Ánh sáng là một người bạn gẫn gũi của con người trong mọi hoạt động hằng ngày, đôi
khi sựtồn tại của chúng đối với con người nhưlà một điều hiển nhiên và tựnhiên. Nói như
vậy không có nghĩa con người luôn chấp nhận sự đồng hành của người bạn ánh sáng đi bên
cạnh mình mà không đặt vấn đềtìm hiểu “cội nguồn” của chúng. Vậy ánh sáng từ đâu sinh
ra? Bản chất của ánh sáng là nhưthếnào? Vô vàn câu hỏi, và những thắc mắc mà con người
đã đặt ra cho ánh sáng. Nhưng dường nhưngười bạn ánh sáng của chúng ta lại rất thích chơi
trò “đánh đố”, vì vậy, tuy con người từthời cổ đại xa xưa đã “hỏi” ánh sáng nhưvậy, nhưng
phải nói rằng cho đến thếkỉ20, con người mới thật sựcó được cái nhìn đúng đắn hơn đối với
ánh sáng, song vẫn chưa hoàn thiện. Quá trình con người đi tìm câu trảlời của ánh sáng là rất
dài và trải qua nhiều giai đoạn, có những giai đoạn tưởng chừng như đã tìm ra, nhưng rồi “gợi
ý” mới của ánh sáng lại xuất hiện và con người lại kiếm tìm.
Do đó với đềtài nhỏnày, nhóm chúng tôi muốn tìm hiểu vềmột phần của quá trình
lớn con người đi tìm câu trảlời, đó chính là con đường hình thành và những cuộc “đấu
tranh” vềbản chất của ánh sáng.Trong phần 1 nhóm chúng tôi tìm hiểu những quan điểm
vềbản chất của ánh sáng trong thời cổvà trung đại. Chúng ta có thểnhận ra tầm quan trọng
trong việc nhận thức bản chất của ánh sáng khi những quan điểm vềbản chất của ánh sáng
xuất hiện rất sớm ngay từlúc nền văn minh loài người bắt đầu xuất hiện. Mặc dù có những
hạn chếvềnhiều mặt nhưng trong thời kỳnày quá trình nhận thức vềbản chất ánh sáng của
loài người cũng đã có những nét đáng lưu ý. Trong phần thứ2 chúng tôi tìm hiểu vềquá trình
hình thành và phát triển vềquan điểm sóng và hạt của ánh sáng. Ban đầu ánh sáng chỉlà sóng
chứa đựng trong nó những tưtưởng đơn sơcho đến khi Maxwell chứng tỏnó là sóng điện từ.
Hay quan điểm anh sáng là hạt của Newton với những lý giải của ông cũng khá logic. Không
chỉvậy cuộc đấu tranh gay gắt không khoan nhượng về2 quan điểm sóng hạt của ánh sáng
cũng được chúng tôi xét đến. Tiếp đến chúng tôi tìm hiểu vềsựhình thành nền tảng kiến thức
được xem là đúng trong thời điểm hiện tại: “ánh sáng – lưỡng tính sóng hạt” với những quan
điểm hết sức tiến bộvà mang tính cách mạng của Einstein. Những khám phá này đã giúp cho
nhân loại hiểu được bản chất thực sựcủa ánh sáng giúp nhân loại tiến một bước xa trên con
đường chinh phục ánh sáng. Cuối cùng trên cơsởtìm hiểu phân tích đánh giá chúng tôi đềra
những kết luận sưphạm đểphục vụcho công việc giảng dạy ởtrường THPT của chúng tôi.
Đây là nội dung chính mà trong bài tìm hiểu này chúng tôi sẽtrình bày cụthể.
