Đề tài Lý luận về mâu thuẫn biện chứng với việc phân tích hệ thống mâu thuẫn của kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam

Qua nghiên cứu lý luận về mâu thuẫn biện chứng trong triết học cho thấy: Muốn phát hiện bản chất của mọi sự vận động và phát triển thì cần phải phân tích được mâu thuẫn vốn có của sự vật tự đó, giải quyết mâu thuẫn chính là giải quyết vấn đề động lực của sự phát triển. Vận dụng vào nước ta hiện nay, trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nền kinh tế đã chuyển mình từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trong quá trình phát triển của cơ chế thị trường ở Việt Nam đã gặp những thuận lợi đáng kể song cũng không ít những khó khăn, trở ngại. Do đó việc phát hiện các cơ hội và thách thức, thuận lợi và nguy cơ là trung tâm điểm của việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thực hiện chiến lược phát triển đất nước. Trong đó việc phát hiện và giải quyết hàng loạt các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN cũng là một nội dung quan trọng trong việc xây dựng các chính sách kinh tế xã hội. đề tài nghiên cứu: "Lý luận về mâu thuẫn biện chứng với việc phân tích hệ thống mâu thuẫn của kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam".

pdf22 trang | Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2263 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận về mâu thuẫn biện chứng với việc phân tích hệ thống mâu thuẫn của kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Lý luận về mâu thuẫn biện chứng với việc phân tích hệ thống mâu thuẫn của kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam mở đầu Qua nghiên cứu lý luận về mâu thuẫn biện chứng trong triết học cho thấy: Muốn phát hiện bản chất của mọi sự vận động và phát triển thì cần phải phân tích được mâu thuẫn vốn có của sự vật tự đó, giải quyết mâu thuẫn chính là giải quyết vấn đề động lực của sự phát triển. Vận dụng vào nước ta hiện nay, trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nền kinh tế đã chuyển mình từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trong quá trình phát triển của cơ chế thị trường ở Việt Nam đã gặp những thuận lợi đáng kể song cũng không ít những khó khăn, trở ngại. Do đó việc phát hiện các cơ hội và thách thức, thuận lợi và nguy cơ là trung tâm điểm của việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thực hiện chiến lược phát triển đất nước. Trong đó việc phát hiện và giải quyết hàng loạt các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN cũng là một nội dung quan trọng trong việc xây dựng các chính sách kinh tế xã hội. đề tài nghiên cứu: "Lý luận về mâu thuẫn biện chứng với việc phân tích hệ thống mâu thuẫn của kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam". I. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập 1. Khái niệm về mâu thuẫn Trong lịch sử triết học đã có nhiều nhà triết học đề cập tới mâu thuẫn của các sự vật, của thế giới như: - Thuyết Âm dương - Ngũ hành của Trung Hoa đã đề cập tới các mâu thuẫn Âm Dương, mâu thuẫn giữa các yếu tố bản nguyên Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ. - Nhà triết học Hy Lạp cổ đại là Hêraclit cũng nhấn mạnh mâu thuẫn của các hiện tượng, quá trình khách quan. - Nhà triết học cổ điển Đức là Ikant cũng đề cập tới Antinômi (ông đã nêu ra 4 loại Antinômi). - Hêghen cũng đã đề cập tới mâu thuẫn của tư duy. Về cơ bản, các quan niệm trên đều đã mô tả mâu thuẫn khách quan nhưng chưa làm rõ được sự chuyển hóa biện chứng của các mặt đối lập, do vậy khái niệm mâu thuẫn còn nặng về hình thức mà chưa đi sâu vào nội dung biện chứng của các mặt đối lập. Đến triết học Mác - Lênin quan niệm về mâu thuẫn mới thể hiện rõ nội dung biện chứng. Quan niệm triết