Sau cuộc khủng hoảng suy thoái năm 2009, tăng trưởng kinh tế thế giới năm 
2010 đang dần phục hồi ở mức  2,7%, kích thích tài khoá giảm dần, mất cân bằng 
thanh toán toàn cầu trở lại. Dự báo các nền kinh tế đang phát triển và phát triển sẽ 
đạt mức tương  ứng là 5,2% và 2,3%.Quá trình phục hồi tăng trưởng hiện đang 
bước vào giai đoạn chuyển tiếp mới mang tính chất bản lề quan trọng : từ chủ yếu 
dựa vào kích thích kinh tế của các chính phủ sang dựa vào tiêu dùng và đầu tư tư 
nhân. Tuy nhiên, mặc dù khu vực tài chính ngân hàng có sự phục hồi, khả năng 
thanh khoản trên các thị trường tiền tê hầu như đã trở lại mức bình thường, song tín 
dụng vẫn khó khăn do nhu cầu vay vốn vẫn yếu khiến dòng vốn toàn cầu dồn về 
các thị trưởng trái phiếu chính phủ Mỹ, Nhật, Đức… nơi có mức độ an toàn cao, 
làm hình thành các " bong bóng nợ công", hoặc đổ vào các thị trường tài sản tại 
các nước mới nổi dẫn đầu quá trình phục hồi tăng trưởng như Trung Quốc, làm 
bủng nổ các " bong bóng tài sản " tại đây.
Kinh tế thế giới hiện nay đang phải đối mặt với 3 rủi ro chính là : (1)rủi ro 
khủng hoảng nợ công; (2)rủi ro trở lại vòng luẩn quẩn " thất  nghiệp cao-  tiêu dùng 
thấp-  đầu tư ít-  thất nghiệp cao"; (3)rủi ro giảm sút sự phối hợp chính sách phục 
hồi kinh tế các quốc gia. Rủi ro lạm phát đã giảm hẳn và một số nước như Nhật 
Bản còn rơi vào tình trạng giảm phát.
Trong quá trình phục hồi kinh tế thế giới, những bất đồng giữa các quốc gia 
về các vấn đề then chốt như : tỉ giá, cải cách hệ thống tài chính ngân hàng, rút lui 
hay tiếp tục kích thích kinh tế… đã nảy sinh gây lo ngại rằng : dường như giai 
đoạn đồng thuận của G-20 đã qua. Từ cuối 2009, Mỹ và EU gia tăng trở lại sức ép 
đòi Trung Quốc tăng giá đồng NDT để cải thiện mất cân bằng cán cân thương mại 
trong khi đó nước này vẫn tìm cách trì hoãn  điều chỉnh tỉ giá đồng tiền của mình. 
Sự bất đồng ý kiến của Anh, Mỹ với Nhật Bản, Canada trong việc tăng  thuế đánh 
vào các ngân hàng lớn. Anh, Mỹ ủng hộ việc tăng thuế nhưng không đồng tình 
việc đánh thuế các giao dịch tài chính của EU còn Nhật và Canada lại chống lại 
mọi giải pháp tăng thuế, trong khi đó Pháp, Đức lại không có quan điểm rõ ràng về 
việc tăng  vốn cho các ngân hàng đồng thời xiết chặt các đòi hỏi về thanh khoản 
theo quan điểm của Mỹ. Tại Hội nghị thượng đỉnh các nước G-20, trong khi Mỹ 
thúc giục các nước tập trung vào cầu nội địa và nâng các chuẩn mực ngân hàng 
trên toàn cầu thì các nước Châu Âu lại muốn G-20 cam kết đánh thuế mới đối với 
khu vực Ngân hàng. Trung Quốc thì lại nhấn mạnh việc tăng vai trò của nước này 
tại các định chế toàn cầu. Không chỉ trên thế giới, sự bất đồng trong nội bộ các 
nước thuộc Liên minh Châu Âu cũng nảy sinh, đặc biệt là mâu thuẫn giữa Pháp và 
Đức vẫn tiếp tục kéo dài trong việc thực hiện giải pháp cứu trợ khủng hoảng nợ ở 
Châu Âu.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1974 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kinh tế thế giới sau khủng hoảng, tình hình nợ công và tái cấu trúc nền kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KINH TẾ THẾ GIỚI SAU KHỦNG HOẢNG, 