20 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2739 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lược sử hình thành các quan điểm về bản chất ánh sáng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Đại học Sư Pham thành phố Hồ Chí Minh
Khoa Vật Lí
Đề tài tiểu luận môn Lịch Sử Vật Lí
Giáo viên hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thếp
Nhóm tiểu luận:
1. Nguyễn Công Danh 7. Cao Hoàng Qui
2. Vũ Thanh Huy 8. Phan Đăng Thanh
3. Hoàng Văn Hưng 9. Nguyễn Bá Trình
4. Nguyễn Thị Ngọc Lan (16/10) 10. Bùi Thị Cẩm Tú
5. Lê Hải Mỹ Ngân 11. Đoàn Thị Vân
6. Nguyễn Thảo Ngân
Tiểu luận học phần Lịch Sử Vật Lý GVHD: Th.s Nguyễn Thị Thếp
Trang 1
MỤC LỤC
MỤC LỤC...........................................................................................................................1
LỜI NÓI ĐẦU.....................................................................................................................2
NỘI DUNG .........................................................................................................................3
I. Ánh sáng trong con mắt của người cổ và trung đại.....................................................3
II. Sự hình thành và cuộc đấu tranh về quan niệm bản chất sóng hạt của ánh sáng ........5
1. Huygens: cha đẻ lý thuyết sóng ánh sáng................................................................5
2. Newton: ánh sáng là hạt ..........................................................................................6
3. Sự hồi sinh của lý thuyết sóng ánh sáng .................................................................8
III. Ánh sáng: cuộc hôn phối giữa điện và từ ..................................................................11
IV. Ánh sáng: lưỡng tính sóng hạt...................................................................................12
V. Kết luận sư phạm.......................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................17
Tiểu luận học phần Lịch Sử Vật Lý GVHD: Th.s Nguyễn Thị Thếp
Trang 2
LỜI NÓI ĐẦU
Ánh sáng là một người bạn gẫn gũi của con người trong mọi hoạt động hằng ngày, đôi
khi sự tồn tại của chúng đối với con người như là một điều hiển nhiên và tự nhiên. Nói như
vậy không có nghĩa con người luôn chấp nhận sự đồng hành của người bạn ánh sáng đi bên
cạnh mình mà không đặt vấn đề tìm hiểu “cội nguồn” của chúng. Vậy ánh sáng từ đâu sinh
ra? Bản chất của ánh sáng là như thế nào? Vô vàn câu hỏi, và những thắc mắc mà con người
đã đặt ra cho ánh sáng. Nhưng dường như người bạn ánh sáng của chúng ta lại rất thích chơi
trò “đánh đố”, vì vậy, tuy con người từ thời cổ đại xa xưa đã “hỏi” ánh sáng như vậy, nhưng
phải nói rằng cho đến thế kỉ 20, con người mới thật sự có được cái nhìn đúng đắn hơn đối với
ánh sáng, song vẫn chưa hoàn thiện. Quá trình con người đi tìm câu trả lời của ánh sáng là rất
dài và trải qua nhiều giai đoạn, có những giai đoạn tưởng chừng như đã tìm ra, nhưng rồi “gợi
ý” mới của ánh sáng lại xuất hiện và con người lại kiếm tìm.
Do đó với đề tài nhỏ này, nhóm chúng tôi muốn tìm hiểu về một phần của quá trình
lớn con người đi tìm câu trả lời, đó chính là con đường hình thành và những cuộc “đấu
tranh” về bản chất của ánh sáng. Trong phần 1 nhóm chúng tôi tìm hiểu những quan điểm
về bản chất của ánh sáng trong thời cổ và trung đại. Chúng ta có thể nhận ra tầm quan trọng
trong việc nhận thức bản chất của ánh sáng khi những quan điểm về bản chất của ánh sáng
xuất hiện rất sớm ngay từ lúc nền văn minh loài người bắt đầu xuất hiện. Mặc dù có những
hạn chế về nhiều mặt nhưng trong thời kỳ này quá trình nhận thức về bản chất ánh sáng của
loài người cũng đã có những nét đáng lưu ý. Trong phần thứ 2 chúng tôi tìm hiểu về quá trình
hình thành và phát triển về quan điểm sóng và hạt của ánh sáng. Ban đầu ánh sáng chỉ là sóng
chứa đựng trong nó những tư tưởng đơn sơ cho đến khi Maxwell chứng tỏ nó là sóng điện từ.
Hay quan điểm anh sáng là hạt của Newton với những lý giải của ông cũng khá logic. Không
chỉ vậy cuộc đấu tranh gay gắt không khoan nhượng về 2 quan điểm sóng hạt của ánh sáng
cũng được chúng tôi xét đến. Tiếp đến chúng tôi tìm hiểu về sự hình thành nền tảng kiến thức
được xem là đúng trong thời điểm hiện tại: “ánh sáng – lưỡng tính sóng hạt” với những quan
điểm hết sức tiến bộ và mang tính cách mạng của Einstein. Những khám phá này đã giúp cho
nhân loại hiểu được bản chất thực sự của ánh sáng giúp nhân loại tiến một bước xa trên con
đường chinh phục ánh sáng. Cuối cùng trên cơ sở tìm hiểu phân tích đánh giá chúng tôi đề ra
những kết luận sư phạm để phục vụ cho công việc giảng dạy ở trường THPT của chúng tôi.
