Lạm phát là một hiện tượng kinh tế xã hội gắn với nền kinh tế thị
trường.Nó là một trong những hiện tượng quan trọng nhất của thế kỷ XXI
và đụng chạm tới mọi hệ thống kinh tế dù phát triển hay không.
Lạm phát được coi là một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế
hàng hoá-tiền tệ.Nó có tính thường trực,nếu không thường xuyên kiểm
soát,không có những giải pháp chống lạm phát thường trực,đồng bộ và hữu
hiểu thì lạm phát có thể xảy ra ở bất cứ nền kinh tế hàng hoá nào với bất kì
chế độ xã hội nào.
Trong thế kỷ XIX được đánh dấu là không có nạn lạm phát bởi giá cả
tương đối ổn định(dù có những cơn sốt ngắn ) thì sau cuộc chiến tranh thế
5
giới thứ nhất là thời kỳ gia tăng quá trình lạm phát với quy mô lớn.Từ sau
năm 1945,không còn có hiện tượng giá cả giảm nữa.Các cuộc khủng hoảng
dầu mỏ những năm 70 đã kéo theo sự gia tăng trở lại lạm phát rất rõ,sau đó
nhờ những cố gắng của các chính sách ổn định mà một quá trình giảm lạm
phát đã bắt đầu trong những năm 80.
Lạm phát gây ra nhiều tác hạicho nền kinh tế như tình trạng khủng
hoảng,công nhân đình công đòi tăng lương,giá nguyên liệu tăng đột
biến,thảm hoạ tự nhiên,chi phí sản xuất tăng…
Nước ta đang trong giai đoạn chuyển từ nền kinh tế hàng hoá sang
kinh tế thị trường,vì vậy nghiên cứu lạm phát đang là một vấn đề cấp thiết
hiện nay để đánh giá sức khoẻ của nền kinh tế nước nhà.
Sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu về vấn đề “Lạm phát ở Việt
Nam,thực trạng và các giải pháp
42 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2723 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát ở Việt Nam,thực trạng và các giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn: "Lạm phát ở Việt Nam,thực trạng
và các giải pháp"
2
MỤC LỤC
-Phần mở đầu : tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ......................1
-Nội dung
A-Những vấn đề lí luận về lạm phát ..........................................................2
I-Bản chất của lạm phát ..............................................................................2
II-Hình thức biểu hiện của lạm phát và các cấp độ của nó .........................2
1-Hình thức biểu hiện lạm phát...................................................................2
2-Các cấp độ của lạm phát .........................................................................3
III-Tác động của lạm phát đến nền kinh tế .................................................5
1-Tác động tích cực của lạm phát đến nền kinh tế .....................................5
2-Tác động tiêu cực của lạm phát đến nền kinh tế .....................................5
IV-Yêu cầu phải kiềm chế và khắc phục tình trạng lạm phát ......................6
B-Thực trạng tình hình lạm phát trong nền kinh tế nước ta.........................7
I-Lạm phát ở nước ta trước thời kỳ đổi mới(1986) .....................................7
II-Lạm phát ở nước ta từ đổi mới đến nay ..................................................7
1-Thời kì bắt đầu đổi mới 1986-1990 .........................................................7
2-Thời kỳ kinh tế đi vào ổn định 1991-1995...............................................8
3-Thời kỳ kinh tế có dấu hiệu trì trệ 1996-2000..........................................9
4-Thời kỳ kinh tế có bước phát triển mới 2001-2004................................10
3
III-Những vấn đề đặt ra cần giải quyết .....................................................10
C-Các quan điểm và giải pháp nhằm kiềm chế và khắc phục tình trạng lạm
phát trong nền kinh tế ..............................................................................11
I-Quan điểm của Đảng và Nhà nước về kiềm chế lạm phát .....................11
II-Các giải pháp nhằm kiềm chế và khắc phục tình trạng lạm phát trong
nền kinh tế ...............................................................................................12
1-Các giải pháp vĩ mô...............................................................................12
2-Các giải pháp vi mô ..............................................................................15
-Kết luận..................................................................................................16
Tài liệu tham khảo ..................................................................................17
4
N PHẦN MỞ ĐẦU
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế xã hội gắn với nền kinh tế thị
trường.Nó là một trong những hiện tượng quan trọng nhất của thế kỷ XXI
và đụng chạm tới mọi hệ thống kinh tế dù phát triển hay không.
