Trong chăn nuôi lợn công nghiệp, việc ghép đàn sau cai sữa gây ra những tác động bất lợi cho
sự phát triển của lợn con, nhất là giai đoạn 2-3 tuần sau khi tách mẹ. Nhiềunghiên cứu trên
thế giới cho thấy ,tác đ ộng đầu tiên của việc ghép đàn gây ra hiện tượng đánh và cắn nhau
Frazer, (1978),McGlone vàcs, (1987). Thời gian để đạt được sự ổn định trong đàn lợn ghép
thường hàng giờ hay cả tuần đầu tiên sau ghép đàn (Graves và cs, 1978). Trong thời gian
chuyển đổi này, lợn con hoặc ăn ít hoặc không ăn nên ảnh hưởng không tốt đến sự sinh trưởng
của chúng. Các kết quả đềucho thấy,tính hung hãn ở lợn con sau cai sữa thường dẫn đến các
vết thương do cắn nhau, làm giảm sức kháng bệnh và ảnh hưởng đến năng suất vật nuôi.
Nhiều tác giả đã đề xuất các biệnpháp khác nhau để hạn chế tính hung hãn của lợn con khi
ghép đàn như tạo sự y ên tĩnh và hạn chế tối đa thời gian làm việc của công nhân trong khu
nuôi sau cai sữa Van de Heyde, (1972), hoặc sử dụng các hoá dược để giảm tính hoảng loạn
của gia súc khi ghépđàn (Gonyou vàcs.1988). Việc ghép đàn có thể thực hiện bằng nhiều
cách khác nhau. Ogunbameru vàcs.(1992) đề nghị chọn thời gian thực hiện cai sữa (ghép đàn
ngay sau tách mẹ) lúc 20 giờ sẽ tốt hơn,vì làm tăng lượng thức ăn(TĂ)tiêu thụ 5% và tăng
khốilượng bình quân/ngày (ADG) cao hơn 6% so với lô đối chứng cho lon con cai sữa lúc 8
giờ sáng. Ngoài ra, có thể ghép đàn lợn con khi đang trong kỳ bú mẹ để lợn con quen nhau khi
còn bú mẹ.
6 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1970 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Khoa học - Ảnh hưởng của thời điểm ghép đàn và tiếp xúc trước cai sữa đến năng suất lợn con sau cai sữa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUYỄN NGỌC PHỤC – Ảnh hưởng của thời điểm ghép đàn ...
1
ẢNH HƯỞNG CỦA THỜI ĐIỂM GHÉP ĐÀN VÀ TIẾP XÚC TRƯỚC CAI SỮA
ĐẾN NĂNG SUẤT LỢN CON SAU CAI SỮA
Nguyễn Ngọc Phục*, Trịnh Hồng Sơn, Đinh Hữu Hùng
Nguyễn Văn Thọ và Nguyễn Thành Chung
Trung tâm nghiên cứu lợn Thuỵ Phương
*Tác giả liên hệ: Nguyễn Ngọc Phục, Trung tâm Nghiên cứu lợn Thụy Phương -Từ Liêm - Hà Nội
Tel: (04) 38.389.774 / 0983.052.811; Fax: (04) 38.389.966; E-mail: phuc_vcn@yahoo.com
ABSTRACT
Effects of pre-weaning social contact and post-weaning mixing time on performance
of weaned piglets up to 60 days of age
A total of 159 piglets from 16 litters was used to evaluate the effects of pre-weaning social contact (Socialising
vs No socialising of litters) and post-weaning mixing time (morning vs evening mixing) on performance of
weaned piglets for their next developmental periods. Pigs were randomly allotted to four treatments in a 2 x 2
factorial arrangement. Piglets of litters of Socialising groups were allowed to socialise within litters from day 14
of age by removing the bar of farrowing pens while litters of piglets of No socialising were kept separately. At
weaning, pigs of morning mixing group were moved in the morning (8h00) and the others – in the evening
(20h00). The mixing time post-weaning did not affect piglets’ growth, feed consumption, feed conversion ratios
and percentage of piglets injured and diarrhoea (P>0.05). In contrary, socialising of litters at the age of 14 days
positively affected the body weight (BW) and average daily gain (ADG) of piglets for the 20 days following the
mixing. Piglets of socialising groups had higher BW at day 10, day 20 and day 35 after mixing by 10.85%,
11.83% and 7.72% respectively, and higher ADG for the first 10 days and the following 10 days after mixing by
71.44%, 13.04%, respectively. This resulted in higher ADG for whole nursery period by 11.06% for the
Socialising piglets compared to the No socialsing ones. Moreover, pre-weaning socializing also reduced
incidence of injury (13.58% vs 30.77%) caused by biting each other after mixing at weaning time. It concluded
that mixing time in the evening or morning did not affect the performance of piglets but socialising piglets before
mixing at weaning reduced detrimental effect on their performance during nursery period.