Đây là nội dung chính mà trong bài tìm hiểu này chúng tôi sẽ trình bày cụ thể.
Nhóm thực hiện
Tiểu luận học phần Lịch Sử Vật Lý GVHD: Th.s Nguyễn Thị Thếp
Trang 3
NỘI DUNG CHÍNH
I. Ánh sáng trong con mắt của người cổ và trung đại:
Empédocle (khoảng 490 - 435 TCN) là tác giả của lý thuyết về thị giác xa xưa nhất .
Liên quan đến ánh sáng, Empédocle cho rằng mắt truyền các “tia thị giác” đến thế giới bên ngoài.
Sở dĩ có lý thuyết về các tia thị giác này một phần là do niềm tin dân gian cho rằng các con mắt có
chứa “lửa. Theo Empédocle, ánh sáng không đi theo một chiều từ mắt tới vật; ánh sáng còn đi theo
chiều ngược lại, từ vật đến mắt.
Leucippe (khoảng 460-370 TCN): trái ngược với “lửa” trong mắt của Empédocle thoát ra
thế giới bên ngoài, Leuccipe cho rằng thế giới thị giác đến với chúng ta, và do đó, về thực chất, thị
giác là một trải nghiệm thụ động. Dưới tác động của ánh sáng, các hình ảnh về các vật quanh ta –
mà Leucippe đặt cho một tên riêng bằng tiếng Hy Lạp là các eidonlon có nghĩa là các ảo ảnh – sẽ
tách khỏi bề mặt của vật, như da của một con rắn lột xác tách khỏi cơ thể, và đi đến mắt chúng ta.
Démocrite (460-370 TCN): các quan điểm của Démocrite về ánh sáng và thị giác đều dựa
trên học thuyết nguyên tử. Ông chấp nhận bốn màu cơ bản của Empédocle – đen, trắng, đỏ và vàng-
xanh, nhưng thêm vào đó các màu khác gọi là các màu thứ cấp, như lục và nâu. Khác với Empédocle,
Démocrite không gắn các màu cơ bản cho bốn nguyên tố, mà gắn cho các nguyên tử có hình dạng
khác nhau. Theo Démocrite, các màu (và các đặc tính giác quan khác như mùi và vị) không hiện hữu
trong bản thân các vật.
Platon (428-347 TCN): Ở Platon, ánh sáng thuộc vào hạng siêu hình. Mặt Trời là con của
cái Thiện, và mắt, nhạy cảm với ánh sáng, là một cơ quan gắn chặt nhất với Mặt Trời.
Như vậy thị giác là kết quả của sự tổng hợp của ba quá trình bổ sung cho nhau. Mắt phát ra
lửa, lửa kết hợp với ánh sáng xung quanh để tạo thành một chùm sáng duy nhất. Chùm sáng này được
phóng thẳng ra phía trước cho đến khi gặp bề mặt của một vật; ở đó, nó gặp tia các hạt do vật phát ra
dưới tác dụng của ánh sáng xung quanh và kết hợp với chùm sáng ban đầu. Tia các hạt này chứa
thông tin về tình trạng của vật, màu sắc và kết cấu của nó. Sau đó chùm sáng co lại để truyền đến mắt
những thông tin này.