TÌNH HÌNH NỢ CÔNG VÀ TÁI CẤU TRÚC NỀN KINH TẾ 
CVC. Hoàng Thị Tư 
Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế Văn phòng Trung ương Đảng 
Sau cuộc khủng hoảng suy thoái năm 2009, tăng trưởng kinh tế thế giới năm 
2010 đang dần phục hồi ở mức 2,7%, kích thích tài khoá giảm dần, mất cân bằng 
thanh toán toàn cầu trở lại. Dự báo các nền kinh tế đang phát triển và phát triển sẽ 
đạt mức tương ứng là 5,2% và 2,3%.Quá trình phục hồi tăng trưởng hiện đang 
bước vào giai đoạn chuyển tiếp mới mang tính chất bản lề quan trọng : từ chủ yếu 
dựa vào kích thích kinh tế của các chính phủ sang dựa vào tiêu dùng và đầu tư tư 
nhân. Tuy nhiên, mặc dù khu vực tài chính ngân hàng có sự phục hồi, khả năng 
thanh khoản trên các thị trường tiền tê hầu như đã trở lại mức bình thường, song tín 
dụng vẫn khó khăn do nhu cầu vay vốn vẫn yếu khiến dòng vốn toàn cầu dồn về 
các thị trưởng trái phiếu chính phủ Mỹ, Nhật, Đức… nơi có mức độ an toàn cao, 
làm hình thành các " bong bóng nợ công", hoặc đổ vào các thị trường tài sản tại 
các nước mới nổi dẫn đầu quá trình phục hồi tăng trưởng như Trung Quốc, làm 
bủng nổ các " bong bóng tài sản " tại đây. 
Kinh tế thế giới hiện nay đang phải đối mặt với 3 rủi ro chính là : (1)rủi ro 
khủng hoảng nợ công; (2)rủi ro trở lại vòng luẩn quẩn " thất nghiệp cao- tiêu dùng 
thấp- đầu tư ít- thất nghiệp cao"; (3)rủi ro giảm sút sự phối hợp chính sách phục 
hồi kinh tế các quốc gia. Rủi ro lạm phát đã giảm hẳn và một số nước như Nhật 
Bản còn rơi vào tình trạng giảm phát. 
Trong quá trình phục hồi kinh tế thế giới, những bất đồng giữa các quốc gia 
về các vấn đề then chốt như : tỉ giá, cải cách hệ thống tài chính ngân hàng, rút lui 
hay tiếp tục kích thích kinh tế… đã nảy sinh gây lo ngại rằng : dường như giai 
đoạn đồng thuận của G-20 đã qua. Từ cuối 2009, Mỹ và EU gia tăng trở lại sức ép 
đòi Trung Quốc tăng giá đồng NDT để cải thiện mất cân bằng cán cân thương mại 
trong khi đó nước này vẫn tìm cách trì hoãn điều chỉnh tỉ giá đồng tiền của mình. 
Sự bất đồng ý kiến của Anh, Mỹ với Nhật Bản, Canada trong việc tăng thuế đánh 
vào các ngân hàng lớn. Anh, Mỹ ủng hộ việc tăng thuế nhưng không đồng tình 
việc đánh thuế các giao dịch tài chính của EU còn Nhật và Canada lại chống lại 
mọi giải pháp tăng thuế, trong khi đó Pháp, Đức lại không có quan điểm rõ ràng về 
việc tăng vốn cho các ngân hàng đồng thời xiết chặt các đòi hỏi về thanh khoản 
theo quan điểm của Mỹ. Tại Hội nghị thượng đỉnh các nước G-20, trong khi Mỹ 
thúc giục các nước tập trung vào cầu nội địa và nâng các chuẩn mực ngân hàng 
trên toàn cầu thì các nước Châu Âu lại muốn G-20 cam kết đánh thuế mới đối với 
khu vực Ngân hàng. Trung Quốc thì lại nhấn mạnh việc tăng vai trò của nước này 
tại các định chế toàn cầu. Không chỉ trên thế giới, sự bất đồng trong nội bộ các 
nước thuộc Liên minh Châu Âu cũng nảy sinh, đặc biệt là mâu thuẫn giữa Pháp và 
Đức vẫn tiếp tục kéo dài trong việc thực hiện giải pháp cứu trợ khủng hoảng nợ ở 
Châu Âu. 