Lạm phát được coi là một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế
hàng hoá-tiền tệ.Nó có tính thường trực,nếu không thường xuyên kiểm
soát,không có những giải pháp chống lạm phát thường trực,đồng bộ và hữu
hiểu thì lạm phát có thể xảy ra ở bất cứ nền kinh tế hàng hoá nào với bất kì
chế độ xã hội nào.
Trong thế kỷ XIX được đánh dấu là không có nạn lạm phát bởi giá cả
tương đối ổn định(dù có những cơn sốt ngắn ) thì sau cuộc chiến tranh thế
5
giới thứ nhất là thời kỳ gia tăng quá trình lạm phát với quy mô lớn.Từ sau
năm 1945,không còn có hiện tượng giá cả giảm nữa.Các cuộc khủng hoảng
dầu mỏ những năm 70 đã kéo theo sự gia tăng trở lại lạm phát rất rõ,sau đó
nhờ những cố gắng của các chính sách ổn định mà một quá trình giảm lạm
phát đã bắt đầu trong những năm 80.
Lạm phát gây ra nhiều tác hại cho nền kinh tế như tình trạng khủng
hoảng,công nhân đình công đòi tăng lương,giá nguyên liệu tăng đột
biến,thảm hoạ tự nhiên,chi phí sản xuất tăng…
Nước ta đang trong giai đoạn chuyển từ nền kinh tế hàng hoá sang
kinh tế thị trường,vì vậy nghiên cứu lạm phát đang là một vấn đề cấp thiết
hiện nay để đánh giá sức khoẻ của nền kinh tế nước nhà.
Sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu về vấn đề “Lạm phát ở Việt
Nam,thực trạng và các giải pháp “.
6
PHẦN NỘI DUNG
A-Những vấn đề lí luận về lạm phát
I-Bản chất của lạm phát
Lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá chung nền kinh tế.Như
vậy sự tăng giá của một vài mặt hàng cá biệt nào đó trong ngắn hạn ngoài
thị trường thì cũng không có nghĩa đã có lạm phát.Các nhà kinh tế thường
đo lạm phát bằng hai chỉ tiêu cơ bản là CPI và chỉ số khử lạm phát
GDP.Cách tính thứ nhất sẽ dựa trên một rổ hàng hoá tiêu dùng và giá cả
của những hàng hoá trong rổ ở hai thời điểm khác nhau.Còn cách tính thứ
hai thì căn cứ vào toàn bộ khối lượng hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được
sản xuất trong một năm và giá cả ở hai thời điểm khác nhau thông thường
theo ngôn ngữ thống kê là giá cố định và giá hiện hành.Về cơ bản thì hai
cách tính này này không có sự khác biệt lớn.Phương pháp GDP sẽ tính lạm
phát chính xác hơn theo định nghĩa của lạm phát.Tuy nhiên CPI sẽ có ưu
điểm là tính được lạm phát tại bất kỳ thời điểm nào căn cứ vảo rổ hàng
hoá,còn GDP thì chỉ tính được lạm phát của một năm sau khi có báo cáo về
GDP của năm đó.
