Nhật Bản, được mệnh danh là đất nước của “ xứ sở hoa Anh Đào ”. Đến với
đất nước con người Nhật Bản ta học hỏi được truyền thống cần cù, chịu khó,
biết vươn lên. Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu thế giới về khoa học và công nghệ.
Được đánh giá là một cường quốc kinh tế, là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba
toàn cầu tính theo tổng sản phẩm nội địa cũng như theo sức mua tương đương
chỉ sau Mĩ và Trung Quốc. Và Nhật còn là nước đứng thứ 5 thế giới trong lĩnh
vực đầu tư cho quốc phòng, xếp thứ 4 thế giới về xuất khẩu và đứng thứ 6 thế
giới về nhập khẩu.
Nhật Bản còn là một nước đế quốc Quân Phiệt hiếu chiến. Trong chiến tranh
thế giới thứ hai, Nhật Bản là một trong ba lò lửa chiến tranh gồm Đức, Nhật và
Italia. Khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản là một nước bại trận.
Nền kinh tế Nhật Bản bị tàn phá hoàn toàn. Cả nước bị ném bom tàn phá nặng
nề, đặc biệt là hai quả bom nguyên tử đã được Mĩ ném xuống hai thành phố
Hirôsima và Nagoasaki đã gây ra thiệt hại vô cùng khủng khiếp cả về người và
của đối với Nhật Bản. Sau chiến tranh, cuộc sống của đại đa số người Nhật
không đủ ăn, không có nhà ở, máy móc thiết bị, nhà xí nghiệp bị tàn phá,
nguyên nhiên liệu phục vụ cho sản xuất cũng khan hiếm. Hàng hóa thiếu thốn
trầm trọng, lạm phát phi mã xảy ra. Và yêu cầu cấp thiết lúc này là Nhật Bản
phải tiến hành khôi phục nền kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.
Nói tới Nhật Bản, không ít nhà nghiên cứu Phương Tây cho rằng sự thành
công trong phát triển kinh tế của Nhật Bản là kết quả của sự kết hợp khéo léo
giữa “ công nghệ Phương Tây” và “tính cách Nhật Bản”. Trải qua những bước
thăng trầm trong lịch sử, sự lớn mạnh của nền kinh tế đã làm cho kinh tế Nhật
Bản trở thành một trong những trung tâm kinh tế tài chính lớn nhất thế giới.
43 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2649 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh tế Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Phần mở đầu.
1.Lí do chọn đề tài.
2.Mục đích nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi ngiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
5. Bố cục.
Phần nội dung:
Chương 1: Tình hình kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới 2 (1945-1960).
1.1 Đôi nét về đất nước con người Nhật Bản.
1.2 Hàn gắn vết thương chiến tranh và phục hồi kinh tế (1945-1960).
Chương 2: Đặc điểm nền kinh tế Nhật Bản (1960-1973).
2.1 Sự phát triển thần kì của kinh tế Nhật Bản (1960-1973).
2.2 Những nguyên nhân dẫn tới sự phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản.
2.2.1 Tính cách con người Nhật Bản.
2.2.2 Vai trò quản lí và chính sách mở cửa của Nhà Nước.
2.2.3 Cải cách kinh tế.
2.2.4 Đổi mới và phát triển khoa học kĩ thuật.
2.2.5 Ổn định chính trị xã hội.
2.2.6 Chi phí quốc phòng ít.
2.2.7 Các công ti, các nhà kinh doanh năng động tích cực.
2.2.8 Sự hợp tác chủ thợ và lực lượng lao động ưu tú.
2.2.9 Tỉ lệ tiết kiệm cao và ngân hàng cho vay tích cực.
2.2.10 Cơ cấu hai tầng và tư tưởng trong tăng trưởng kinh tế.
2.2.11 Sự kết hợp giữa thị trường và kế hoạch.
2.2.12 Môi trường quốc tế hòa bình.
2.2.13 Cải cách giáo dục.
Chương 3: Ý nghĩa của sự phát triển thần kì.
Phần kết luận.
Phụ lục ảnh.
Phần mở đầu.
1.Lí do chọn đề tài.