Trong quá trình phục hồi kinh tế thế giới, các quốc gia phải đối mặt với 
khủng hoảng nợ công và các nền kinh tế chủ chốt tiếp tục kích thích kinh tế để vượt 
qua cuộc khủng hoảng này. Nợ công trở nên nghiêm trọng từ cuối 2009 khi các gói 
kích thích kinh tế với tổng số vốn hơn 2,2 ngàn tỉ đôla tương đương 4,7% GDP 
toàn cầu được triển khai cấp tập khiến thâm hụt ngân sách của chính phủ tăng vọt. 
Tỷ lệ nợ công trên GDP trung bình của các nước phát triển đã tăng từ 44% năm 
2007 lên 71% hiện nay, còn các nước mới nổi tăng từ 32% lên 39%. 
Tại các nước Châu Âu, tình trạng nợ công đã có sự phân hoá mạnh trong 
năm 2009 : các nước Pháp, Đức và khu vực Bắc Âu kích thích tài khoá tương đối 
thận trọng kết hợp với kiểm soát bội chi ngân sách, trong khi nhiều nước Nam Âu 
và Đông Âu phải vay nợ ồ ạt (Hy Lạp nợ nước ngoài 79%, Tây Ban Nha và Bồ 
Đào Nha trên 70% GDP). Trước tình hình thâm hụt ngân sách ngày càng lớn, việc 
phối hợp giữa các gói bảo lãnh tài chính của EU, IMF và ECB với các biện pháp 
"thắt lưng buộc bụng" được tiến hành từng bước đồng bộ, tăng trưởng kinh tế Châu 
Âu được WB dự báo có thể đạt 0,7% trong năm nay và sẽ cải thiện tốt hơn vào 
năm tới ở mức 1,3%. Các nước đầu tầu như Đức, Anh, Pháp hiện đang phục hồi 
khá mạnh sau khủng hoảng và đều có mức dự báo tăng trưởng năm 2010 khoảng 
1,2%-1,3%, trong khi đó vẫn có một số nước mức tăng trưởng còn thấp (Hy Lạp : 
-3%, Tây Ban Nha : 0,4%, Bồ Đào Nha : 0,5%). Sản xuất công nghiệp tăng tương 
đối mạnh (9,5% trong tháng 5), tỉ lệ thất nghiệp cao (hơn 10,1%) làm tăng làn sóng 
biểu tình của người lao động tại nhiều nước. 
Không chỉ tại Châu Âu, tỉ lệ nợ công tại Châu Á như Nhật Bản cũng tăng 
vọt 20 điểm phần trăm, lên gần 220% GDP.Gần 95% khối nợ công khổng lồ này là 
do các tổ chức Chính Phủ và cá nhân trong nước nắm giữ. Đế khắc phục tình trạng 
này, tân thủ tướng Nhật Bản đã cam kết tiến hành cải cách về cơ cấu chi tiêu ngân 
sách, hệ thống thuế, … nhằm giảm dần tỉ lệ nợ công. Tuy nhiên, nền kinh tế Nhật 
Bản vẫn chưa đủ lực để đảm bảo một sự phục hồi bền vững, sản xuất công nghiệp 
tăng chưa cao, các doanh nghiệp chưa tăng tuyển dụng lao động, tỉ lệ thất nghiệp 
có xu hướng tăng (4,9% tháng 1 lên 5,2% tháng 5), đồng yên có chiều hướng tăng 
giá làm tăng áp lực giảm phát. Không chỉ Nhật Bản, Trung Quốc cũng đang đối 
mặt với tình trạng tăng trưởng giảm sút. Việc Trung Quốc hạn chế tăng cung tiền 
và tín dụng, đồng thời đưa ra các chính sách ngăn chặn nạn đầu cơ địa ốc đã làm 
giảm doanh số bán nhà và hoạt động xây dựng mới hạ nhiệt nhưng giá bất động 
sản vẫn tăng. Lạm phát tháng 5 đạt 3,1%, CPI vượt 4% trong 6 tháng cuối năm. 