Aristolte (384-322 TCN), học trò của Platon, là một triết gia thuộc trường phái tự nhiên,
ông có cái nhìn cụ thể hơn và kinh nghiệm hơn về hiện thực, đồng thời ông cũng là người bác bỏ thế
giới Ý niệm của Platon. Liên quan đến thị giác, Aristolte bác bỏ dứt khoát các “tia thị giác” của
Empédocle, bởi theo ông lý thuyết này không giải thích được tại sao chúng ta không nhìn thấy trong
bóng tối. Ông cũng bác bỏ quan niệm của Platon về các hạt thoát ra từ bề mặt các vật để đi vào mắt
người quan sát. Theo ông, sự tri giác các vật được thực hiện không phải thông qua dòng vật chất,
mà bởi ấn tượng của chúng lên các giác quan, cũng giống như sáp tiếp nhận dấu ấn của chiếc nhẫn
nhưng không tước mất của nó cái chất, sắt hay vàng, đã tạo nên chiếc nhẫn đó. Như vậy mắt tiếp
nhận các ấn tượng về màu sắc, hình dạng, chuyển động,… Aristolte cho rằng tồn tại hai màu cơ bản:
đen và trắng. Tất cả các màu khác bắt nguồn từ sự hòa trộn hai màu cơ bản này và biểu hiện các
Tiểu luận học phần Lịch Sử Vật Lý GVHD: Th.s Nguyễn Thị Thếp
Trang 4
“phẩm chất trung gian”,ở đây,ông giải thích sự hòa trộn 2 màu cơ bản tạo thành các màu khác có sự
đóng góp của “nhiệt”. Các màu khác cũng có thể bắt nguồn từ sự hòa trộn giữa đen và trắng trong
một môi trường bán trong suốt: đó là trường hợp các màu nâu đỏ hoặc da cam của cảnh hoàng hôn.
Euclide (khoảng 300 TCN): ông đã dùng toán học để áp dụng cho các hiện tượng tự nhiên,
Euclide đưa ra tiên đề về tập hợp các “tia thị giác” chứa trong một hình nón mà đỉnh của nó là tâm
của mắt và đáy là phạm vi nhìn thấy của mắt. Nhờ có tiên đề mặt nón thị giác này và nhờ các tính
toán hình học, ông đã giải thích được tại sao cây ở xa trông lại nhỏ hơn cây ở gần.
Claude Ptolémée (khoảng 100-178): Ptolémée cho rằng mắt đồng thời vừa là máy phát
vừa là máy thu: mắt phát ra các “tia thị giác” có cùng bản chất với ánh sáng và màu sắc. Ptolémée
cũng đưa ra tiên đề về “mặt nón thị giác”, nhưng khác với Euclide, ông cho rằng mặt nón này không
chứa một tập hợp các “tia thị giác” tách biệt, mà chứa một continuum các tia có mật độ lớn nhất ở
trung tâm, tại đó mắt nhìn thấy rõ nhất, nhưng giảm dần ở rìa mép nơi các chi tiết nhoè mờ hơn. Theo
ông, “mặt nón thị giác” bản thân nó không đủ; còn cần phải có thêm ánh sáng bên ngoài để được khởi
phát sự hoạt động của nó. Chẳng hạn, khi “mặt nón thị giác” quét lên bề mặt của một vật, nó chỉ
tương tác với vật ấy nếu có ánh sáng xung quanh. Ánh sáng bên ngoài này càng mạnh thì tương tác
càng mạnh. Điều này giải thích tại sao chúng ta không nhìn được trong bóng tối.
Ptolémée cũng suy nghĩ về hành trạng của ánh sáng khi nó phản xạ trên một bề mặt (định
luật phản xạ) hay đổi hướng khi đi từ môi trường này sang môi trường khác (định luật khúc xạ). Ông
cũng là người đầu tiên miêu tả các màu hòa trộn với nhau như thế nào trong mắt của con người. Ông
đã vẽ các màu khác nhau trên một bánh xe sau đó quay bánh xe thật nhanh. Mắt không có đủ thời
gian để phân biệt từng màu một, mà chỉ nhìn thấy các màu này bị trộn vào nhau. Ngoài ra, ông còn
nhận thấy sự hòa trộn các màu còn có thể là kết quả của khoảng cách: một bức tranh ghép các màu
sáng nhìn từ xa có thể cho ấn tượng về màu xám.
Claude Galien (130-200) cùng với Hippocrate là hai bác sỹ vĩ đại nhất thời Cổ đại. Ông là
một gương mặt lớn góp phần phát triển các ý tưởng về ánh sáng. Galien đã lấy lại một số quan niệm
của Aristolte: dưới ảnh hưởng kết hợp của linh khí thị giác và ánh sáng, không khí bao quanh ta chịu
một biến đổi làm cho mắt nhìn thấy được. Các màu sắc cũng làm cho không khí biến đổi. Theo
Galien, trung tâm của thị giác là thủy tinh thể.