Nhật Bản, được mệnh danh là đất nước của “ xứ sở hoa Anh Đào ”. Đến với
đất nước con người Nhật Bản ta học hỏi được truyền thống cần cù, chịu khó,
biết vươn lên. Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu thế giới về khoa học và công nghệ.
Được đánh giá là một cường quốc kinh tế, là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba
toàn cầu tính theo tổng sản phẩm nội địa cũng như theo sức mua tương đương
chỉ sau Mĩ và Trung Quốc. Và Nhật còn là nước đứng thứ 5 thế giới trong lĩnh
vực đầu tư cho quốc phòng, xếp thứ 4 thế giới về xuất khẩu và đứng thứ 6 thế
giới về nhập khẩu.
Nhật Bản còn là một nước đế quốc Quân Phiệt hiếu chiến. Trong chiến tranh
thế giới thứ hai, Nhật Bản là một trong ba lò lửa chiến tranh gồm Đức, Nhật và
Italia. Khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản là một nước bại trận.
Nền kinh tế Nhật Bản bị tàn phá hoàn toàn. Cả nước bị ném bom tàn phá nặng
nề, đặc biệt là hai quả bom nguyên tử đã được Mĩ ném xuống hai thành phố
Hirôsima và Nagoasaki đã gây ra thiệt hại vô cùng khủng khiếp cả về người và
của đối với Nhật Bản. Sau chiến tranh, cuộc sống của đại đa số người Nhật
không đủ ăn, không có nhà ở, máy móc thiết bị, nhà xí nghiệp bị tàn phá,
nguyên nhiên liệu phục vụ cho sản xuất cũng khan hiếm. Hàng hóa thiếu thốn
trầm trọng, lạm phát phi mã xảy ra. Và yêu cầu cấp thiết lúc này là Nhật Bản
phải tiến hành khôi phục nền kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.
Nói tới Nhật Bản, không ít nhà nghiên cứu Phương Tây cho rằng sự thành
công trong phát triển kinh tế của Nhật Bản là kết quả của sự kết hợp khéo léo
giữa “ công nghệ Phương Tây” và “tính cách Nhật Bản”. Trải qua những bước
thăng trầm trong lịch sử, sự lớn mạnh của nền kinh tế đã làm cho kinh tế Nhật
Bản trở thành một trong những trung tâm kinh tế tài chính lớn nhất thế giới.
Nền kinh tế Nhật Bản đã được phục hồi ngay sau chiến tranh, và từ nửa đầu
thập kỉ 60 cho đến năm 1973 đã duy trì được tốc độ phát triển cao đáng kinh
ngạc người ta gọi đó là “ sự phát triển thần kì ”. Tại sao Nhật Bản là một nước
đi sau trên con đường tư bản chủ nghĩa trong khi nhiều quốc gia Phương Tây đã
bắt đầu tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa, mà Nhật Bản lại có thể
vươn lên và phát triển mạnh mẽ đến vậy? Chúng ta sẽ cùng nhau đi sâu phân
tích những đặc điểm dẫn tới sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản từ 1952-1973.
Và Nhật Bản đã phát triển thần kì như thế nào? Vì sao Nhật Bản lại làm được
điều đó? Những nguyên nhân nào tác động dẫn đến sự phát triển thần kì đó? Sự
thần kì đó có ảnh hưởng như thế nào? Đây là lí do chúng tôi muốn tìm hiểu đề
tài “ Nguyên nhân phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản ( 1960-1973 )”.
Từ những tài liệu thu thập và tìm hiểu được, chúng tôi đã chọn lọc, tổng kết
và rút ra nhận xét đánh giá để hoàn thiện đề tài. Bài viết còn những hạn chế,
thiếu xót, mong bạn đọc đóng góp ý kiến giúp đề tài hoàn thiện hơn.
2.Mục đích nghiên cứu.
Để thỏa mãn niềm đam mê của mình, chúng tôi xin đóng góp một phần nhỏ
vào công trình nghiên cứu về nguyên nhân phát triển thần kì của nền kinh tế
Nhật Bản (1960-1973) qua một vài trang viết.
Nhằm cung cấp cho bạn đọc và những người yêu lịch sử muốn tìm hiểu thêm
về lịch sử đất nước Nhật Bản qua những thông tin khái quát nhất.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu và tìm hiểu về nguyên nhân phát triển thần kì của nền kinh tế
Nhật Bản (1960-1973).