Cung tiền và tín dụng bắt đầu chậm lại, giá cả có xu hướng đi lên, sản xuất công 
nghiệp và đầu tư tăng chưa cao, chỉ số quản lý sức mua và chỉ số lòng tin của 
doanh nghiệp giảm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng (đạt hơn 1.100 tỉ USD) 
nhưng thặng dư thương mại giảm (chỉ đạt 35,39 tỉ USD). Trước tình hình này, 
ngân hàng nhân dân Trung Quốc tuyên bố sẽ cải cách cơ chế hình thành tỉ giá hối 
đoái của đồng NDT và từng bước tăng tính linh hoạt của tỉ giá đồng tiền này, đẩy 
mạnh quá trình tái cấu trúc kinh tế nước này trong trung hạn, đồng thời ngăn chặn 
lạm phát trong ngắn hạn. 
Ngay tại một nước có nền kinh tế phát triển cao nhất thế giới như Mỹ cũng 
đang chịu tình trạng nợ công lên tới 8,4 ngàn tỉ USD, tương đương 59% GDP và 
dự kiến sẽ tăng thêm hàng năm gần 1 ngàn tỉ USD từ nay cho đến 2019. Trong 
ngắn hạn, khủng hoảng nợ công tại một số nước Châu Âu khiến dòng vốn đổ về thị 
trường trái phiếu Mỹ tăng mạnh, nâng tỉ trọng nợ nước ngoài của Mỹ lên 45% 
GDP (năm 2008 :27,6%), đồng thời lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ hạ xuống mức 
thấp gần như kỷ lục : 3,1%, tăng trưởng giảm (quý I/2010 : 2,7%, quý IV/2009 : 
5,6%), dự báo 2010 tăng trưởng đạt 3%. Đầu tư tư nhân chưa có xu hướng cải 
thiện rõ rệt, cầu tín dụng từ phía các doanh nghiệp và người tiêu dùng vẫn yếu. Thị 
trường lao động phục hồi khá chậm do tỉ lệ thất nghiệp giảm chậm, tiêu dùng vẫn 
khá yếu nên mức bán lẻ bị sụt giảm, mức lạm phát giảm dần, tăng trưởng xuất 
nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ có mức tăng khá (quý I/2010 : 16,7% và 14,8%), 
tuy nhiên lại giảm trong quý II dưới tác động của khủng hoảng nợ Châu Âu và tình 
trạng đồng euro giảm giá so với USD. Đế kích thích các doanh nghiệp vay vốn, 
Mỹ đã thông qua dự luật cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và 
thành lập quỹ 30 tỉ USD nhằm cấp vốn cho các ngân hàng thực hiện các khoản tín 
dụng trên. 
Khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu hiện nay vừa mang tính cơ cấu vừa 
mang tính thể chế đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với tái cơ cấu nền kinh tế ở các 
nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cao hơn và hướng tới sự phát triển bền 
vững hơn sau khủng hoảng. 