Alhazen (965-1040): Alhazen đồng ý với quan điểm của Aristolte rằng ánh sáng đến từ bên
ngoài đi vào mắt, chứ không phải ngược lại. Theo ông, các tia sáng thật sự tồn tại. Chúng lan truyền
theo đường thẳng. Khi ánh sáng xung quanh chạm vào một vật liền bị vật này phản xạ, từ mỗi điểm
trên bề mặt của một vật có màu, các chùm tia sáng lan tỏa theo tất cả các hướng, và chỉ một tỉ lệ nhỏ
của chúng đi vào mắt chúng ta. Ở đây Alhazen đã đưa ra ý tưởng về sự tán xạ ánh sáng.
Rober Bacon (1214-1292), người Anh. Trong các sách chuyên luận về ánh sáng và màu sắc,
ông đã cố gắng tổng hợp các quan niệm của Aristote về ánh sáng và màu sắc (vốn là các “dạng thức”
phi vật chất) và các quan niệm của Alhazen (màu sắc được truyền bởi các tia phát ra từ tất cả các
điểm của vật). Theo Bacon, mọi vật phóng theo đường thẳng về tất cả các hướng một cái gì đó thuộc
tinh chất của nó mà ông gọi là “loài”. Chẳng hạn, Mặt trời phát ra các “loài” sáng.
Tiểu luận học phần Lịch Sử Vật Lý GVHD: Th.s Nguyễn Thị Thếp
Trang 5
Francesco Maria Grimaldi (1618-1663): Ông đã tìm ra phương thức truyền ánh sáng thứ 4
ngòai 3 phương thức trước đó đã tìm thấy là theo đường thẳng, bằng phản xạ trên một mặt phẳng như
gương chẳng hạn, và bằng khúc xạ khi thay đổi môi trường. Phương thức thứ 4 đó là nhiễu xạ ánh
sáng. Nghiên cứu này của ông được công bố vào năm 1665.
II. Sự hình thành và đấu tranh về quan niệm bản chất sóng, hạt của ánh sáng:
1. Huygens: cha đẻ lý thuyết sóng ánh sáng
Christiaan Huygens (1629-1695) trong một gia đình ưu tú ở Hà Lan,
được coi là nhà toán học và vật lý học lớn nhất thời kỳ giữa Galileo và Newton.
Theo Huygens, ánh sáng không thể bắt nguồn từ sự dịch chuyển các hạt
của vật sáng tới mắt. Nhà vật lý học người Hà Lan này cũng bác bỏ quan điểm
của Descartes cho rằng ánh sáng như một xung động lan truyền tức thời. Theo
ông, ánh sáng lan truyền trong không gian cũng giống như sóng được sinh ra
khi ta ném một viên đá xuống ao, nó sẽ truyền trên khắp mặt nước.
Ánh sáng theo quan điểm của Huygens:
Huygens dựa trên khái niệm ánh sáng là sóng: Sóng ánh sáng truyền trong không gian
qua trung gian ête, một chất bí ẩn không trọng lượng, tồn tại như một thực thể vô hình trong không
khí và không gian nhờ vậy mà sóng ánh sáng có thể truyền chuyển động không những cho cho tất cả
những hạt khác tiếp xúc với nó mà còn cho tất cả những hạt khác tiếp xúc với hạt đó và cản chuyển
động của nó.
Cơ chế truyền sóng: Theo Huygens, một nguồn sáng bao gồm vô
số các hạt rung động. Các hạt này truyền rung động của chúng tới các hạt ête
bên cạnh dưới dạng các sóng cầu có tâm tại mỗi một hạt rung này. Vô số các
sóng cầu này được truyền đi, và bán kính tác dụng của chúng tăng dần theo
thời gian. Chúng chồng chập lên nhau và biểu hiện hỗn độn của chúng ở gần
nguồn sáng giảm dần khi các sóng truyền ra xa nguồn sáng. Càng xa nguồn
sáng, sóng càng trở nên trơn và đều đặn hơn.