4.Phương pháp nghiên cứu.
Thu thập thông tin từ các nguồn sử liệu sau đó xử lí sao cho phù hợp với nội
dung của bài nghiên cứu nhằm đảm bảo được tính khái quát và chính xác của tư
liệu, tài liệu.
5.Bố Cục.
Phần mở đầu
Phần nội dung:
Chương 1: Tình hình kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới hai (1945-1960).
1.1.Đôi nét về đất nước - con người Nhật Bản.
1.2. Hàn gắn vết thương chiến tranh và phục hồi kinh tế (1945-1960).
Chương 2: Đặc điểm nền kinh tế Nhật Bản (1960-1973).
2.1 Sự phát triển thần kì của kinh tế Nhật Bản (1960-1973).
2.2 Những nguyên nhân dẫn tới sự phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản.
Chương 3: Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm với Việt Nam.
Phần kết luận.
Tài liệu tham khảo.
Phần nội dung.
Chương 1: Tình hình Nhật Bản sau chiế tranh thế giới hai (1945- 1960).
1.1.Đôi nét về đất nước –con người Nhật Bản.
Vị trí địa lí: Nhật Bản nằm ở phía Đông của Châu Á, là một dãy đảo nằm
giữa biển Bắc Thái Bình Dương và biển Nhật Bản, phía Đông bán đảo Triều
Tiên.
Nhật Bản là một quốc gia hải đảo hình vòng cung, là quần đảo với trên 3000
đảo lớn nhỏ, có 4 đảo chính là: Honshu, Hokkaido, Shikoku, Kyushu. Nhật Bản
thuộc vùng ôn đới có 4 mùa rõ rệt. Vùng đảo này trải dài 2.000 km với chiều
ngang khoảng 300 km.Tổng diện tích khoảng 377.835 km2 tương đương diện
tích của Đức, Phần Lan hay Việt Nam. Phần lớn đảo ở Nhật Bản có rất nhiều
núi lửa như núi Phú Sĩ cao nhất ở Nhật Bản.
Nhật Bản nằm trên đường ranh giới giữa bốn mảng kiến tạo địa chất của
Trái Đất. Tọa lạc ở “ vành đai lửa” Thái Bình Dương, là một vùng đất nhiều núi
non, với khoảng 3/4 diện tích là đồi núi. Với địa thế núi non như vậy nên song ở
đây thường ngắn và có sườn dốc. Những dòng sông này mang phù sa bồi đắp
cho những cánh đồng có diện tích vừa phải.
Với tổng diện tích của Nhật Bản, rừng chiếm 66,7%; diện tích canh tác
chiếm13,9%; diện tích cư trú chiếm 4,4%. Phần diện tích canh tác giảm từng
năm với tốc độ chậm.
Bờ biển Nhật Bản rất đa dạng, lồi lõm rõ rệt với vô số vịnh và bán đảo,
nhưng cũng có những bãi biển dài hàng chục km.
Nhật Bản là quốc gia duy nhất ở phương Đông có sự đồng nhất gần như
tuyệt đối về dân tộc và ngôn ngữ: một dân tộc, một ngôn ngữ. Nó là một trong
những nhân tố quan trọng bậc nhất tạo ra sức mạnh đoàn kết và tính dân tộc cao
cả. Nhật Bản là quốc gia có dân số lớn thứ mười thế giới với ước tính khoảng
128 triệu người. Trong đó 99% là người Nhật. Dân cư Nhật Bản phân bố không
đồng đều trong cả nước. Dân cư tập trung đong nhất ở vành đai Thái Bình
Dương.
Nhật Bản có rất ít tài nguyên thiên nhiên. Các khoáng sản như quặng sắt,
đồng đỏ, kẽm, chì, bạc và các tài nguyên năng lượng quan trọng như dầu mỏ,
than đều phải nhập khẩu. Địa hình và khí hậu cũng khiến người nông dân gặp
rất nhiều khó khăn. Nhật Bản chỉ trồng cấy được một số cây trồng như lúa gạo,
nên khoảng một nửa số lương thực phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Nhật Bản vốn là nước rất nghèo tài nguyên trong khi đó dân số lại quá đông,
phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị phá hủy kiệt quệ trong
chiến tranh. Nhưng với các chính sách phù hợp kinh tế Nhật Bản đã nhanh
chóng được phục hồi trong giai đoạn (1945-1960) và phát triển cao độ trong
giai đoạn (1960-1973) làm thế giới phải kinh ngạc, gọi đó là “ Sự phát triển thần
kì ” của kinh tế Nhật Bản.
