Lịch sử xã hội loài người cho thấy, từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, có
Đảng cầm quyền, bất cứ Đảng nào cầm quyền cũng đều phải xây dựng hệ thống chính
trị để thực hiện quyền lực chính trị của mình.
Hệ thống chính trị Xã hội chủ nghĩa là một hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội
trụ cột của nền chính trị xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thông qua hệ
thống chính trị, nhân dân lao động thực thi quyền lực của mình trong xã hội. Nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa là một nền dân chủ thực sự cho quần chúng lao động rộng rãi, thực
hiện quyền bầu cử phổ thông, trực tiếp, bình đẳng. Tất cả mọi công dân không phân biệt
giới tính, giai cấp, dân tộc, tôn giáo đều được quyền tham gia bình đẳng vào đời sống
chính trị, vào quản lý nhà nước. Cơ sở kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sở
hữu xã hội về tư liệu sản xuất.
Hệ thống chính trị Tư bản chủ nghĩa khác so với hệ thống chính trị Xã hội chủ
nghĩa ở chỗ, trong xã hội tư bản, quyền lực chỉ thuộc về một nhóm người, nền dân chủ
thực chất là một hình thức thống trị giai cấp. Giai cấp tư sản quan tâm đến dân chủ như
một thủ đoạn thống trị chính trị của mình, đề ra hiến pháp, lập ra nghị viện và những cơ
quan đại diện khác thực hành quyền bầu cử phổ thông và những nguyên tắc tự do chính
trị một cách hình thức dưới áp lực của quần chúng nhân dân. Thực chất, đó là một nền
dân chủ cắt xén, làm tê liệt quyền làm chủ của nhân dân lao động và làm cho quần
chúng nhân dân không thể tham gia vào đời sống chính trị. Cơ sở kinh tế của nền dân
chủ tư bản chủ nghĩa là sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, bóc lột lao động làm thuê và
chiếm đoạt giá trị thặng dư.
Hiện nay, trên bình diện thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại
sau chính biến và sự thay đổi thể chế chính trị ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu. Sự thất bại
của Chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và các nước Đông Âu cho thấy những khiếm khuyết,
yếu kém tồn tại trong lòng các nước ấy, chứ không có nghĩa là lý thuyết về chủ nghĩa xã
hội của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin hoàn toàn phá sản. Sự tồn tại một cách đầy tự
tin và vững mạnh của một số nước Xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Lào,
Triều Tiên, Cu Ba trong bối cảnh thế giới đầy thách thức hiện nay là một minh chứng
cho sức sống của lý thuyết vĩ đại đó.
74 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2111 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh viêng chăn, nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở
tỉnh viêng chăn, nước cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử xã hội loài người cho thấy, từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, có
Đảng cầm quyền, bất cứ Đảng nào cầm quyền cũng đều phải xây dựng hệ thống chính
trị để thực hiện quyền lực chính trị của mình.
Hệ thống chính trị Xã hội chủ nghĩa là một hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội
trụ cột của nền chính trị xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thông qua hệ
thống chính trị, nhân dân lao động thực thi quyền lực của mình trong xã hội. Nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa là một nền dân chủ thực sự cho quần chúng lao động rộng rãi, thực
hiện quyền bầu cử phổ thông, trực tiếp, bình đẳng. Tất cả mọi công dân không phân biệt
giới tính, giai cấp, dân tộc, tôn giáo đều được quyền tham gia bình đẳng vào đời sống
chính trị, vào quản lý nhà nước. Cơ sở kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sở
hữu xã hội về tư liệu sản xuất.