Khác với các đợt tái cơ cấu kinh tế sau khủng hoảng trước đây, đợt tái cơ 
cấu kinh tế trên thế giới trong và sau khủng hoảng kinh tế- tài chính toàn cầu hiện 
nay đang diễn ra một số xu hướng sau đây : 
- Xanh hoá nền kinh tế theo hướng giảm dần các ngành, công nghệ tiêu hao 
nhiều năng lượng, tài nguyên là một hướng ưu tiên trong kế hoạch tái cơ cấu 
kinh tế ở nhiều nước, bởi khủng hoảng kinh tế -tài chính toàn cầu cùng với 
thách thức an ninh năng lượng, biến đổi khí hậu làm bộc lộ rõ tính thiếu bền 
vững của mô hình và phương thức " tăng trưởng trước, làm sạch sau", bởi 
càng tăng trưởng nhanh càng tiêu hao nhiều tài nguyên, năng lượng và tổn 
hại môi trường. Các nước chú trọng sử dụng các chính sách đòn bẩy, đặc 
biệt là thuế và mua bán hạn ngạch khí thải, để khuyến khích chuyển dịch cơ 
cấu sản xuất và tiêu dùng sang các ngành, lĩnh vực và sản phẩm xanh. 
- Khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đã làm bộc lộ rõ khiếm khuyết của 
mô hình kinh tế tài chính tự do Âu Mỹ, buộc nhiều nước phải có những điều 
chỉnh khắc phục các khiếm khuyết theo hướng tiết kiệm nhiều hơn, cân bằng 
hơn phát triển tài chính và nền kinh tế thực, tự do hoá và vai trò điều tiết của 
nhà nước, tái cơ cấu kinh tế đi đôi với cải cách thể chế, tăng cường vai trò 
điều tiết của Nhà nước nhằm khắc phục khiếm khuyết của thị trường, nâng 
cao năng lực theo dõi và ứng phó với khủng hoảng, chú trọng giải quyết các 
vấn đề an sinh xã hội. 
- Nhiều nước, đặc biệt là các nền kinh tế hướng xuất khẩu, đang tái cơ cấu 
kinh tế theo hướng phát triển hài hoà cả thị trường trong nước và xuất khẩu. 
- Với việc những yếu kém về quản lý, giám sát tài chính là nguyên nhân trực 
tiếp dẫn đến khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu, vấn đề cải cách hệ 
thống tài chính ngân hàng là một trọng tâm trong tái cơ cấu kinh tế của nhiều 
nước, nhất là Mỹ và Châu Âu. Các đề xuất về cả cách tài chính ngân hàng 
gần đây chủ yếu tập trung quy định chặt chẽ toàn bộ hệ thống tài chính, hạn 
chế tỉ lệ đòn bẩy, tăng cường giám sát các định chế tài chính phi ngân hàng 
có chức năng hoạt động ngân hàng. 
Để thực hiện các xu hướng trên, một số nước đã đưa ra các phương thức tái 
cấu trúc nền kinh tế : 
1.Mỹ : 
 Qua thực tế xử lý khủng hoảng, cơ cấu kinh tế Mỹ chưa có nhiều chuyển 
biến.Tiêu dùng cá nhân đóng góp tới 1,96% vào tăng trưởng 2,8% trong quý 
III/2009 và chiếm 71% GDP.Nợ quốc gia lên tới 12 nghìn tỉ USD. Thâm hụt ngân 
sách năm tài chính 2009 đã lên mức kỷ lục 1,4 nghìn tỉ USD, tương đương 10% 
GDP. Bên cạnh đó, xu thế bảo hộ tiếp tục tăng mạnh áp lực đấu tranh và yêu sách 
của các công đoàn Mỹ đã tiếp tục làm méo mó các chỉ số và môi trường kinh 
doanh, giảm động lực thúc đẩy cải cách cơ cấu kinh tế, đồng thời dẫn đến mâu 
thuẫn thương mại với các đối tác của Mỹ. Vừa qua, chính quyền tổng thống 
Obama đã thông qua đạo luật cho phép các nhà sản xuất Mỹ khởi kiện các đối tác 
thương mại đã " có hành vi thương mại không công bằng, gian dối", đây là một 
bước lùi nghiêm trọng trong chính sách tự do thương mại của Mỹ. 