Tính chất của sóng ánh sáng: Ánh sáng truyền nhanh hơn rất
nhiều so với âm thanh, điều mà mọi người có thể nhận thấy khi trời có giông, ta nhìn thấy chớp sớm
hơn nhiều khi nghe thấy tiếng sấm. Huygens giải thích sự chênh lệch lớn về vận tốc này là do có độ
chênh lệch lớn về độ cứng giữa không khí và ête. Vận tốc lan truyền của một sóng tăng theo độ cứng
của môi trường trong suốt. Huygens thừa nhận rằng các hạt ête cứng và rắn đến mức chúng truyền
mọi nhiễu động hầu như tức thời. Chỉ cần một sự rung nhẹ ở đầu bên này của một hạt ête là ngay lập
tức nó sẽ được truyền sang đầu bên kia. Ngược lại, các hạt không khí mềm hơn và truyền các rung
động chậm hơn rất nhiều.
Tiểu luận học phần Lịch Sử Vật Lý GVHD: Th.s Nguyễn Thị Thếp
Trang 6
Từ đó, ông giải thích các hiện tượng như sau:
Hiện tượng phản xạ: Thuyết sóng xem nguồn sáng phát ra các sóng ánh sáng trải ra theo
mọi hướng. Khi chạm lên gương, các sóng bị phản xạ theo góc tới, nhưng với mỗi sóng phản hồi trở
lại tạo ra một ảnh đảo ngược.
Hiện tượng khúc xạ ánh sáng: Huygens cho rằng vận tốc ánh sáng
trong một chất bất kì tỉ lệ nghịch với chiết suất của nó. Như vậy, vận tốc của ánh
sáng trong không khí lớn hơn vận tốc ánh sáng trong nước.
2 1
21
1 2
n vn
n v
Khi một chùm ánh sáng truyền giữa hai môi trường có chiết suất khác
nhau thì chùm tia bị khúc xạ (đổi hướng). Một phần nhỏ của mỗi đầu sóng góc
phải chạm đến môi trường thứ hai trước khi phần còn lại của đầu sóng tiến đến
mặt phân giới. Phần này sẽ bắt đầu đi qua môi trường thứ hai sẽ chuyển động
chậm hơn do chiết suất của môi trường thứ hai cao hơn, trong khi phần còn lại
của sóng vẫn còn truyền trong môi trường thứ nhất. Do mặt sóng lúc này truyền
ở hai tốc độ khác nhau, nên nó sẽ uốn cong vào môi trường thứ hai, do đó làm
thay đổi hướng truyền.
Hiện tượng nhiễu xạ: thuyết sóng của Huyghens chưa giải thích được hiện tượng này.
Và để nói lên quan điểm của mình , năm 1960 ,Huyghen công bố “GIÁO TRÌNH QUANG
HỌC”, đâu là công trình đầu tiên về lý thuyết sóng ánh sáng.
2. Newton: ánh sáng là hạt
Newton quan niệm ánh sáng có tính chất hạt. Ánh sáng được coi
như những dòng hạt đặc biệt nhỏ bé được phát ra từ các vật phát sáng và
bay theo đường thẳng trong môi trường đồng chất.
Ông bác bỏ giả thuyết sóng ánh sáng vì nếu ánh sáng có bản chất
sóng, như âm thanh, thì trong những điều kiện như nhau, chúng ta sẽ phải
nhìn thấy ánh sáng giống như nghe thấy âm thanh.
Từ cơ sở đó, ông giải thích các hiện tượng như sau:
Nguyên nhân tạo ra màu sắc: do kích thước của các hạt. Các hạt
nhỏ nhất tạo ra cảm giác tím, các hạt lớn hơn gây ra cảm giác về màu chàm, và cứ tiếp tục như vậy
hạt màu đỏ sẽ là lớn nhất. Bởi vì tồn tại bảy màu cơ bản, nên các hạt phải có bảy loại kích thước khác
nhau. Như vậy sự tổng giác của chúng ta về các màu là biểu thị chủ quan của một hiện thực khách
quan được quy định bởi kích thước của các hạt.
Giải thích các định luật phản xạ, khúc xạ và nhiễu xạ, Newton đã đưa vào các lực hút và đẩy
giữa các hạt ánh sáng, những hạt mà nếu để tự do chúng sẽ truyền theo đường thẳng.