Key words: piglets, pre-weaning, post-weaning, feed consumption, feed conversion ratios
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong chăn nuôi lợn công nghiệp, việc ghép đàn sau cai sữa gây ra những tác động bất lợi cho
sự phát triển của lợn con, nhất là giai đoạn 2-3 tuần sau khi tách mẹ. Nhiều nghiên cứu trên
thế giới cho thấy, tác động đầu tiên của việc ghép đàn gây ra hiện tượng đánh và cắn nhau
Frazer, (1978), McGlone và cs, (1987). Thời gian để đạt được sự ổn định trong đàn lợn ghép
thường hàng giờ hay cả tuần đầu tiên sau ghép đàn (Graves và cs, 1978). Trong thời gian
chuyển đổi này, lợn con hoặc ăn ít hoặc không ăn nên ảnh hưởng không tốt đến sự sinh trưởng
của chúng. Các kết quả đều cho thấy, tính hung hãn ở lợn con sau cai sữa thường dẫn đến các
vết thương do cắn nhau, làm giảm sức kháng bệnh và ảnh hưởng đến năng suất vật nuôi.
Nhiều tác giả đã đề xuất các biện pháp khác nhau để hạn chế tính hung hãn của lợn con khi
ghép đàn như tạo sự yên tĩnh và hạn chế tối đa thời gian làm việc của công nhân trong khu
nuôi sau cai sữa Van de Heyde, (1972), hoặc sử dụng các hoá dược để giảm tính hoảng loạn
của gia súc khi ghép đàn (Gonyou và cs.1988). Việc ghép đàn có thể thực hiện bằng nhiều
cách khác nhau. Ogunbameru và cs. (1992) đề nghị chọn thời gian thực hiện cai sữa (ghép đàn
ngay sau tách mẹ) lúc 20 giờ sẽ tốt hơn, vì làm tăng lượng thức ăn (TĂ) tiêu thụ 5% và tăng
khối lượng bình quân/ngày (ADG) cao hơn 6% so với lô đối chứng cho lon con cai sữa lúc 8
giờ sáng. Ngoài ra, có thể ghép đàn lợn con khi đang trong kỳ bú mẹ để lợn con quen nhau khi
còn bú mẹ.
VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 18-Tháng 6-2009
2
Chúng tôi giả thiết, nếu cho lợn con tiếp xúc với nhau trước khi cai sữa 2 tuần và chuyển ghép
đàn vào (20 giờ) buổi tối có thể làm giảm tác hại của việc ghép đàn sau cai sữa và do đó cải
thiện được năng suất của lợn con giai đoạn tiếp theo. Mục tiêu của đề tài nhằm: đánh giá mức
độ ảnh hưởng của phương pháp này đến năng suất của lợn con từ cai sữa đến 60 ngày tuổi.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vật liệu và bố trí thí nghiệm
Tổng số 159 lợn con cai sữa từ 16 ổ lợn nái nuôi con dòng VCN21 (nguồn gốc dòng C22 PIC)
có ngày đẻ cách nhau 3-5 ngày được chọn bố trí đều vào các lô thí nghiệm theo kiểu 2 x 2
nhân tố. Lô ghép buổi sáng và lô ghép buổi tối, mỗi lô có 8 ổ. Số ổ lợn con mỗi lô được bố trí
làm 2 nhóm (4 ổ/nhóm: Có tiếp xúc trước cai sữa từ ngày tuổi 14 bằng cách bỏ các vách ngăn
giữa 2 ô liền kề và nhóm Không tiếp xúc trước (không bỏ vách ngăn giữa 2 ô).