Hệ thống chính trị Tư bản chủ nghĩa khác so với hệ thống chính trị Xã hội chủ
nghĩa ở chỗ, trong xã hội tư bản, quyền lực chỉ thuộc về một nhóm người, nền dân chủ
thực chất là một hình thức thống trị giai cấp. Giai cấp tư sản quan tâm đến dân chủ như
một thủ đoạn thống trị chính trị của mình, đề ra hiến pháp, lập ra nghị viện và những cơ
quan đại diện khác thực hành quyền bầu cử phổ thông và những nguyên tắc tự do chính
trị một cách hình thức dưới áp lực của quần chúng nhân dân. Thực chất, đó là một nền
dân chủ cắt xén, làm tê liệt quyền làm chủ của nhân dân lao động và làm cho quần
chúng nhân dân không thể tham gia vào đời sống chính trị. Cơ sở kinh tế của nền dân
chủ tư bản chủ nghĩa là sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, bóc lột lao động làm thuê và
chiếm đoạt giá trị thặng dư.
Hiện nay, trên bình diện thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại
sau chính biến và sự thay đổi thể chế chính trị ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu. Sự thất bại
của Chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và các nước Đông Âu cho thấy những khiếm khuyết,
yếu kém tồn tại trong lòng các nước ấy, chứ không có nghĩa là lý thuyết về chủ nghĩa xã
hội của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin hoàn toàn phá sản. Sự tồn tại một cách đầy tự
tin và vững mạnh của một số nước Xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Lào,
Triều Tiên, Cu Ba trong bối cảnh thế giới đầy thách thức hiện nay là một minh chứng
cho sức sống của lý thuyết vĩ đại đó.
Tuy nhiên, các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay như Trung Quốc, Việt Nam, Lào
đang phải nỗ lực vượt qua những hạn chế, khiếm khuyết, thậm chí cả những sai lầm đã
từng mắc phải để chứng minh cho tính hợp lý, tính tất yếu của sự lựa chọn chủ nghĩa xã
hội trong logic lịch sử - tự nhiên của tiến trình phát triển loài người, đúng như dự báo
của V.Lênin, sớm muộn, trước sau thì các dân tộc đều sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh chính trị - xã hội phức tạp trên thế giới hiện nay, các nước xã hội
chủ nghĩa cũng cần tiến hành đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Thực chất của
việc đổi mới hệ thống chính trị là thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa để cho nhân dân
thấy mình thực sự làm chủ. Việc cải cách hệ thống chính trị luôn là một đòi hỏi cấp thiết
để đảm bảo cho những cải cách kinh tế thành công. Tuy nhiên, cải cách chính trị là một
lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm nên cần phải có những bước đi thận trọng và phù hợp với
cải cách kinh tế, nếu để xảy ra sai lầm thì hậu quả sẽ khôn lường.
Riêng nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, hệ thống chính trị nói chung và hệ
thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn nói riêng đang ngày một được củng cố, hoàn
thiện từng bước để thực thi nền dân chủ nhân dân, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân
dân, nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa.
Sau hơn 34 năm xây dựng Chủ nghĩa xã hội, hệ thống chính trị nước Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng và Nhà nước
Lào đã có khả năng dẫn dắt dân tộc Lào vượt qua những thách thức, khó khăn dành
được nhiều thành tựu to lớn.