Như vậy,những thông tin về thước đo lạm phát đến dân chúng
hàng ngày chủ yếu được tính từ phương pháp CPI.Nhưng CPI lại không
thể đo lạm phát một cách chính xác bởi nó bị tác động bởi hai yếu tố gây
7
sai lệch.Những yếu tố gây sai lệch này chủ yếu đến từ rổ hàng hoá được
quy định trước.Sai lệch cơ cấu vì rổ hàng hoá chậm thay đổi,nó không bao
gồm những hàng hoá tiêu dùng mới phát sinh nhưng được đa số người tiêu
dùng sử dụng.Ví dụ ở thành phố Hồ Chí Minh khi mọi người đều có
mobilephone,giá của mặt hàng này đang giảm theo thời gian nhưng nó lại
không nằm trong rổ hàng hoá .Sai lệch thứ hai là sai lệch thay thế,khi giá
cả một loại hàng hoá nào đó trong rổ gia tăng dân chúng sẽ chuyển sang
tiêu dùng mặt hàng hoá thay thế với giá rẻ hơn.Ví dụ khi thịt gà trở nên
mắc hơn do dịch cúm thì người tiêu dùng sẽ chuyển sang ăn cá biển với
mục đích là cung cấp chất đạm cho cơ thể .Từ hai sai lệch trên chúng ta
nhận thấy rằng,nếu tính lạm phát từ CPI thì có thể dẫn đến một dự báo lạm
phát quá mức vì những mặt hàng trong rổ đang tăng giá còn những mặt
hàng ngoài rổ thì lại đang giảm giá.
II-Hình thức biểu hiện của lạm phát và các cấp độ của nó
1-Hình thức biểu hiện của lạm phát
Có ba loại lạm phát chủ yếu trong nền kinh tế : loại lạm phát tiền
tệ,lạm phát cầu kéo,lạm phát chi phí đẩy.
Loại lạm phát thứ nhất là lạm phát tiền tệ.Loại này xảy ra khi tốc độ
tăng trưởng cung tiền vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sự của nền kinh
tế.Đơn giản hơn là tiền trong lưu thông tăng nhanh hơn số lượng hàng hoá
8
và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế.Ví dụ như tốc độ tăng trưởng
cung tiền là 10% nhưng tốc độ tăng trưởng thực của nền kinh tế là 7% thì
lạm phát tiền tệ là 3%.Loại lạm phát này thường xảy ra tại các nước đang
phát triển khi các nước này theo đuổi chính sách tiền tệ mở rộng,áp chế tài
chính là tình trạng ngân hàng trung ương tài trợ cho thâm hụt ngân sách
chính phủ bằng cách in tiền,quá nhiều tiền trong lưu thông vượt quá tốc độ
tăng trưởng thực sẽ dẫn đến lạm phát.Chính sách tiền tệ mở rộng sẽ kính
thích tổng cầu hàng hoá dịch vụ trong nền kinh tế,khi tốc độ tăng trưởng
tổng cầu cao hơn tốc độ tăng trưởng tổng cung thì cũng dẫn đến lạm phát.
Lạm phát thứ hai là lạm phát cầu kéo.Nó xuất phát từ sự thay đổi
hành vi tổng cầu mang tính đột biến trong nền kinh tế.Các nguyên nhân có
thể là do chính phủ chi tiêu quá mức khi thực hiện chính sách thu chi ngân
sách mở rộng,hoặc tăng chi tiêu tiêu dùng quá mức bình thường do khu
vực hộ gia đình quá lạc quan,hoặc do khu vực hộ gia đình có nguồn thu
nhập từ trên trời rơi xuống như viện trợ nước ngoài,thu nhập do giá cả xuất
khẩu tăng đột biến.
Loại lạm phát thứ ba là lạm phát chi phí đẩy.Lạm phát chi phí đẩy là
loại lạm phát do thu hẹp tổng cung hoặc do các doanh nghiệp buộc lòng
phải nâng cao giá bán sản phẩm vì những lí do bất lợi.khác với hai loại lạm
phát trên,thì loại lạm phát này chủ yếu đến từ phía phía cung và nguyên
9
nhân chủ yếu xuất phát từ hiện tượng tăng chi phí sản xuất không mong
đợi từ phía các doanh nghiệp.Tăng chi phí không mong đợi từ phía doanh
nghiệp tạo ra những cú sốc tổng cung bất lợi.Công nhân đình công đòi tăng
lương ở diện rộng,giá nguyên liệu gia tăng đột biến,thảm hoạ tự nhiên làm
đình trệ hoạt động sản xuất của nhiều doanh nghiệp là những ngòi nổ của
lạm phát này.