Tất cả lợn con được cai sữa 23-25 ngày tuổi. Vào ngày cai sữa lợn con, tất cả lợn nái mẹ được
chuyển đi cùng lúc vào buổi sáng và để lại lợn con thí nghiệm tại chỗ tiếp tục cho ăn thức ăn
Tập ăn trong 4 ngày tiếp theo. Vào ngày thứ 5 sau tách mẹ, tất cả lợn con được chuyển sang
chuồng sau cai sữa. Lợn con thuộc các nhóm của mỗi lô được ghép với nhau. Lợn con thuộc
lô ghép buổi sáng được chuyển và ghép đàn lúc 8h00 sáng, lợn con thuộc lô ghép buổi tối
được chuyển và ghép đàn lúc 20h (tối).
Lợn con theo mẹ được cho tập ăn từ 10 ngày tuổi bằng TĂ tập ăn (Creep feed). Sau khi tách
mẹ, lợn con được nuôi tiếp bằng TĂ tập ăn và chuyển dần sang TĂ dành riêng cho lợn con cai
sữa (Prestarter), sau đó chuyển dần sang TĂ lợn choai (Starter) theo qui trình hiện hành của
Trung tâm nghiên cứu lợn Thụy Phương. Tất cả thức ăn đều là TĂ hỗn hợp dạng viên. Lợn
con được cho ăn và uống nước tự do.
Các chỉ tiêu nghiên cứu
Khối lượng lợn con tại các thời điểm chuyển ghép đàn sau cai sữa 10 ngày (ngày thứ 10), 20
ngày (ngày thứ 20) và 35 ngày (ngày thứ 35).
Tiêu tốn TĂ (kg/kg) và lượng tiêu thụ TĂ bình quân/con/ngày ở từng giai đoạn tương đương
các thời điểm ngày 10, ngày 20 và ngày 35 từ thời điểm ghép đàn sau cai sữa.
Tỉ lệ bị tổn thương do đánh nhau sau ghép đàn: Số lợn con có các vết trầy xước trên da hoặc
vết thương khác trên cơ thể trong vòng 1 tuần đầu tiên sau ghép đàn được ghi chép để đánh
giá tỉ lệ bị tổn thương do đánh nhau sau khi ghép đàn. Tỉ lệ lợn con tiêu chảy sau ghép đàn….
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Thí nghiệm sẽ tiến hành tại Trại lợn giống hạt nhân Tam Điệp từ tháng 9/2007 đến 12/2007.
Sử lý số liệu
Phân tích thống kê: Ảnh hưởng các yếu tố thí nghiệm dến sinh trưởng được phân tích bằng
phương pháp phân tích hiệp phương sai (ANOVA) với đồng biến là khối lượng cai sữa/con.
So sánh các giá trị trung bình bằng phương pháp Turkey. Tỉ lệ tổn thương do đánh nhau và tỉ
lệ tiêu chảy sau ghép đàn được đánh giá thông qua phân tích bằng Hồi qui Logarit nhị phân
(Binary Logistic Regression). Các số liệu được xử lý trên phần mềm MINITAB 13 (2000).
NGUYỄN NGỌC PHỤC – Ảnh hưởng của thời điểm ghép đàn ...
3
KẾT QỦA VÀ THẢO LUẬN
Sinh trưởng của lợn con
Ảnh hưởng thời điểm ghép đàn và tiếp xúc trước cai sữa đến sinh trưởng của lợn con sau khi
ghép đàn sau cai sữa được trình bày tại Bảng 1 và Bảng 2.
Bảng 1 cho thấy, khối lượng lợn con tại các thời điểm tại ngày thứ 10, ngày thứ 20 và ngày
thứ 35 sau ghép đàn hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của việc ghép đàn sau cai sữa (P>0,05)
nhưng chịu tác động rõ rệt của việc tiếp xúc trước cai sữa với sự sai khác luôn luôn ở mức rõ
rệt với (P<0,001) (Bảng 1).
Bảng 1. Trung bình bình phương tối thiểu (mean) của khối lượng (kg/con)
lợn con cai sữa đến 60 ngày tuổi.