Đi đôi với những thành quả thu được, hệ thống chính trị của nước Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào vẫn còn nhiều khiếm khuyết. So với yêu cầu thực tiễn, năng lực và
hiệu quả lãnh đạo của đảng, hiệu quả quản lý và điều hành của nhà nước, hiệu quả hoạt
động của các đoàn thể chính trị-xã hội như Mặt trận xây dựng Tổ quốc, Đoàn thanh
niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh và các tổ chức chính trị - xã hội cấp cơ sở chưa
tiến kịp với đòi hỏi của tình hình thực tiễn. Đội ngũ cán bộ thiếu tri thức vẫn chưa khắc
phục được tình trạng "công chức hoá". Nghiêm trọng hơn, một bộ phận cán bộ trong hệ
thống chính trị cấp cơ sở thoái hoá về phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống, mất
niềm tin vào chế độ, vào con đường xã hội chủ nghĩa. Thêm nữa, nhận thức của người
dân về dân chủ, về quyền dân chủ còn hạn chế do thói quen, tập quán phép, do tâm lý
tiểu nông và sự ràng buộc bởi lệ làng-bản…
Những yếu kém trên đây đã dẫn đến tình trạng vi phạm quyền làm chủ thực sự
của nhân dân, làm mất lòng tin của nhân dân vào chính quyền, vào đảng, nhà nước
Chính vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng
Chăn, chỉ ra những khiếm khuyết, đề xuất những giải pháp khắc phục để từng bước đổi
mới, kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở (tỉnh) là một vấn đề hết sức quan trọng, thiết
thực, đáp ứng yêu cầu cấp bách cả về lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Lào hiện nay.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài " Kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh
Viêng Chăn, nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào hiện nay " làm đề tài luận văn thạc sĩ
triết học - chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học - của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội được trình bày tập trung trong các tác phẩm: Những nguyên lý của chủ
nghĩa Cộng sản, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (C.Mác và Ph.Ăngghen), Tư bản, Phê
phán cương lĩnh Gôta (C.Mác), Chống Đuy-Rinh (Ph, Ăngghen), Sự phát triển của chủ
nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học, Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức, Nguồn gốc
của gia đình của chế độ tư hữu và của Nhà nước (Ph. Ăngghen), Nhà nước và Cách
mạng, Nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết, Làm gì? Chủ nghĩa xã hội và tôn
giáo, Hai sách lược của Đảng xã hội - dân chủ trong cuộc cách mạng dân chủ, Những
nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết, Kinh tế và chính trị trong thời kỳ chuyên
chính vô sản (V.I.Lênin)... Trong các tập chuyên khảo này, các ông đã trình bày khái
niệm về cái gọi là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, những đặc trưng của các xã hội ấy
và chứng minh tính tất yếu của xu thế phát triển xã hội loài người là sự thay thế xã hội
tư bản chủ nghĩa bằng xã hội xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cũng có thể tìm thấy những
cương lĩnh cải tạo đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, bài học về sự lãnh đạo của
Đảng - nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bài học
về đại đoàn kết dân tộc, quốc tế, bài học về thái độ đối với nông dân, bài học về dân chủ
hoá đời sống xã hội trong các tác phẩm ấy.
Tuy nhiên, các tác giả kinh điển không hề đề ra một con đường cụ thể, bất di bất
dịch để xây dựng chủ nghĩa xã hội mà mọi người, mọi dân tộc phải nhất nhất tuân theo
ở mọi nơi, mọi lúc. Do vậy, lý thuyết xây dựng chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác -
Lênin đã được các nhà lãnh đạo cách mạng như Hồ Chí Minh (Việt Nam), Đặng Tiểu
Bình, Mao Trạch Đông (Trung Quốc), Kay Son Phom Vi Han (Lào) vận dụng một cách
linh hoạt, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của dân tộc mình. Trong các tác phẩm của
mình, các ông đã bổ sung những cơ sở lịch sử cho lý thuyết của Mác - Lênin bằng kinh
nghiệm học Đông phương.
Một số các luận văn, luận án cũng đã đi vào tìm hiểu về vai trò và vị trí của hệ
thống chính trị cấp cơ sở trong việc thực hiện quyền dân chủ như: Nghiên cứu về vai trò
của giai cấp công nhân trong chế độ dân chủ nhân dân tiến tới mục tiêu xây dựng
XHCN ở Lào (Vẻn Thong Luông Vi Lay – luận án tiến sĩ, Hà Nội 2005); Đảng nhân
dân cách mạng Lào lãnh đạo hệ thống chính trị trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ( Vi
Súc Phôn Phi Thắc - luận án Tiến sĩ triết học, Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh);
Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị các xã
các tỉnh khu vực Nam bộ (Lê Hanh Thông – luận án tiến sĩ, Hà Nội 2003); Vai trò của
Nhà nước đối với việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay
(Trần Thị Băng Thanh – luận án tiến sĩ, Hà Nội 2002); Hệ thống chính trị vùng dân tộc
thiểu số người Chăm (Nguyễn Đức Ngọc – Luận văn thạc sĩ, Hà nội năm 2003); Kiện
toàn hệ thống chính trị ở xã nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân vùng đồng
bằng sông Hồng hiện nay (Nguyễn Dương Hùng – luận án tiến sĩ, Hà Nội 2008) ... Tuy
nhiên, trong các luận án, luận văn này, các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu về vai trò của
hệ thống chính trị cấp cơ sở trong việc phát huy tinh thần dân chủ của nhân dân, về
những yếu kém của hệ thống chính trị cấp cơ sở, từ đó đề ra một số những kiến nghị,
giải pháp cho việc củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở Lào hiện nay.