Văn hóa Nhật Bản là nền văn hóa tự bản thân mang tính thống nhất cao. Đó
là văn hóa mang sức mạnh của một dân tộc thống nhất. Chính cái đó đã tạo nên
cái gọi là tinh thần dân tộc Nhật Bản.
Người Nhật Bản có tính kỉ luật rất cao. Đặc điểm này có căn nguyên từ môi
trường sống không lấy gì làm thuận lợi của họ. Khí hậu Nhật Bản khá khắc
nghiệt: mùa đông lạnh giá, tuyết phủ đầy ở miền Bắc; mùa hè nóng nực và
nhiều gió bão. Các thiên tai như: động đất, sóng thần, núi lửa,… luôn luôn rình
rập. Có thể nói so với nhiều quốc gia ở Châu Á thì “Nhật Bản không được trời
ban phúc về điều kiện tự nhiên”. Hoàn cảnh ấy tạo cho họ sự lạnh lùng, khắc
khổ, sẵn sàng đón nhận tất cả những khó khăn à thiên nhiên mang lại. Người
Nhật Bản đã từng phải sống trong ngôi nhà bằng giấy, có thể dễ dàng dựng lại
sau một trận động đất hoặc hỏa hoạn, người miền Bắc phải muối rau dưa để ăn
suốt cả mùa đông. Tính kỉ luật của người Nhật khác hẳn với tính tùy tiện của cư
dân nhiều vùng trồng lúa nước ở Đông Nam Á. Chính tính kỉ luật cao ấy đã
giúp người Nhật nhanh chóng thích nghi với nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
Trong cách ứng xử của mình người Nhật hầu như không khoe khoang,
không tỏ ra hơn người. Trong mọi hành vi ứng xử người Nhật tỏ ra “ trung
tính”, với họ cách ứng xử tốt nhất là hòa lẫn với mọi người, không được tỏ ra
sắc sảo hơn, giàu có hơn, ăn diện hơn… nhưng cũng không thể hiện mình là
người kém cỏi, … Cách ứng xử như vậy đã làm giảm căng thẳng không cần
thiết và góp phần hạn chế sự ghen ghét, tính đố kị của con người.
Người Nhật thường dè dặt khép kín. Khi tiếp xúc với người Nhật, người đối
thoại khó biết đượcngười Nhật nghĩ gì, khen chê thế nào,….Chính vì đặc tính
này của người Nhật mà những bí mật của tập đoàn hoặc bản thân được bảo vệ,
thông tin ít bị rò rỉ ra bên ngoài. Người Nhật biết ghìm mình tránh va chạm và
tranh cãi.
Những đức tính đó hầu như không thay đổi cho dù xã hội Nhật Bản luôn
luôn biến động. Và những phẩm chất ấy đã tạo ra một thứ gọi là “ tinh thần
Nhật Bản” mà toàn thế giới phải khâm phục.
1.2.Hàn gắn vết thương chiến tranh và phục hồi kinh tế (1945-1960).
Nếu Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên giàu có “ rừng vàng biển bạc”
khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho vạn vật cỏ cây phát triển thì điều kiện tự nhiên
của Nhật Bản rất khắc nghiệt, thiên tai, bão lũ, động đất xảy ra thường xuyên,
hơn 2/2 diện tích Nhật Bản là đồi núi trong đó có hơn 30 ngọn núi lửa, đất đai
trồng trọt ít, tài nguyên khoáng sản hầu như không có gì. Đặc biệt sau chiến
tranh thế giới thứ 2 kết thúc nền kinh tế lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng.
Trong suốt những thập niên đầu thế kỉ XX, Nhật Bản bành trướng ra bên
ngoài. Quân đội Nhật đã chiếm được những vùng lãnh thổ rộng lớn. Đến tháng
12/1941, Nhật Bản tấn công căn cứ hải quân của Mĩ ở Trân Châu cảng, Hawaii.