Khi giá dầu thô tăng từ 30USD lên 50USD/thùng sẽ dẫn đến chi phí
sản xuất của hầu hết các doanh nghiệp khác đều tăng theo.Ví dụ như giá
phân bón,thuốc trừ sâu,giá vận chuyển,giá sắt thép sẽ tăng lên do giá
nguyên liệu tăng và chi phí sẳn xuất lúa của nông dân sẽ tăng lên là điều
hiển nhiên.Phản ứng dây chuyền này sẽ làm cho doanh nghiệp đứng trước
hai lựa chọn,hoặc đóng cửa nếu giữ giá bán như cũ,hoặc tăng giá nếu muốn
giữ nguyên sản lượng như cũ.Việc đóng cửa các doanh nghiệp sẽ làm thiếu
hàng hoá so với cầu và kéo theo tăng giá chung trong nền kinh tế.Việc tăng
giá ở nhiều doanh nghiệp sẽ dẫn đến lạm phát vì tăng giá diện rộng sẽ làm
tăng mức giá chung trong nền kinh tế.Hệ quả là nền kinh tế sẽ rơi vào một
tình trạng tồi tệ mà các nhà kinh tế học gọi là “đình đốn – lạm phát”.
2.Các cấp độ của lạm phát.
Trong lịch sử tiền tệ trên thế giới ,người ta chia lam phát thành bốn
cấp độ khác nhau để có những giải pháp chống lạm phát thích ứng:các cấp
10
độ của lạm phát gồm:lạm phát yếu –là mức độ lạm phát thấp từ 0% đến vài
%-cấp độ lạm phát này chủ yếu là phản ánh tính khách quan tuyệt đối của
hiện tượng lưu thông hàng hoá-tiền tệ trong điều kiện chế độ tiền giấy.Lạm
phát này có thể lặp đi lặp lại trong một chuỗi thời gian dài và nếu chỉ có
nó,người ta có thể chủ động tính vào thành các chỉ tiêu cân bằng trung hoà
của nền kinh tế-người ta chấp nhận và sẵn sàng chung sống hoà bình với
loại lạm phát được ví như căn bệnh kinh niên này của lưu thông hàng hoá
và lưu thông tiện tệ.
*,Mức độ cao hơn từ trên vài % đến mức lớn hơn không nhiều so với
tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm được gọi là lạm phát vừa phải hay lạm
phát kiểm soát được.Đối với loại này thì tuỳ theo chiến lược và chiến thuật
phát triển kinh tế mỗi thời kì mà các chính phủ có thể chủ động định hướng
mức khống chế trên cơ sở duy trì một tỉ lệ lạm phát là bao nhiêu để gắn với
một số mục tiêu kinh tế khác:Kích thích tăng trưởng kinh tế,tăng cường
xuất khẩu và giảm tỉ lệ thất nghiệp trong các năm tài khoá nhất định.Tuy
nhiên chỉ có thể chấp nhận có lạm phát vừa phải trong điều kiện nền kinh
tế còn chưa đạt tới giá trị sản lượng tiềm năng so với điều kiện hiện tại-khi
mà nhân tố của sản xuất vẫn còn nằm trong tình trạng ngủ yên hoặc chưa
có phương án khả thi để phát huy các tiềm năng đó.Khối tiền tệ chung châu
Âu EC và một số nước Bắc Âu như Thuỵ Điển,NaUy,Đan Mạch…đã điều
11
hành chính sách thị trường bằng cơ chế ngân hàng trung ương đảm bảo lạm
phát mục tiêu-Nghĩa là ngân hàng trung ương sử dụng công cụ chính sách
thị trường để duy trì và đảm bảo một mức lạm phát mục tieu dao đông
xung quanh một chỉ số CPI được xác định là 2 hoặc 3%/năm và nhỏ hơn
tốc độ tăng trưởng GDP trong năm.Cơ chế này đã và đang phát huy nhiều
tác dụng tích cực ít nhất trong vòng năm năm qua.