Để tham khảo những kinh nghiệm của Việt Nam trong cách giải quyết các vấn đề
về cải cách hệ thống chính trị, luận văn đã từng tham khảo và tìm đọc các công trình
khoa học nghiên cứu liên quan đến đề tài trên của các nhà khoa học Việt Nam như: Hệ
thống chính trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay (Hoàng Chí Bảo, nhà xuất bản chính
trị quốc gia Hà Nội 2004); Hệ thống chính trị cơ sở. Thực trạng và một số giải pháp đổi
mới (Bộ Nội vụ nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội 2004); Góp bàn về hệ thống
chính trị cơ sở vùng dân tộc Khơ-me đồng bằng sông Cửu Long (Trịnh Quốc Tuấn -
Tạp chí lịch sử Đảng số 8/2003); Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-nền
tảng tư tưởng của chúng ta; Đổi mới hệ thống chính trị vùng miền núi phái Bắc
(Nguyễn Quốc Phẩm, nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 2004), Chủ nghĩa Mác-
Lênin về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng (Nguyễn Văn Oánh - tạp
chí lịch sử Đảng 2007); Về dân chủ Tư sản và dân chủ XHCN; Tư tưởng của Lênin về
phát triển từ dân chủ tư sản đến dân chủ xã hội chủ nghĩa (Đỗ Thị Thạch – Thông tin
Chủ nghĩa xã hội lý luận và thực tiễn số 6/2005, tạp chí lý luận chính trị số 4/2007); Một
số vấn đề chính trị, xã hội từ quá trình phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực
(Nguyễn An Ninh - thông tin Chủ nghĩa xã hội lý luận và thực tiễn Hà Nội 2006) ...
Nhiều bài báo, bài viết trong các tập chuyên khảo về vấn đề con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, tính tất yếu và cần thiết của sự cải cách hệ thống chính trị
cũng được tác giả luận văn tham khảo như Chủ nghĩa xã hội từ lý luận đến thực tiễn,
những bài học kinh nghiệm (Lê Hữu Tầng, nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội
2003), Chủ nghĩa Mác-Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt Nam (Đặng Hữu Toàn, nhà
xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 2002), Văn kiện Đại hội X của Đảng cộng sản Việt
Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn (Phạm Văn Đức và Đặng Hữu Toàn đồng chủ
biên, nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội 2008), Những vấn đề lý luận đặt ra từ các
văn kiện Đại hội IX của Đảng (Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên, nhà xuất bản chính trị
quốc gia Hà Nội 2002), Toàn cầu hoá trong bối cảnh châu A - Thái bình dương, một số
vấn đề triết học (Phạm văn Đức chủ biên, nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội 2007)...
Song, những vấn đề mà các nhà khoa học Việt Nam đề cập đến trong các tác
phẩm trên chủ yếu là kinh nghiệm cho riêng Việt Nam, chưa có công trình nào đi sâu
tìm hiểu về thực trạng của hệ thống chính trị ở Lào và hệ thống chính trị cấp cơ sở ở
tỉnh Viêng Chăn. Chúng tôi chỉ có thể tham khảo những công trình trên và tìm ra những
nét tương đồng, so sánh với nước Cộng hoà dân chủ nhân Lào mà thôi.