Một điểm sáng trong các chính sách của Mỹ là đã dành khoảng 150 tỉ USD 
trong gói kích thích kinh tế 782 tỉ USD để đầu tư cho các lĩnh vực kinh tế xanh, 
nhất là năng lượng mới và tái tạo (năng lượng gió, mặt trời, hạt nhân…) và đặt 
mục tiêu đến năm 2025, các nguồn năng lượng tái tạo sẽ chiếm khoảng 25% lượng 
phát điện.Từ 2012-2025, Mỹ sẽ dành 19% tiền mua được từ mua bán hạn ngạch 
khí thải cho các dự án hỗ trợ chuyển đổi sang sử dụng năng lượng sạch. Bên cạnh 
đó, Mỹ đang thúc đẩy các chương trình cải cách sâu rộng lĩnh vực giáo dục, y tế. 
Tuy nhiên, do mâu thuẫn giữa các nhóm lợi ích, việc thực hiện các chương trình 
cải cách cơ cấu kinh tế và xã hội của Mỹ đang gặp nhiều khó khăn.Về cải cách tài 
chính ngân hàng, Hạ viện Mỹ đang xem xét dự luật về cải cách tài chính, trong đó 
mọi tổ chức tài chính, kể cả các định chế tài chính lớn đều chịu sự quản lý và giảm 
sát của Cục Dự trữ liên bang, chính phủ có quyền tiếp quản các định chế tài chính 
có nguy cơ phá sản đe doạ ổn định hệ thống tài chính….Đặc biệt, gần đây Chủ tịch 
Ủy ban Ngân hàng Thượng viện Mỹ đã đề xuất việc cơ cấu lại quy định quản lý tài 
chính Mỹ, trong đó tách chức năng giám sát ngân hàng của FED trao cho một cơ 
quan độc lập để FED tập trung vào chức năng ngân hàng trung ương. 
2.Châu Âu : 
2.1.EU : 
Lấy tăng trưởng xanh làm trung tâm trong tái cơ cấu kinh tế duy trì vị thế 
cạnh tranh của EU sau khủng hoảng. Đầu năm 2009, EU dành 6 tỉ Euro trong gói 
kích thích kinh tế chung để đầu tư cho các dự án năng lượng sạch. Một số nước EU 
cũng ưu tiên các gói kích thích kinh tế riêng của mình cho phát triển xanh thông 
qua phát triển nhà ở tiêu dùng hiệu quả năng lượng, tái cơ cấu ngành ô tô theo 
hướng phát triển các sản phẩm tiêu hao ít nhiên liệu…Bên cạnh đó, EU đang thảo 
luận các biện pháp cải cách cơ cấu thị trường hàng hoá, lao động, nghiên cứu và 
phát triển, giáo dục-đào tạo.EU luôn đi đầu trong cải cách tài chính ngân hàng trên 
nhiều diễn đàn quốc tế. Ủy ban Châu Âu đề xuất cải tổ cấu trúc các uỷ ban dịch vụ 
tài chính EU mà nền tảng là thành lập Hội đồng quản lý rủ ro hệ thống Châu Âu và 
một hệ thống các cơ quan giám sát tài chính Châu Âu. 
2.2.Nga : 
Trong thông điệp Liên bang năm 2009, tổng thống Nga khẳng định để hiện 
đại hoá kinh tế Nga đẩy mạnh cải cách cơ cấu thông qua ưu tiên phát triển 5 lĩnh 
vực kinh tế mũi nhọn và cải cách thể chế nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà 
nước và kinh tế quốc doanh. Cải cách thể chế tập trung vào đổi mới quản lý nhà 
nước phục vụ chuyển đổi kinh tế sang hướng phát triển công nghệ cao, nâng cao 
hiệu quả kinh tế nhà nước, duy trì tỉ trọng kinh tế nhà nước không dưới 40% GDP. 