Tiểu luận học phần Lịch Sử Vật Lý GVHD: Th.s Nguyễn Thị Thếp
Trang 7
Hiện tượng phản xạ: do sự phản xạ của các quả cầu đàn hồi trong
chùm sáng khi va chạm và các hạt bị nảy lên từ những điểm khác nhau, nên trật
tự của chúng trong chùm sáng bị đảo ngược lại tạo ra một hình đảo ngược (hình
vẽ). Nếu bề mặt quá gồ ghề thì các hạt bị nảy lên ở nhiều góc khác nhau, kết
quả là làm tán xạ ánh sáng.
Hiện tượng khúc xạ: do tác dụng của mặt phân giới lên hạt ánh sáng
làm cho hạt đó thay đổi hướng truyền và bị gãy khúc ở mặt phân cách giữa hai
môi trường. Vì ánh sáng đi vào môi trường đậm đặc hơn sẽ bị các phân tử môi
trường đó hút và vận tốc sẽ tăng lên dẫn đến vận tốc ánh sáng trong môi trường
nước hay thủy tinh lại lớn hơn vận tốc ánh sáng trong môi trường khí.
2 2
21
1 1
n vn
n v
Tán sắc ánh sáng qua lăng kính: ông đưa ra giả thuyết cho rằng trên
bề mặt của một vật trong suốt (như lăng kính, chẳng hạn) tồn tại một vùng rất mỏng ở đó có một lực
tác dụng để kéo các tia sáng vào bên trong nó. Vì vậy, các hạt màu tím, do chúng nhỏ hơn, sẽ bị hút
bởi một môi trường đặc hơn không khí (như thủy tinh, chẳng hạn) mạnh hơn so với các hạt lớn hơn
có màu đỏ, tức các hạt màu tím bị lệch khỏi đường đi ban đầu của nó nhiều hơn các hạt màu đỏ. Như
vậy, Newton đã giải thích được tại sao các chùm đơn sắc khác nhau lại bị lệch hướng khác nhau bởi
cùng một môi trường, và tại sao một chùm đơn sắc bị lệch hướng khác nhau trong các môi trường
trong suốt khác nhau.
Hiện tượng nhiễu xạ: ông giải thích là do có một lực đẩy có tác dụng đẩy các hạt ánh sáng
vào trong bóng tối hình học của một vật.
Tuy thuyết hạt của Newton đã được sự chấp nhận rộng rãi, nhưng một thí nghiệm đặc biệt,
cũng do chính ông thực hiện đã khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Khi Newton đặt một thấu kính phẳng lồi lên trên một tấm thủy tinh (với mặt phẳng ngửa lên
trên) và chiếu sáng tất cả bằng ánh sáng đơn sắc, ông đã phát hiện ra một hiện tượng quang
học mới rất lạ. Nhiều vòng tròn đồng tâm (ngày nay được gọi là các “vân tròn Newton”) xuất
hiện, đan xen giữa vân đen và vân màu. Hoàn toàn tự nhiên, Newton giải thích các vân đen là
vùng ở đó ánh sáng bị thấu kính phản xạ, và các vân màu là các vùng ở đó ánh sáng được
truyền qua. Nhưng làm thế nào có thể giải thích được một hạt ánh sáng, khi đến bề mặt của
thấu kính, lúc thì phản xạ lúc thì được truyền qua?
Và do đó ông lại đặt ra một giả thuyết mới, ông cho rằng mỗi hạt ánh sáng có một tính chất
gọi là “accès”. Hạt có “accès” truyền qua thì dễ dàng truyền qua còn hạt có “accès” phản xạ thì dễ
phản xạ.
Rõ ràng, giả thuyết này của Newton đưa ra lại làm nảy sinh thêm vấn đề khi cần phỉa có
thêm một lí thuyết mới nữa để giải thích cái tính chất gọi là “accès” này. Như vậy thì lí thuyết hạt
của Newton có hoàn toàn hợp lí hay không?
Tiểu luận học phần Lịch Sử Vật Lý GVHD: Th.s Nguyễn Thị Thếp
Trang 8
3. Sự hồi sinh của lý thuyết sóng ánh sáng:
Sau khi quyển “Optiks” của Newton được xuất bản năm 1704, suốt thế kỷ XVIII đã diễn
ra cuộc tranh luận về bản chất của ánh sáng với hai quan điểm trái ngược nhau: quan điểm cho rằng
bản chất ánh sáng là sóng và quan điểm cho rằng bản chất ánh sáng là hạt. Suốt thế kỷ này, l