Mĩ bắt đầu tham gia chiến tranh thế giới thứ hai, chống lại Nhật và Đức. Ban
đầu ưu thế thuộc về Nhật nhưng đến năm 1945 các thành phố của Nhật đã ở
trong tầm ném bom của đối phương. Phần lớn các trung tâm công nghiệp của
Nhật Bản đã trở thành mục tiêu ném bom của quân Đồng minh, máy bay ném
bom của quân Đồng minh đã tàn phá các thành phố lớn như Tôkyô, Niigata,
Hiroshima và Nagasaki.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã để lại những hậu quả vô cùng nặng
nề: khoảng 3 triệu người chết, mất tích và bị thương, 9 triệu người không có nhà
ở. Về cơ sở vật chất, 40% đô thị bị tàn phá, 80% tàu bè, 34% máy móc nông
nghiệp bị phá hủy. Tổng giá trị thiệt hại về vật chất là 63,4 tỉ Yên. Là nước bị
trận, Nhật Bản còn mất hết thuộc địa và bản thân lại bị quân Đồng minh chiếm
đóng.
Vấn đề kinh tế - xã hội cũng gặp không ít khó khăn: lương thực, nguyên liệu
thiếu trầm trọng, giá cả đắt đỏ, lạm phát leo thang. Sản lượng công nghiệp năm
1946 chưa bằng 1/3 năm 1930 và chỉ bằng 1/7 năm 1941. Cả nước có tới 13,1
triệu người thất nghiệp. Vụ lúa năm 1945 thất bát, thảm họa đói rét bao trùm
nước Nhật. Hơn 4 triệu người thất nghiệp do ngừng các loại sản xuất quân sự,
7,6 triệu binh sĩ giải ngũ , 1,5 triệu người từ thuộc địa hồi hương, nâng tổng số
người không có việc làm lên 13,1 triệu người, 25% công trình xây dựng bị phá
hủy.
Do chiến tranh, sản xuất bị gián đoạn, thất nghiệp gia tăng, tổng cầu vượt
cung khiến cho lạm phát tăng tốc nhanh chóng. Nạn đói xảy ra trầm trọng tuy
đã được khắc phục nhưng chưa hiệu quả, thức ăn tồi và thiếu gây ra nạn suy
dinh dưỡng và ngộ độc ở nhiều nơi.
Rất nhiều hậu quả của chiến tranh dẫn đến những thách thức to lớn đối với
Nhật Bản nhưng không chỉ khôi phục được hậu quả chiến tranh mà Nhật Bản
còn phát triển vượt bậc. Nhật Bản khôi phục được nhân lực và được sự giúp đỡ
của Mỹ nên Nhật Bản nhanh chóng khôi phục lại đất nước, phục hồi lại nhà
máy từ đống tro tàn của chiến tranh và phát triển kinh tế.
Một thời gian sau chiến tranh Nhật Bản đã bắt đầu tích lũy được một số vốn
và lần lượt xây dựng các nhà máy có công nghệ cao. Những nhà máy cũ bị tàn
phá trong chiến tranh có tác dụng buộc Nhật Bản phải trang bị lại những thiết bị
tối tân nhất. Trong một thời kỳ mà cuộc cách mạng kĩ thuật diễn ra hết sức
nhanh chóng, điều quan trọng là phải đào tạo được những con người thành thạo
kỹ thuật mới và phải có vốn để du nhập những kỹ thuật đó. Nếu thiết bị quá cũ
sẽ là trở ngại cho sự phát triển.
Trong tình hình đó, người Nhật đã nhờ vào viện trợ của Mỹ cùng với nỗ lực
của bản thân. Trong những năm 1945- 1950, Nhật Bản nhận viện trợ và đầu tư
của Mỹ và nước ngoài gần 14 tỉ USD. Mỹ còn đề nghị giảm tiền bồi thường cho
Nhật xuống còn ¼. Một loạt những cải cách xã hội được khẩn trương tiến hành:
ngày 9/10/1945 quân đội đồng minh (Mỹ) chiếm đóng tại Nhật Bản, đã công bố
chính sách “ phi quân sự hóa nền kinh tế”, “ khuến khích các lực lượng dân
chủ”, “ thủ tiêu việc tập trung” trong sản xuất và chiếm hữu tài sản.