*,Lạm phát phi mã là cấp độ cao thứ 3 có tỉ lệ lạm phát bình
quân/năm từ mức trung bình của hai con số đến đỉnh cao của ba con số.
Đây là tỉ lệ lạm phát vượt xa ngoài khả năng kiểm soát của ngân hàng
trung ương.Giải pháp để chống lại hiện tượng lạm phát này đòi hỏi phải là
sự tổng lực của toàn nền kinh tế quốc dân trong các nỗ lực thắt chặt tiền
tệ,đẩy mạnh sản xuất,tăng cường đầu tư,thu hút mạnh các nguồn vốn,kích
thích đầu tư trong nước,cải cách lại cơ cấu kinh tế,nâng cao trình độ công
nghệ,tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho lưu thông hàng hoá và đẩy
mạnh sản xuất hàng thay thế nhập khẩu để tăng cung cho nội bộ nền kinh
tế đang tràn ngập quá mức tổng phương diện thanh toán …ở nước tâ từ
1985 đến 1988 đã phải chứng kiến và chống đỡ với cấp độ lạm phát này.
*,Cấp độ siêu lạm phát là hiện tượng khủng hoảng kinh tế đã lên đến
trên ba con số-thậm chí người ta không thể đo lạm phát bằng số % mà bằng
số lần tăng giá trong năm.Thế giới đã từng kinh hoàng về nạn siêu lạm phát
12
ở Đức trong các năm 1921 đến 1923 sau đại chiến thế giới thứ nhất .Đây là
mức siêu lạm phát lớn nhất trong lịch sử tiền tệ thế giới tính cho đén nay-
chỉ số giá trong vòng 22 tháng từ tháng1 năm 1921 đến tháng 11 năm 1923
tăng tới 10 triệu lần.Kho tiền của Đức trong 2 năm đó tăng 7 tỷ lần tổng giá
trị danh nghĩa.Tính tước đoạt của cuộc siêu lạm phát này được lượng hoá
bằng con số kinh khủng:Nếu ai có một tấm ngân phiếu 300 triệu DM Thì
chỉ 2 năm nói trên,giá trị thực của tấm ngân phiếu này hầu như chỉ còn lại
là con số không.Cuộc siêu lạm phát lớn thứ 3 xảy ra ở Mỹ thời kì nội chiến
1860-Riêng trong năm 1860 giá cả hàng hoá tăng lên 20 lần=2000%.Người
ta đã miêu tả bằng hình ảnh về cuộc lạm phát này rằng tiền mang đi chợ
phải đựng bằng sọt,còn hàng hoá mua được thì bỏ vào túi-Mọi hàng hoá
trên thị trường trở nên cực kỳ khan hiếm trừ tiền.Tiền hầu như đã trút bỏ
mọi chức năng vốn có của nó kể cả chức năng trực tiếp nhất là làm phương
tiện lưu thông hàng hoá.Cuộc siêu lạm phát gần đây nhất và là cuộc lạm
phát lớn thứ hai trong lịch sử kinh tế hàng hóa-tiền tệ thế giới.Tuy
nhiên,siêu lạm phát là một hiện tượng kinh tế cực kì hiếm,nó thường xuất
hiện gắn liền với các cuộc chiến tranh thế giới hoặc nội chiến khốc liệt.Tất
nhiên hiếm không có nghĩa là không xảy ra.
III-Tác động của lạm phát đến nền kinh tế.
1-Tác động tích cực của lạm phát đến nền kinh tế.
13
Một chút lạm phát là tốt cho nền kinh tế.Trước hết hãy xem xét về
những chi phí kinh tế của lạm phát.Khi lạm phát ở mức cao,dân chúng
nhận thấy rằng việc phân biệt giữa những thay đổi trong mức giá bình quân
và những thay đổi trong mức giá tuyệt đối là rất khó.Nếu lạm phát tăng sẽ
làm kìm hãm tăng trưởng kinh tế,nếu lạm phát giảm sẽ giúp thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.Nếu chính sách tiền tệ tập trung vào việc giữ lạm phát ở
mức thấp và ổn định,nó sẽ giúp ổn định mức tăng trưởng kinh tế và công
ăn việc làm.