Thời điểm ghép đàn Tiếp xúc trước CS P
Buổi sáng
(n=81)
Buổi tối
(n=78)
Có
(n=81)
Không
(n=78)
Ngày sau
ghép đàn Mean SE Mean SE Mean SE Mean SE
Thời
điểm
ghép
đàn
Tiếp
xúc
trước
CS
Tương
tác
Ngày 10 7,49 0,08 7,52 0,090 7,94 0,10 7,08 0,09 0,787 0,001 0,425
Ngày 20 13,42 0,20 13,51 0,21 14,31 0,20 12,62 0,22 0,766 0,001 0,148
Ngày 35 21,45 0,25 21,47 0,26 22,32 0,26 20,60 0,27 0,966 0,001 0,364
(Mean : Giá trị trung bình bình phương tối thiểu, SE: sai số chuẩn)
Khối lượng lợn con của nhóm có tiếp xúc trước cai sữa cao hơn so với nhóm không tiếp xúc
sau cai sữa tại các thời điểm: ngày 10, ngày 20 và ngày 35 tương ứng là (10,85%, 11,83% và
7,72%). Tuy nhiên, không thấy có sự tương tác giữa thời điểm ghép đàn và tiếp xúc sau cai
sữa (P>0,05). Tương tự, tốc độ tăng khối lượng/ngày của lợn con các giai đoạn ngày 10, ngày
20 và ngày 35 sau ghép đàn, hoàn toàn không chịu tác động của việc ghép đàn buổi tối hay
buổi sáng (P>0,05), nhưng chịu ảnh hưởng rất lớn của việc, có được tiếp xúc trước cai sữa hay
không, đặc biệt 10 ngày đầu và 10 ngày kế tiếp ngay sau khi chuyển chuồng và ghép đàn
(P<0,001).
Bảng 2. Trung bình bình phương tối thiểu (Mean) của tăng trọng bình quân (g/ngày) của lợn
con cai sữa đến 60 ngày tuổi
Thời điểm ghép đàn Tiếp xúc trước CS P
Buổi sáng
(n=81)
Buổi tối
(n=78)
Có
(n=81)
Không
(n=78)
Giai đoạn từ
sau ghép đàn Mean SE Mean SE Mean SE Mean SE
Thời
điểm
ghép
đàn
Tiếp
xúc
trước
CS
Tương
tác
Ngày 0 - 10 75,78 8,80 79,21 8,97 120,55 8,93 34,43 9,10 0,787 0,001 0,425
Ngày 10 – 20 494,13 14,97 498,61 15,25 530,99 15,20 461,75 15,49 0,835 0,002 0,041
Ngày 20 – 35 535,49 13,98 530,67 14,24 534,13 14,19 532,03 14,46 0,811 0,919 0,751
Toàn kỳ 397,83 6,90 398,25 7,03 421,33 7,00 374,75 7,13 0,966 0,000 0,364
(Mean : Giá trị trung bình bình phương tối thiểu, SE: sai số chuẩn)
Kết quả Bảng 2 cho thấy, ngay sau ghép đàn sau cai sữa, lợn con lô chưa được tiếp xúc trước
trong giai đoạn theo mẹ có mức tăng khối lượng bình quân/ngày thấp hơn 71,44%, 13,04%
tương ứng các giai đoạn 10 ngày đầu và 10 ngày kế tiếp tính từ thời điểm ghép đàn. Tuy
VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 18-Tháng 6-2009
4
nhiên, ảnh hưởng của việc cho tiếp xúc lẫn nhau giữa các ổ lợn con trong giai đoạn bú mẹ chỉ
kéo dài trong 20 ngày đầu vì trong giai đoạn 15 ngày còn lại mức chênh lệch giảm dần còn
0,39% và không khác nhau (P= 0,919). Mặc dù vậy, mức tăng khối lượng toàn kỳ từ ngày
ghép đàn đến kết thúc giai đoạn sau cai sữa (65 ngày tuổi) của nhóm được tiếp xúc trước cai
sữa đạt cao hơn nhóm không tiếp xúc 11,06%. Trong đó, sự chậm lớn chủ yếu ở 10 ngày đầu
ngay sau khi ghép đàn. Ảnh hưởng tương tác giữa thời điểm ghép đàn và tiếp xúc sau cai sữa
chỉ xuất hiện trong khoảng thời gian từ ngày 10-20 sau ghép đàn với độ tin cậy P=0,41.
Khả năng sử dụng thức ăn
Bảng 3. Tiêu tốn thức ăn (kg/kg) và mức tiêu thụ thức ăn/ngày (g/ngày)
của lợn con cai sữa đến 60 ngày tuổi.
