóm gia súc còn lại các chất 
VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 24-Tháng 6 - 2010 
 42 
dinh dưỡng khác (chất khô, chất hữu cơ, protein, xơ thô, NDF) đều bị ảnh hưởng bởi loại gia 
súc trong đó tỷ lệ tiêu hóa xác định trên cừu thấp hơn đáng kể so với giá trị xác định trên bò 
sữa và bò thịt. Kết quả của này của chúng tôi thống nhất với kết quả nghiên cứu của các tác 
giả khác (Playne, 1978; Kawashima và cs, 2007) cho rằng tỷ lệ tiêu hóa của thức ăn thô nhiệt 
đới xác định trên bò cao hơn trên cừu. Tuy nhiên trong kết quả của các tác giả trên thì tỷ lệ 
tiêu hóa chỉ khác nhau khi hàm lượng protein thô của thức ăn thấp hơn 10%. Còn trong thí 
nghiệm này của chúng tôi, sự khác nhau về tỷ lệ tiêu hóa giữa bò và cừu xảy ra ngay cả với 
các loại thức ăn có hàm lượng protein thô cao trên 10%. 
Đồ thị 1: Tỷ lệ tiêu hóa chất khô và protein thô xác định trên các loại gia súc khác nhau 
Từ kết quả xác định có sự khác nhau đáng kể về tỷ lệ tiêu hóa chất khô cỏ voi giữa các giá trị 
xác định trên cừu với các giá trị xác định trên bò sữa và bò thịt, chúng tôi tiến hành xây dựng 
phương trình hồi qui ước tính tỷ lệ tiêu hóa trên bò sữa và bò thịt dựa trên tỷ lệ tiêu hóa xác 
định trên cừu. Kết quả trình bày trên Đồ thị 2 cho thấy phương trình hồi qui giữa tỷ lệ tiêu hóa 
chất khô của cỏ voi tươi xác đinh trên cừu và giá trị tương ứng xác định trên bò sữa có hệ số 
xác định tương đối cao (R2= 0,62) trong khi kết quả phân tích phương sai cho thấy phương 
trình đáng tin cậy về mặt thống kê (P<0,05). Do đó, có thể sử dụng phương trình này (TLTH 
trên bò sữa = 0,712 x TLTH trên cừu +21,46) để ước tính tỷ lệ tiêu hóa chất khô của cỏ voi 
khi sử dụng làm thức ăn cho bò sữa từ tỷ lệ tiêu hóa xác định trên cừu. 
Đồ thị 2: Mối quan hệ giữa tỷ lệ tiêu hóa chất khô cỏ 
voi xác định trên cừu với giá trị xác định trên bò sữa 
Đồ thị 3: Mối quan hệ giữa tỷ lệ tiêu hóa chất 
khô cỏ voi xác định trên cừu với giá trị xác định 
trên bò thịt 
Kết quả xây dựng phương trình hồi qui giữa tỷ lệ tiêu hóa chất khô của cỏ voi tươi xác đinh 
trên cừu và giá trị tương ứng xác định trên bò thịt (Đồ thị 3) cho thấy tương quan giữa các giá 
trị này thấp (hệ số xác định R2 = 0,38) và do đó cần thận trọng khi sử dụng phương trình này 
để ước tính tỷ lệ tiêu hóa chất khô của cỏ voi khi sử dụng làm thức ăn cho bò thịt từ tỷ lệ tiêu 
hóa xác định trên cừu. Sau khi tổng hợp toàn bộ các giá trị tỷ lệ tiêu hóa chất khô xác định 
trên các mẫu thức ăn thô sử dụng trong nghiên cứu, chúng tôi xây dựng phương trình hồi qui 
giữa tỷ lệ tiêu hóa chất khô xác định trên cừu với giá trị tương ứng xác định trên bò sữa và bò 
thịt. Kết quả cho thấy phương trình hồi qui giữa tỷ lệ tiêu hóa chất khô xác định trên cừu với 
VŨ CHÍ CƯƠNG – Ảnh hưởng của giống, loài gia súc đến tỷ lệ tiêu hóa ... 
 43 
giá trị xác định trên bò sữa có hệ số xác định thấp (R2 = 0,36; Đồ thị 4) còn phương trình hồi 
qui giữa cừu và bò thịt lại có hệ số xác định khá cao (R2 = 0,62; Đồ thị 5). 
Đồ thị 4: Mối quan hệ giữa tỷ lệ tiêu hóa chất khô của 
thức ăn thô xác định trên cừu với giá trị xác định trên 
bò sữa 
Đồ thị 5: Mối quan hệ giữa tỷ lệ tiêu hóa chất khô 
của thức ăn thô xác định trên cừu với giá trị xác 
định trên bò thịt 
Như vậy, với kết quả xác định tỷ lệ tiêu hóa chất khô, chất hữu cơ, protein thô và NDF trong 
một số loại thức ăn thô trên các loại gia súc khác nhau đã trình bày ở trên có thể thấy đối với 
các loại thức ăn này tỷ lệ tiêu hóa xác định trên cừu thấp hơn đáng kể so với các giá trị tương 
ứng xác định trên bò sữa và bò thịt. Các phương trình hồi qui ở trên đều đáng tin cậy (P<0,05) 
và có thể sử dụng để ước tính tỷ lệ tiêu hóa chất khô của thức ăn thô cho bò sữa và bò thịt dựa 
vào tỷ lệ tiêu hóa xác định trên cừu. Tuy nhiên, hệ số xác định của các phương trình còn khá 
thấp, cho thấy cần cải tiến các phương trình ước tính này để làm tăng độ tin cậy khi sử dụng. 
Giá trị năng lượng trao đổi của thức ăn thô xác định bằng các phương pháp khác nhau 
và trên các loại gia súc khác nhau 
Bảng 3. Kết quả xác định giá trị ME của một số loại thức ăn thô trên 3 loại gia súc khác nhau 
 Cừu (Mean±SD) Bò sữa (Mean±SD) Bò thịt (Mean±SD) 
ME cỏ voi (CT) 2037a±27,4 2278b±115,1 2091