Nói chung, vấn đề xây dựng và củng cố hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Nước
Cộng Hoà dân chủ nhân dân Lào nói chung và tỉnh Viêng Chăn nói riêng chưa được
nghiên cứu một cách hệ thống, khoa học, nghiêm túc. Trong luận văn này, chúng tôi hy
vọng sẽ đóng góp những ý kiến nhỏ bé của mình trong việc tìm ra những giải pháp cho
việc củng cố và phát huy hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nước Cộng hoà dân chủ nhân
dân Lào hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích của luận văn: trên cơ sở làm rõ thực trạng hệ thống chính trị cấp cơ sở
tỉnh Viêng Chăn, luận văn góp phần tìm giải pháp kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở
tỉnh Viêng Chăn.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn cần phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
Làm rõ khái niệm và vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn.
- Phân tích tình hình, đặc điểm, thực trạng tổ chức và hoạt động hệ thống chính
trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh
Viêng Chăn, nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào hiện nay
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn
nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào trong trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng Nhân dân cách mạng Lào về hệ thống chính trị
Luận văn thực hiện và sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp
thống kê - so sánh, kết hợp nghiên cứu thực tế lịch sử với nghiên cứu văn bản.
6. ý nghĩa của luận văn
Góp phần phân tích và đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn.
Góp phần nâng cao nhận thức về vai trò và chức năng của cấp cơ sở tỉnh Viêng
Chăn.
Đề xuất một số giải pháp kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công
tác nghiên cứu và giảng dạy chính trị học, tài liệu tham khảo cho hoạt động thực tiễn
của các cơ quan, những người đang tham gia công tác trong hệ thống chính trị cấp cơ sở
tỉnh Viêng Chăn nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu
gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn
nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
1.1. Một số nhận thức chung về Hệ thống chính trị
1.1.1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về hệ thống chính trị
Trong quá trình hoạt động chính trị của mình các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin không dùng thuật ngữ "Hệ thống chính trị" theo cách hiểu hiện nay của
chúng ta, C.Mác và Ph.Ăngghen thường dùng các thuật ngữ: hình thức chính trị, thiết
chế chính trị, thể chế xã hội và chính trị, cơ cấu chính trị, cơ cấu chính quyền, thể chế
nhà nước, ... V.I. Lênin dùng khái niệm "hệ thống chuyên chính vô sản", khái niệm này
của V.I. Lênin là khái niệm có khá nhiều nội dung liên quan đến khái niệm Hệ thống
chính trị của chúng ta hiện nay.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về hệ thống chính trị mang ý nghĩa là
phương pháp luận nghiên cứu về hệ thống chính trị, với những luận điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, Nhà nước là nhân tố chủ yếu của hệ thống chính trị.
Theo C.Mác: chế độ chính trị là nhà nước, nhà nước là nhân tố quan trọng nhất
của hệ thống chính trị. Và C.Mác, Ph.Ăngghen đã nêu ra ba nhân tố quyết định sự ra đời
của nhà nước:
Một: do sự thay đổi trong phân công lao động cùng với sự phát triển kinh tế - xã
hội đến một trình độ nào đó cần phải có một tầng lớp người tách khỏi lao động trực tiếp
sản xuất vật chất để chăm lo công việc chung của xã hội. Tầng lớp người này, sau trở
thành độc lập tương đối đối với xã hội và có lợi ích riêng khác với các thành viên khác
của xã hội. Nhà nước xuất hiện như là quyền lực công cộng chịu trách nhiệm giữ gìn
trật tự xã hội theo những quy tắc, luật lệ nhất định mà mọi thành viên của xã hội đều
phải tuân theo.
Hai: Sự xuất hiện của giai cấp và mâu thuẫn giai cấp đòi hỏi cần phải có một cơ
quan dường như đứng trên các giai cấp, kìm giữ cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, khiến
cho các giai cấp không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội. Nhà
nước xuất hiện như là một "lực lượng thứ ba" với tư cách là trọng tài của xã hội.