Thời điểm ghép đàn Tiếp xúc trước cai sữa
Chỉ tiêu Buổi
sáng
Buổi
tối
Mức
thay đổib Có Không
Mức
thay đổib
Tiêu tốn thức ăn
Ngày 0 - 10 2,46 1,96 -0,50 1,49 2,93 -1,44
Ngày 10 - 20 1,11 1,26 0,15 1,08 1,29 -0,21
Ngày 20 - 35 1,42 1,53 0,12 1,43 1,52 -0,09
Toàn kỳ 1,31 1,44 0,13 1,29 1,46 -0,17
Mức tiêu thụ thức ăn
Ngày 0 - 10 0,13 0,16 0,03 0,18 0,12 0,06
Ngày 10 - 20 0,54 0,63 0,09 0,60 0,56 0,04
Ngày 20 - 35 0,75 0,83 0,08 0,79 0,80 -0,01
Toàn kỳ 0,51 0,76 0,25 0,82 0,54 0,28
(Mean : Giá trị trung bình bình phương tối thiểu, SE: sai số chuẩn); a Mức thay đổi = Ghép đàn buỏi tối – Ghép
đàn buổi sang ; b Mức thay đổi = Có tiếp xúc trước CS – Không tiếp xúc trứơc CS
Bảng 3 trình bày kết quả về ảnh hưởng của thời điểm chuyển ghép đàn và tiếp xúc trước cai
sữa đến khả năng sử dụng TĂ của lợn thí nghiệm ở các giai đoạn khác nhau sau ghép đàn. Kết
quả phân tích thống kê không cho thấy bất kỳ ảnh hưởng nào có ý nghĩa (P>0,05) đối với tất
các chỉ tiêu về tiêu tốn TĂ cũng như mức tiêu thụ TĂ bình quân/con/ngày. Tuy nhiên, các giá
trị tuyệt đối của số liệu cho thấy ghép đàn vào buổi tối làm giảm tiêu tốn TĂ trong 10 ngày
đầu sau ghép đàn (0,5 kg/kg). Nhưng trong thời gian còn lại, mức tiêu tốn TĂ lại tăng làm cho
toàn kỳ sau cai sữa tăng 0,13 kg (8,85%). Mức mức tiêu thụ TĂ bình quân/ngày cũng thay đổi
theo hướng là tăng khả năng ăn vào của lợn nhóm ghép đàn buổi tối, trong đó mức tăng chung
toàn kỳ 0,25 kg/ngày/con. Tương tự như ảnh hưởng của thời điểm chuyển ghép đàn, kết quả
phân tích thống kê cho thấy việc cho lợn con tiếp xúc trước khi cai sữa cũng không ảnh hưởng
đến các chỉ tiêu tiêu tốn TĂ cũng như mức tiêu thụ TĂ (P>0,05). Tuy nhiên, giá trị tuyệt đối
cho thấy lợn con được tiếp xúc trước cai sữa có mức tiêu tốn TĂ thấp hơn so với nhóm không
được tiếp xúc trước cai sữa ở tất cả cả các giai đoạn thí nghiệm. Đặc biệt, khoảng thời gian 10
ngày đầu sau ghép đàn, mức tiêu tốn TĂ của nhóm không tiếp xúc trước cai sữa cao gấp đôi
nhóm có tiếp xúc trước cai sữa. Đối với khả năng tiêu thụ TĂ bình quân/con/ngày, lợn thuộc
nhóm có tiếp xúc trước tiêu thụ lượng TĂ cao hơn nhóm không tiếp xúc trước cai sữa, với
mức tăng toàn kỳ là 0,28 kg/con/ngày. Điều đặc biệt là mức chênh lệch về tiêu tốn TĂ và mức
tiêu thụ TĂ đều cao ở 10-20 ngày đầu, sau đó mức chênh lệch giảm dần khi xa ngày ghép đàn.
Tỉ lệ lợn con bị tổn thương và tiêu chảy sau ghép đàn
NGUYỄN NGỌC PHỤC – Ảnh hưởng của thời điểm ghép đàn ...
5
Phân tích hồi qui Logarit nhị phân cho thấy tỉ lệ lợn con bị tổn thương do đánh nhau không bị
ảnh hưởng của thời điểm ghép đàn sau khi cai sữa.
Bảng 4. Tỉ lệ tổn thương và tiêu chảy ở lợn con cai sữa đến 60 ngày tuổi.