3.Trung Quốc : 
Khủng hoảng tài chính toàn cầu làm bộc lộ những điểm yếu của mô hình 
phát triển kinh tế Trung Quốc tích tụ sau 30 năm cải cách mở cửa, thúc đẩy TQ 
định vị lại mô hình phát triển theo hướng hiệu quả và bền vững hơn. Trung Quốc 
coi khủng hoảng lần này là cơ hội để cơ cấu lại kinh tế, chuyển hướng phát triển từ 
dựa vào " xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng" sang dựa vào "tiêu dùng, xuất khẩu, đầu 
tư", từ tăng trưởng thô sang tăng trưởng tinh, tiết kiệm tài nguyên- năng lượng, chú 
trọng cả thị trường trong nước và xuất khẩu. Trong gói kích thích kinh tế 568 tỉ 
USD trong 2 năm 2009-2010, Trung Quốc coi trọng đầu tư đổi mới công nghệ, tái 
cơ cấu kinh tế, phát triển năng lượng tái tạo nhằm từng bước chuyển dần sang mô 
hình tăng trưởng sử dụng hiệu quả năng lượng. Trung Quốc đang cơ cấu lại 10 
ngành, nghề chủ chốt nhằm tạo việc làm, nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời 
bước đầu hiện đại hoá các ngành này để tiếp cận công nghệ mới. Bên cạnh đó, 
Trung Quốc đang đẩy mạnh điều chỉnh cơ cấu công nghiệp, chuyển các ngành sử 
dụng nhiều lao động và công nghệ trung bình-thấp sang các tỉnh miền tây và ra 
nước ngoài. Đồng thời, Trung Quốc đang chấn chỉnh các ngành khai khoáng, tranh 
thủ tăng cường nhập khẩu tài nguyên và năng lượng, hạn chế khai thác và sản xuất 
trong nước nhằm chủ động ứng phó với các cú sốc năng lượng trong tương lai. 
4. Hàn Quốc : 
 Ưu tiên rất cao cho tái cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển xanh. Tổng 
thống Li- Miung –Bắc đưa ra tầm nhìn mới "cacbon thấp, tăng trưởng xanh", coi 
đây là nền tảng cho phát triển của Hàn Quốc với mục tiêu chuyển sang mô hình 
phát triển dựa vào năng lượng tái tạo. Đầu năm 2009, Hàn Quốc thông qua kế 
hoạch phát triển xanh (Green New Deal) gồm 36 dự án trị giá 37,8 tỉ USD, tạo 1 
triệu việc làm trong 4 năm 2009-2012 nhằm đổi mới công nghệ, tăng cường năng 
lực cạnh tranh và nâng cao chất lượng sống ở Hàn Quốc. Các hạng mục chính của 
Kế hoạch này gồm : (i) Tái tạo cơ cấu kinh tế theo hướng sử dụng năng lượng hiệu 
quả, trong đó ưu tiên 9 ngành chủ lực là thép, đóng tàu, chế tạo máy, ô tô, hoá dầu, 
dệt may, bán dẫn, màn hình và đồ điện gia dụng; (ii) Đầu tư xây dựng 2 triệu "ngôi 
nhà xanh"; (iii) Phát triển "vận tải xanh" thải ít cacbon (đường sắt cao tốc, giao 
thông công cộng,…). 
Trước những diễn biến của tình hình kinh tế thế giới, có thể đưa ra những 
đánh giá nhận định về những giải pháp ứng phó và dự báo diễn biến, mức độ ảnh 
hưởng lan toả tiếp theo trong thời gian tới : 
1. Khủng hoảng kinh tế- tài chính toàn cầu đang đặt ra yêu cầu cấp thiết cho 
các nước về điều chỉnh mô hình phát triển, tái cơ cấu kinh tế, đặc biệt là tái cơ cấu 
công nghiệp, tài chính – ngân hàng, thị trường, doanh nghiệp, v.v… để có năng lực 
cạnh tranh cao hơn sau khủng hoảng. Trong nhiều năm qua, nước ta đã nỗ lực 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, song kết quả chưa được như mong muốn, cần phải có 
những điều chỉnh phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng tăng trưởng trong 
điều kiện hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới. 
 2. Tái cơ cấu kinh tế là vấn đề lớn, lâu dài, rất khó khăn và phức tạp. 
Hiện nay, ta đang xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, nhiều 
vấn đề lớn liên quan đến định hướng cơ cấu kinh tế đang trong quá trình làm rõ. 