Ba: Là sự thống trị về chính trị. Giai cấp thống trị về kinh tế tất yếu trở thành
giai cấp thống trị cả về chính trị, với ưu thế về kinh tế và để giữ vững ưu thế đó, giai cấp
thống trị có thể và cần phải nắm lấy bộ máy nhà nước làm công cụ thống trị xã hội,
trước hết là để duy trì giai cấp bóc lột dưới quyền thống trị của mình. Lúc này, nhà nước
xuất hiện như là một công cụ áp bức giai cấp.
Ba nhân tố cơ bản trên là điều kiện cần và đủ để nhà nước ra đời. Về bản chất, sự
ra đời của nhà nước là kết quả tất yếu của sự phân chia xã hội thành giai cấp, nhà nước
như là cơ quan thống trị của giai cấp bóc lột. Nhà nước là kết quả của một cuộc cách
mạng chính trị lật đổ chế độ cũ đã lỗi thời để lập nên chế độ mới tiến bộ hơn
Ra đời từ xã hội dân sự, đến lượt nó, nhà nước lại dùng pháp luật để điều chỉnh
mọi quan hệ xã hội công dân và do đó làm cho chính trị thâm nhập vào trong tất cả mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, nhà nước tác động tích cực trở lại cơ sở kinh tế bằng
những chế độ, chính sách, pháp luật và toàn bộ hoạt động quản lý, điều hành của nó.
Vấn đề bản chất, vai trò và chức năng của nhà nước, theo C.Mác: "giai cấp vô
sản không thể tự động bị áp bức và bị bóc lột dưới chế độ tư bản chủ nghĩa nếu không
"thay thế xã hội tư sản cũ bằng một tổ chức liên hiệp, tổ chức này sẽ loại bỏ các giai cấp
và sự đối kháng giai cấp" [32, tr.257].
C.Mác và Ph.Ăngghen coi chức năng bạo lực là chức năng thuộc về bản chất
của nhà nước, theo nhu cầu của giai cấp thống trị. Ngoài ra, nhà nước còn có chức
năng quyền lực công cộng, quản lý kinh tế - xã hội, tổ chức đời sống chính trị, kinh
tế, văn hoá, và chức năng điều chỉnh các quan hệ lợi ích.
Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác, chế độ chính trị tư sản được xây dựng
trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và nhằm bảo vệ chế độ đó. Các quyền tự do
cá nhân cũng dựa trên nguyên tắc này và được coi là quyền con người và quyền công
dân.
Nguyên tắc trên bảo đảm sự thống trị của giai cấp tư sản, nguyên tắc dân chủ tư
sản, về thực chất, là nền chuyên chính tư sản. Chế độ chính trị tư sản được biểu hiện
dưới những hình thức đặc thù khác nhau trong mỗi thời kỳ khác nhau, ở mỗi nước khác
nhau, đó là các hình thức chế độ quân chủ lập hiến, chế độ Tổng thống, chế độ đại
nghị… Trong đó, chế độ cộng hoà đại nghị được C.Mác và Ph.Ăngghen gọi là hình thức
thích hợp nhất của chế độ chính trị tư sản.
C.Mác và Ph.Ăngghen dự đoán về sự phát triển, lịch sử xã hội loài người, theo đó,
"Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị,
và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng
của giai cấp vô sản" [36, tr.47].
Đối với mô hình hệ thống chính trị vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa có điều
kiện đi sâu nghiên cứu, các ông chỉ căn cứ vào khuynh hướng phát triển và quy luật vận
động của xã hội tư sản, từ đó hướng tới dự đoán một số nét như sau:
- Chủ nghĩa tư bản nhất định diệt vong, chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thay thế
chủ nghĩa tư bản.
- Giai cấp vô sản do địa vị kinh tế - xã hội của nó là giai cấp có sự mệnh lịch sử
làm cách mạng lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Cách mạng thành công, giai cấp vô sản phải thiết lập nền chuyên chính vô sản
và sử dụng quyền lực chính trị ấy để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
- Hệ thống chính trị vô sản phải bảo đảm quyền thống trị của giai cấp vô sản, mà
đại diện tiêu biểu là đảng của nó.
- Hệ thống chính trị đó phải lấy