Thời điểm ghép đàn Tiếp xúc trước cai sữa
Chỉ tiêu Buổi
sáng
Buổi
tối P Có Không
P
Số con theo dõi 81 78 81 78
Số bị tổn thương 14 21 11 24
Tỉ lệ tổn thương (%) 17,28 26,92 0,145 13,58 30,77 0,049
Số con tiêu chảy 8 10 10 8
Tỉ lệ tiêu chảy (%) 9,88 12,82 0,602 12,35 10,26 0,943
Kết quả Bảng 4 cho thấy, tỉ lệ chẵn lẻ (odd ratios) ở mức 1,76 với xác suất (P=0,145). Ngược
lại, tỉ lệ bị tổn thương do đánh nhau lại chịu tác động rõ rệt của việc lợn con được cho tiếp xúc
trước cai sữa. Tỉ lệ tổn thương ở nhóm không tiếp xúc trước cai sữa cao gấp đôi so với nhóm
có tiếp xúc trước ai sữa. Kết quả phân tích cho thấy tỉ lệ chẵn lẻ ở mức cao 2,13 với xác suất
(P=0,049). Tuy nhiên, thời điểm ghép đàn buổi tối hay buổi sáng cũng như việc có tiếp xúc
trước cai sữa hay không đều không ảnh hưởng đến tỉ lệ lợn con tiêu chảy sau khi ghép đàn sau
cai sữa. Tỉ lệ chẵn lẻ đối với cả 2 yếu tố thời điểm ghép đàn và tiếp xúc trước cai sữa đều
thấp, tương ứng 1,30 và 1,04 và đều có mức xác suất (P>0,05)
Các nghiên cứu trước đây khẳng định, các ảnh hưởng bất lợi ở thời điểm cai sữa đối với lợn
con, đặc biệt những ngày đầu sau khi tách mẹ và ghép đàn. Yếu tố chính gây ra tác động này
là việc ghép cá thể của các đàn khác nhau dễ dẫn đến đánh nhau gây thương tích và ăn ít, từ
đó làm chậm lớn hoặc thậm chí giảm thể trọng so với ban đầu, đặc biệt trong suốt 2 tuần đầu
sau tách mẹ (Frazer, 1978; Mc Glone và cs., 1987, Nguyễn Ngọc Phục và cs., 2007).
Kết quả nghiên cứu này cho thấy, việc ghép đàn sau cai sữa vào buổi sáng hay buổi tối không
ảnh hưởng đến sự phát triển của lợn con, cả khối lượng cơ thể cũng như tăng trọng bình
quân/ngày. Tuy nhiên, lượng thức ăn tiêu thụ lại tăng khi lợn ghép đàn vào buổi tối. Lợn con
ghép đàn buổi sáng lại thường đánh nhau nên không tập trung tìm kiếm thức ăn nên ăn ít. Lợn
con bình thường ăn nhiều vào ban ngày và ăn ít về buổi tối theo bản năng (Christison, 1991)
do đó mức tiêu thụ thức ăn giảm. Theo Ogunbameru và cs, (1992), ghép đàn sau tách mẹ lúc
20 giờ tối sẽ tốt hơn vì làm tăng lượng TĂ tiêu thụ đến 5% và tăng khối lượng bình quân/ngày
cao hơn 6% so với lô đối chứng cai sữa lúc 8 giờ sáng. Với biện pháp cho lơn con tiếp xúc
trước khi ghép đàn một thời gian nhất định đã làm giảm rõ rệt ảnh hưởng của stress do cai sữa
gây ra. Theo Kerr và cs. (2005) và Sutherland và cs. (2006) thì ảnh hưởng stress do ghép đàn
cùng với thiếu diện tích chuồng và nhiệt độ cao đều dẫn đến giảm khối lượng cũng như tăng
khối lượng bình quân/ngày ở những ổ lợn ghép từ những đàn khác nhau. Tuy nhiên, nếu lợn
con được tiếp xúc với nhau từ khi còn bú mẹ, khi ghép đàn vào thời điểm cai sữa sẽ giảm hiện
tượng đánh nhau và do đó làm tăng khả năng tiêu thụ thức ăn và duy trì được tốc độ sinh
trưởng. Trong thí nghiệm này, tỉ lệ lợn con bị tổn thương do đánh nhau sau ghép đàn ở nhóm
không tiếp xúc trước cai sữa cao gấp đôi so với nhóm có tiếp xúc trước cai sữa cho thấy tác
dụng tích cực của việc tiếp xúc sớm khi lợn còn đang trong giai đoạn theo mẹ. Đồng thời mức
tiêu thụ TĂ của các ổ lợn con ghép đàn buổi tối được và tiếp xúc nhau trước khi cai sữa đều
tăng, do đó làm cho khả năng tăng khối lượng bình quân/ngày cũng tăng.