Tái cơ cấu kinh tế cần gắn kết chặt và phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - 
xã hội 2011-2020 và cần có lộ trình tái cơ cấu phù hợp cho từng giai đoạn, trên cơ 
sở đó xác định cụ thể hơn các nhóm iaỉ pháp, nhất là các giải pháp có tính đột phá. 
Qua kinh nghiệm của các nước, theo chúng tôi, nước ta nên lưu ý một số vấn đề 
sau : 
- Tái cơ cấu kinh tế ở một số nước Đông Á đều hướng tới phát triển các 
ngành kinh tế mũi nhọn chiến lược có hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cao 
thông qua phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đối với Việt Nam, ta nên chủ 
động chuyển dần sang chiến lược phát triển các ngành dựa vào lợi thế lao động 
chất lượng cao. 
- Ta đang trong quá trình hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới, kể cả 
hướng tới Cộng đồng kinh tế ASEAN. Do đó, cần nghiên cứu để xây dựng cơ cấu 
kinh tế nước ta sao cho tận dụng được tốt nhất lợi thế cũng như hạn chế bất lợi của 
ta trong kinh tế khu vực và quốc tế. 
- Kết hợp hài hoà thị trường trong nước và xuất khẩu. Nhiều chuyên gia, học 
giả quốc tế cho rằng kinh tế Việt Nam vẫn cần định hướng xuất khẩu, bởi đây là 
giai đoạn phát triển tuần tự mà nhiều nước phải trải qua trước khi đạt đến trình độ 
một nền kinh tế có cơ cấu đa dạng dựa vào thị trường nội địa. Tuy nhiên, cũng cần 
chú trọng phát triển thị trường trong nước, coi đây là một động lực "nội sinh" giúp 
nền kinh tế có thể khán chịu tốt hơn trước những biến động của kinh tế thế giới. 
Cần ưu tiên hơn phát triển hạ tầng thương mại, các ngành phục vụ sản xuất và tiêu 
dùng trong nước, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, tăng cường quản lý chất lượng 
hàng hoá – dịch vụ. 
- Tái cơ cấu kinh tế cần lấy tái cơ cấu doanh nghiệp làm trung tâm, phát triển 
các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao. Muốn vậy, cần tiếp tục tập trung 
tháo gỡ các vướng mắc về thể chế, cơ sở hạ tầng, nhân lực nhằm tạo môi trường 
thuận lợi và có chính sách đòn bẩy thúc đẩy các doanh nghiệp tự tái cơ cấu doanh 
nghiệp, theo đuổi phát triển các sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao, đổi mới 
công nghệ, quy trình sản xuất, chuẩn bị tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. 
- Tạo một môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi với các chỉ số kinh tế sát nhất 
với giá trị thị trường để định hướng đúng cho các nỗ lực tái cơ cấu kinh tế, trong 
đó có vấn đề tỉ giá và chính sách tiền tệ (Tại một buổi toạ đàm không chính thức 
vừa qua có sự tham gia của đại diện IMF, WB ở Việt Nam, một giáo sư kinh tế 
Mỹ, đại diện một số ngân hàng lớn của Anh đang hoạt động tại Việt Nam, các ý 
kiến đánh giá cao quyết định vừa rồi của Ngân hàng Nhà nước nâng lãi suất cơ bản 
của Đồng Việt Nam, cho rằng đây là một ước đúng hướng để hỗ trợ đồng tiền Việt 
Nam sau một thời gian lúng túng của các nhà hoạch định chính sách tiển tệ Việt 
Nam đứng giữa ngã ba đường giữa hai lựa chọn tiếp tục để Đồng Việt Nam mất 
giá, và can thiệp tích cực để giữ tỉ giá Đồng Việt Nam với đôla Mỹ ở một mức tối 
ưu. Đây là một bài toán khó trong bối cảnh còn phải xử lý sự biến động của thị 
trường vàng nội địa. Các chuyên gia kinh tế nói trên cũng đánh giá cao chính sách 
của Chính phủ Việt Nam lấy ổn