Một loạt các đạo luật được công bố: Luật chống độc quyền(4/1947) Luật
công đoàn( 1945), cải cách ruộng đất(1947), luật điều chỉnh quan hệ lao động
(1946)… Những cải cách và biện pháp đó đã tạo ra cho nước Nhật chỉ trong
một thời gian ngắn, đến những năm 1950-1951, đã khôi phục được nền kinh tế
của mình đạt mức trước chiến tranh. Đến năm 1951, tổng sản phẩm quốc dân
đạt mức những năm 1934-1936.
Từ 1952-1960, kinh tế Nhật Bản đã có bước phát triển nhanh. Từ 1952-1958,
tổng sản phẩm quốc gia (GNP) bình quân hàng năm tăng 6,9% và năm 1959 là
hơn 10%. Và sự phát triển của Nhật Bản không chỉ dừng lại ở đây, kinh tế Nhật
Bản bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển thần kì 1960- 1973. Nhật Bản đã đạt
được những thành tựu to lớn trong giai đoạn này.
Sau chiến tranh thế giới hai Nhật Bản là một nước bại trận, đất nướcchìm
trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng .Nhưng với ý chí, tính cách của con
người Nhật Bản cùng các yếu tố khác đã tạo nên nền kinh tế Nhật Bản với một
diện mạo hoàn toàn mới. Thời kì phát triển kinh tế nhanh hiếm có trong lịch sử,
là thời kì Nhật Bản đã có những biến đổi thần kì về kinh tế trong nước cũng như
trong quan hệ với nền kinh tế thế giới.
Chương 2. Đặc điểm nền kinh tế Nhật Bản (1960- 1973).
2.1.Sự phát triển thần kì của kinh tế Nhật Bản (1960- 1973).
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào khủng
khoảng nghiêm trọng: năng lượng thiếu, lạm phát nặng nề… Dù vậy, sau đó
Nhật Bản vẫn vươn lên hàng cường quốc thế giới, đứng thứ 2 sau Mỹ và đạt
được nhiều thành tựu to lớn, phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt là giai đoạn
(1960-1973) là giai đoạn phát triển “thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản.
Trong giai đoạn (1960-1973) nền kinh tế Nhật Bản phát triển với nhịp độ rất
nhanh, tốc độ tăng trưởng sản phẩm quốc dân thực tế thường ở mức cao nhất
trong các nước tư bản so với năm 1950 giá trị tổng sản phẩm trong nước năm
1973 tăng 20 lần( từ 20 tỉ USD- 502 tỉ USD) vượt Anh, Pháp, cộng hòa liên
bang Đức. Nhật Bản đã dẫn đầu các nước tư bản về tàu biển, xe máy, máy ảnh,
ti vi,…và nhanh chóng xây dựng lên các ngành kinh tế mũi nhọn dựa trên kỹ
thuật công nghệ hiện đại. Nhật Bản đã khẳng định vị trí của mình, tỏa ánh sang
hào quang và duy trì hình ảnh một siêu cường kinh tế khi bước vào thế kỷ XXI.
Bằng sự cố gắng nỗ lực của toàn nhân dân với chính sách và bước đi đúng
đắn, Nhật Bản đã tạo nên một giai đoạn phát triển nhanh chóng với những biến
đổi có tính chất liên tục và tăng nhanh về chất lượng.
Về tổng sản phẩm quốc gia (GNP) của Nhật Bản, năm 1950 mới chỉ đạt 20 tỉ
USD (bằng 1/3 Anh, 1/2 Pháp, 1/17 Mĩ ), năm 1968 đã vượt các nước Tây Âu
chỉ sau Mĩ với 183 tỉ USD (Mĩ 830 tỉ USD, Cộng hòa Liên Bang Đức 132 tỉ
USD, Anh 120 tỉ USD, Pháp 118 tỉ USD), năm 1973 Nhật đã đạt được 402 tỉ
USD, năm 1989 là 2.828 tỉ USD và năm 2000 lên tới 4.895 tỉ USD. Và đến năm
2003, nếu như tổng trọng lượng kinh tế thế giới là 25.000 tỉ USD thì Nhật Bản
chiếm 4.000 tỉ USD( tức 16%), sau Mỹ và Tây Âu( 36% mỗi khu vực).