Ngoài ra, ảnh hưởng của stress do ghép đàn kéo dài trong vòng 20 ngày đầu sau ghép đàn.
VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 18-Tháng 6-2009
6
Giai đoạn sau đó, sinh trưởng của lợn con nhóm này đã theo kịp nhóm được tiếp xúc trước cai
sữa. Các nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phục và cs, (2007); Kerr và cs, (2005); Fabian và cs,
(2002) cũng cho thấy, lợn con có khả năng chịu đựng stress bằng cách giảm lượng TĂ tiêu
thụ, do đó tăng khối lượng cơ thể. Khi các yếu tố stress bị yếu đi hoặc không còn thường
xuyên xuất hiện thì hiện tượng tăng bù về mức tiêu thụ TĂ cũng như khối lượng cơ thể sẽ
diễn ra. Như vậy, việc ghép đàn có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất của lợn con sau cai sữa.
Việc giảm stress do ghép đàn có thể thực hiện bằng cách cho lợn con của các ổ khác nhau tiếp
xúc với nhau ngay từ khi còn bú mẹ, khoảng 2 tuần trước khi cai sữa có thể tác động có lợi
cho sinh trưởng của chúng.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận
Ghép đàn buổi tối (20 giờ) không ảnh hưởng đến năng suất của lợn con sau cai sữa. Ngược
lại, cho lợn con tiếp xúc với nhau từ 14 ngày tuổi trong thời kỳ bú mẹ có tác dụng làm giảm
ảnh hưởng của stress do ghép đàn sau cai sữa gây ra, nâng cao khả năng tiêu thụ thức ăn và
tăng trọng đồng thời làm giảm tỉ lệ lợn bị tổn thương do đánh nhau khi ghép đàn và có ảnh
hưởng tích cực đến duy trì năng suất của lợn con giai đoạn sau cai sữa.
Đề nghị
Áp dụng kỹ thuật cho các đàn lợn con được tiếp xúc từ 2 tuần tuổi vào sản xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Christison. G.I, (1991). Dim light does not affect agression or performance of newly-weaned pigs. Western
Branch, Can. Soc. Anim. Sci. Mtg., May 27 and 28. Chilliwack, BC.
F'raser. D, (1978). Observations on the behavioural development of suckling and early weaned piglets during the
first six weeks after birth. Anim. Behav. 26: p.22.
Gonyou. H. W., K. A. Fbhde Parfet, D. B. Anderson, and R. D. Olson, (1988). Effects of amperozide and
azaperone on aggression and productivity of growing-finishing pigs. J.Anim. Sci. 66: p.2856.
Graves, H. B., K. L. Graves, and G. W. Sherritt, (1978). Social behavior and growth of pigs following mixing
during the growth-finishing period. Appl. Anim. Ethol. 4:p.169.
Kerr C.A., L.R. Giles, M.R. Jones and A. Reverter, (2005). Effects of grouping unfamiliar cohorts, high ambient
temperature and stocking density on live performance of growth pigs. J.Anim. Sci. 83:p. 908-915.
McGlone, J. J., S. E. Curtis, and E. M. Banks, (1987). Evidence for aggression-modulating pheromones in
prepuberal pigs. Behav. Neural Biol. 47:p.27.
Nguyễn Ngọc Phục, Trịnh Hồng Sơn, (2007). Ảnh hưởng của cai sữa tại chỗ đến sinh trưởng lợn con đến 60
ngày tuổi. Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, 6: p.60-64.
Ogunbameru, B.0., E.T. Kornegay and C.M. Wood, (1992). Effect of Evening or Morning Weaning and
Immediate or Delayed and Feeding on Postweaning Performance of Pigs. J.Anim. Sci. 70:p.337.
Sutherland, M.A.. S.R. Niekamp, S.L. Rodriguez-Zas and J.L. Salak-Jhonson, (2006). Impacts of chronic stress
and social status on various physiological and performance measures in pigs of di