Với tỉ lệ lạm phát nhỏ hơn hoặc bằng 2%,hầu hết các nước giàu đã
đạt ít nhiều”sự ổn định giá cả”.Theo qui luật kinh tế trước đây,nếu tỷ lệ
thất nghiệp giảm xuống dưới NAIRU(được cho vào khoảng 5,5%)thì tỷ lệ
lạm phát sẽ bắt đầu tăng.Điều này,đến lượt nó có hàm ý rằng tỷ lệ tăng
trưởng tối đa mà nền kinh tế Mỹ có thể duy trì một cách an toàn (phù hợp
với mức tăng trưởng của lực lượng lao động và của năng suất lao động)là
khoảng 2,25%-2,5%.Hiện nay,tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ là 4,2% mức thấp
nhất trong 30 năm qua và GDP đã tăng với một tốc độ trung bình là gần
4%/năm trong 3 năm qua.Theo các sách giáo khoa thì lạm phát sẽ tăng lên
trong trường hợp của Mỹ.Nhưng thực tế,tỷ lệ lạm phát của Mỹ vẫn thấp .
Một số nhà kinh tế cho rằng lạm phát vừa phải là 3-4% là tốt cho
tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm. Họ cho rằng ,mức lương danh
14
nghĩa có xu hướng khó giảm xuống.Công nhân có thể được chuẩn bị để
chịu đựng được mức tiền công thấp khi tỷ lệ lạm phát là 3%,một tỷ lệ
tương đương với một sự suy giảm của thu nhập thực tế,nhưng họ lại không
muốn chấp nhận một sự cắt giảm tiền lương,họ mang về nhà sẽ ít hơn.Do
vậy nếu tỷ lệ lạm phát là zero thì không thể điều chỉnh giảm mức lương
thực tế trong những nghành công nghiệp hay khu vực đang suy thoái,mà sự
suy thoái này đồng nghĩa với việc gia tăng trong tỷ lệ thất nghiệp. Những
nhà kinh tế trên cho rằng lạm phát làm “bôi trơn “ những bánh xe của thị
trường lao động,cho phép tiền lương thực tế có thể được điều chỉnh dễ
dàng hơn.
Vì thế để có tốc độ tăng trưởng cao hay không thì phải duy trì một tỷ
lệ lạm phát nhất định nào đó.
2-Tác động tiêu cực của lạm phát đến nền kinh tế.
Lạm phát cao sẽ kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế.khi lạm phát xảy ra
nó sẽ làm lệch lạc cơ cấu giá cả,kéo theo là nguồn tài nguyên,vốn và
nguồn nhân lực không được phân bố một cách có hiệu quả,kết cục là làm
cho tăng trưởng chậm lại.
Tính không chắc chắn của lạm phát là kẻ thù của tăng trưởng và đầu
tư dài hạn.Nếu các nhà đầu tư không biết chắc chắn hoặc không thể dự
đoán được mức giá cả trong tương lai,kéo theo là không thể biết được lãi
15
xuất thực thì không ai trong số họ dám liều lĩnh đầu tư,nhất là đầu tư vào
các dự án dài hạn,mặc dù có thể các điều kiện đầu tư khác là khá ưu đãi và
hấp dẫn.Tính không chắc chắn của mức độ lạm phát sẽ đẩy lãi suất thực
lên cao bởi chủ nợ muốn có sự bảo đảm cho mức rủi ro lớn .Mức lãi suất
thực cao này sẽ kìm hãm đầu tư và làm chậm tốc độ tăng trưởng. Điều này
có thể minh hoạ về tình hình lạm phát cao ở Indonesia và Thái Lan trong
giai đoạn 1999-2000 khi lạm phát cao thì tăng trưởng thấp.