Như vậy, trong vòng 50 năm( 1950-2000), GNP của Nhật Bản tăng hơn 244
lần. Tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc gia (GNP) bình quân hàng năm, từ 1952-
1958 tăng 6,9%, năm 1959 tăng lên 10% nhưng vẫn chưa gây được sự chú ý
thật sự của thế giới,từ 1960-1969 tăng 10,8% ( so với Cộng hòa Liên Bang Đức
là 4,6%, Mỹ là 4,3%).
Đến những năm 1970-1973 tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình tuy giảm
xuống chỉ còn 7,8% nhưng vẫn cao hơn rất nhiều so với các nước khác. Thế
giới kinh ngạc, gọi đó là “sự thần kì” về kinh tế của Nhật Bản.Năm 1968, nền
kinh tế của Nhật Bản đã lần lượt vượt qua các nước Anh, Pháp, Cộng hòa liên
bang Đức, Italia, Canađa để vươn lên hàng thứ hai trong thế giới tư bản sau Mĩ.
Nhân tố hàng đầu trong tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản thời kỳ này là sự
phát triển nhanh chóng các ngành công nghiệp chế tạo chỉ số sản xuất công
nghiệp( 1934-1936= 100) tăng từ 160 năm 1955 lên 1345 năm 1970. Sự giảm
bớt sức lao động trong nông nghiệp và lâm nghiệp cung rất đáng chú ý. Nó
giảm từ 16 triệu năm 1955 xuống 8,4 triệu năm 1970 và phần của nó trong tổng
lực lượng lao động giảm 38,3% xuống 17,4% trong cùng thời kỳ.
Trong các ngành công nghiệp khu vực II, sự phát triển của các ngành công
nghiệp nặng và hóa chất( máy móc, kim khí, hóa chất) là nổi bật nhất. Sự phát
triển của công nghiệp cơ khí là đáng chú ý vì chỉ số của nó tăng 14,6 năm 1955
lên 291,6 năm 1970, tăng hơn 20 lần trong 15 năm. Tuy vậy chỉ số của ngành
công nghiệp dệt chỉ tăng tương đối nhỏ: từ 42,2 năm 1955 lên 154,0 năm 1970.
Về cơ cấu, cùng với sự tăng trưởng kinh tế cao độ, từ những năm 1955 cơ
cấu công nghiệp Nhật Bản tiến mạnh theo hướng công nghiệp hóa công nghiệp
nặng và hóa chất với sự tăng nhanh về tỉ trọng: 48% năm 1951 lên 70% năm
1970. Cùng với đó là sự giảm mạnh của công nghiệp nhẹ từ khoảng 52% năm
1951 xuống 30% năm 1970. Chính sự công nghiệp hóa này là động lực cho sự
tăng trưởng kinh tế Nhật Bản.
Ngay chính trong các ngành công nghiệp nặng và hóa chất cũng có những sự
biến đổi đáng kể. Tỉ trọng của nhóm ngành thuộc hệ vật liệu trong tổng giá trị
của ngành công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 26-27%(1951-1970). Mặt khác, tỉ
trọng của nhóm ngành công nghiệp cơ khí tăng đáng kể từ 11% năm 1951 lên
24% năm 1960 và 32% năm 1970.
Vì vậy có thể khẳng định sự phát triển của công nghiệp nặng đạt được dựa
trên cơ sở nòng cốt là phân ngành công nghiệp cơ khí. Bước vào thập kỉ 70, sự
tăng trưởng cao độ đã bộc lộ những mâu thuẫn gay gắt đồng thời công nghiệp
nặng và hóa chất bắt đầu xây dựng nền tảng cho việc chuyển hướng sang cơ cấu
công nghiệp theo mô hình tiết kiệm tài nguyên và năng lượng.
Về quy mô, đi đôi với thay đổi công nghiệp, quy mô của các công ty cũng
có sự thay đổi. Từ 1955-1970 tỉ trọng các công ty vừa và nhỏ dưới 300 công
nhân có xu hướng giảm đáng kể cả trong tổng số nhân viên lẫn kim ngạch bán
ra. Tuy nhiên, các công ty loại này vẫn chiếm tỉ trọng rất cao trong tổng số các