Lạm phát cao khuyến khích người dân quan tâm tới lợi ích trước mắt.
Khi có lạm phát xẩy ra ở một nước thay cho việc ký thác tiền trong ngân
hàng để hưởng lãi suất hay đầu tư vào khu vực sản xuất kinh doanh hòng
tìm kiếm lợi nhuận, dân chúng có thể đổ xô mua hàng để dự trữ vì kỳ
vọng giá hàng hoá còn tăng nữa. Điều này vô hình dung làm tăng cầu hàng
hoá một cách giả tạo và do vậy càng làm cho lạm phát có nguy cơ bùng nổ
đến mức độ cao hơn.
Lạm phát cao ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hoạt động kinh tế xã
hội của quốc gia. Chính phủ các nước đã từng trải qua lạm phát cao
(Inđônêxia 1967, Anh 1979…) đều cho rằng không kiểm soát được lạm
phát là điều đáng sợ nhất.Toàn bộ hoạt động kinh tế bị méo mó,biến dạng
nghiêm trọng gây tâm lý xã hội phức tạp và làm lãng phí ghê gớm trong
sản xuất.Đặc biệt khi lạm phát cao xẩy ra, sức mua đối nội của đồng tiền
16
vào hệ thống ngân hàng và cao hơn nữa là vào chính phủ sẽ bị xói mòn.
Điều này gây tác hại vô cùng lớn lao đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế
đất nước. Vả lại, từ khi rơi vào tình trạng lạm phát cao đến khi ra khỏi tình
trạng đó nhìn chung đều cần một thời gian dài với sự hao tổn lớn về mặt
vật chất và uy tín.
Lạm phát cao làm giảm các nguồn thu từ thuế cho ngân sách nhà
nước. Những tác động làm giảm này xét trên cả hai phương diện trực tiếp
và gián tiếp. Một mặt, lạm phát cao dẫn đến sản xuất bị đình đốn làm cho
nguồn thuế bị giảm sút cả về mặt qui mô và chất lượng. Mặt khác, lạm phát
cao đồng nghĩa với việc sự mất giá của đồng tiền, do đó với cùng một số
lượng tiền thu được từ thuế thì giá trị nguồn thu thực tế của nó bị giảm
xuống khi có lạm phát cao.Ví dụ,ở Mexico lạm phát làm giảm nguồn thu
thực tế năm 1981 là 2,6% GDP và giai đoạn 1983-1987 là 1,6% GDP.
IV.-Yêu cầu phải kiềm chế và khắc phục tình trạng lạm phát.
Thực tế hơn 20 năm điều hành nền kinh tế và với những kinh nghiệm
thực tiễn sinh động chống lạm phát đã có thể kết luận rằng lạm phát là một
căn bệnh tiềm ẩn của mọi nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Một khi lạm
phát cao xuất hiện thì tổn thất về kinh tế cũng như xã hội là rất lớn.
Do vậy, bất cứ nền kinh tế nào khi có lạm phát xuất hiện thì phải có
ngay các giải pháp để chống. Sự thành công trong chống lạm phát là nhờ
17
sự điều hành thông minh và sáng tạo của chính phủ mỗi nước. Lạm phát
thường xuất hiện khi mất cân đối nghiêm trọng giữa tổng cung và tổng cầu
hàng hoá, mất cân đối giữa cung tiền tệ và cầu tiền tệ. Tuy nhiên mỗi giai
đoạn khi lạm phát xuất hiện với hình thức và dáng vẻ khác nhau thì lại có
nhiều câu hỏi và tranh luận được đặt ra : chống lạm phát bằng giải pháp
nào? Có thể chống lạm phát bằng một vài giải pháp riêng lẻ không? Còn
nếu chống lạm phát bằng một tập hợp các giải pháp gì? Lạm phát ở mức
nào thì có thể chấp nhận được?Trả lời được những câu hỏi đó thì chúng ta
sẽ kiềm chế và khắc phục được tình trạ