học Mác - Lênin về mâu thuẫn: Mâu thuẫn là sự thống nhất của các mặt đối lập. Trong đó cần lưu ý: Không phải mọi cái đối lập đều tạo nên mâu thuẫn mà chỉ có những xu hướng đối lập nào là tiền đề tồn tại của nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Như vậy có 2 điều kiện để xác định một mâu thuẫn biện chứng: + Các xu hướng đối lập nhau. + Các xu hướng là điều kiện tồn tại và phát triển của nhau. 2. Khái niệm thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập - Thống nhất của các mặt đối lập nói lên quá trình cùng tồn tại và điều kiện tồn tại của các mặt đối lập. - Đấu tranh của các mặt đối lập nói lên quá trình bài trừ của các mặt đối lập. Từ đây rút ra kết luận là: + Trong thống nhất có sự đấu tranh của các mặt đối lập. + Trong đấu tranh có sự thống nhất của các mặt đối lập. Đây là cách hiểu biện chứng về thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập theo phép biện chứng duy vật. 3. Khái niệm chuyển hóa của các mặt đối lập Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong tính thống nhất của nó tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa của chúng. Phương thức chuyển hóa của các mặt đối lập phụ thuộc hai điều kiện cơ bản: - Bản chất của sự vật. - Những điều kiện môi trường của sự chuyển hóa. Tức phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể. Các hình thức chuyển hóa: + Sự chuyển đổi vị trí của các mặt đối lập, đồng thời tính chất của mỗi mặt đối lập đều có sự thay đổi. + Các mặt đối lập thủ tiêu lẫn nhau trong quá trình chuyển hóa và xác lập mặt đối lập mới. + Các mặt đối lập thâm nhập chuyển hóa lẫn nhau và cùng phát triển. 4. Vai trò của quá trình đấu tranh các mặt đối lập Quá trình đấu tranh trong tính thống nhất của các mặt đối lập tất yếu dẫn tới sự chuyển hóa của chúng. Nhờ đó, cái cũ mất đi và cái mới ra đời. Chính vì vậy nhờ quá trình đấu tranh của các mặt đối lập mà có sự phát triển. Ví dụ như: Đấu tranh sinh tồn là động lực phát triển của các giống loài sinh vật, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội, cạnh tranh kinh tế là động lực phát triển kinh tế. Đấu tranh của các mặt đối lập không chỉ là động lực của mọi sự phát triển mà mở rộng ra còn là động lực của mọi sự vận động nói chung. 5. Tính đa dạng của các mâu thuẫn: Đây là phần có ý nghĩa thực tiễn trong việc giải quyết mâu thuẫn, thúc đẩy sự vật phát triển. Mâu thuẫn có các loại sau:  Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài: Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các yếu tố cấu thành một sự vật nhất định. Ví dụ như: Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất (LLSX) và Quan hệ sản xuất (QHSX) trong một phương thức sản xuất nhất định. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa mặt đối lập của sự vật này với mặt đối lập của sự vật khác. Ví dụ như mâu thuẫn giữa lực lượng cách mạng của quốc gia này với bọn phản cách mạng trong một quốc gia khác. Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Còn mâu thuẫn bên ngoài có vai trò hỗ trợ.  Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật. Nó tồn tại gắn liền với sự vật từ khi sự vật sinh ra cho đến khi sự vật kết thúc. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó của sự vật. Mâu thuẫn cơ bản đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự vật. Trong quá trình phát triển của mình, mâu thuẫn cơ bản là cơ sở hình thành và chi phối các mâu thuẫn khác trong sự vật. Khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi về chất. Còn mâu thuẫn không cơ bản thì tồn tại bao giờ cũng gắn liền với mâu thuẫn cơ bản.  Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu: Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát triển của mọi sự vật. Nó tác dụng quyết định đến các mâu thuẫn khác tồn tại trong cùng sự vật ở giai đoạn đó. Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định đối với quá trình phát triển của sự vật.  Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh hướng xã hội mà lợi ích về cơ bản là nhất trí với nhau. Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn đối kháng theo nguyên tắc chung chỉ được giải quyết thông qua các cuộc cách mạng xã hội. Còn mâu thuẫn không đối kháng, xu hướng phát triển đặc thù của nó ngày càng dịu đi. Mâu thuẫn này được giải quyết vẫn phải tuân thủ nguyên tắc là thông qua đấu tranh nhưng bằng phương pháp hòa bình. 6. Vấn đề phương pháp luận tổng quát của quy luật này Có thể nhấn mạnh hai nguyên tắc phương pháp luận sau đây: - Muốn phát hiện bản chất của mọi sự vận động và phát triển thì cần phải phân tích được mâu thuẫn vốn có của sự vật. Muốn vậy, cần phải xác định được những xu hướng vận động đối lập của mỗi sự vật mà ta phân tích, đồng thời phân tích xu hướng đối lập ấy trong tính thống nhất biện chứng của nó. - Giải quyết mâu thuẫn chính là giải quyết vấn đề động lực của sự phát triển. Về nguyên tắc, chỉ có thể giải quyết mâu thuẫn thông qua sự đấu tranh của các mặt đối lập. Tuy nhiên, biện pháp giải quyết rất đa dạng. điều đó phụ thuộc vào bản chất của sự vật và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn. Như vậy, nguyên tắc tổng quát là: Phát hiện và giải quyết mâu thuẫn nhằm thúc đẩy sự vận động phát triển. II. Kinh tế thị trường ở Việt Nam và những mâu thuẫn phát sinh trong kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ góc độ lý luận mâu thuẫn biện chứng của triết học Mác - Lênin 1. Tất yếu khách quan và đặc trưng kinh tế thị trường ở Việt Nam a) Kinh tế thị trường Về lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển LLSX và phân công lao động xã hội đó là: Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa, khi kinh tế hàng hóa phát triển giai đoạn cao là kinh tế thị trường. Kinh tế tự nhiên: Là kiểu tổ chức kinh tế xã hội, sản phẩm được sản xuất ra để tiêu dùng trực tiếp cho chính bản thân người sản xuất ra nó. Kinh tế hàng hóa: Là kiểu tổ chức kinh tế xã hội, trong đó sản phẩm được sản xuất ra dùng để bán, để trao đổi trên thị trường. Kinh tế hàng hóa ra đời đã phá vỡ và đẩy lùi kinh tế tự nhiên với những ưu điểm của nó là: kích thích sản xuất phát triển, chuyên môn hóa lao động, thỏa mãn mọi nhu cầu đa dạng của xã hội. Sự phát triển kinh tế hàng hóa gắn liền với thị trường. Thị trường là quá trình trong đó có sự tác động giữa người mua và người bán thông qua đó để xác định giá cả và số lượng hàng hóa. Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; dư thừa và phong phú hàng hóa, dịch vụ được mở rộng và coi như hàng hóa thị trường; năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ và thị trường. Đó là một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết, tự cân bằng do sự tác động của quan hệ cung cầu, tự điều chỉnh của "bàn tay vô hình", mọi nhà sản xuất đều tìm mọi cách tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí tối thiểu để có lợi nhuận tối đa. Cơ chế thị trường mang lại hiệu quả cao, song thị trường lại có những khuyết tật: Do mục đích theo đuổi lợi nhuận - doanh nghiệp vi phạm pháp luật, hủy hoại môi trường cạnh tranh dẫn đến độc quyền làm cho kinh tế phát triển kém hiệu quả, kinh tế thị trường gắn liền với thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, kinh tế thị trường còn dẫn đến sự phân hóa trong xã hội ngày càng sâu sắc. Để khắc phục những khuyết tật này thì phải có sự điều tiết của Nhà nước, đó là "bàn tay hữu hình". b) Tất yếu khách quan để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam - Xuất phát từ thực trạng nước ta từ một nền kinh tế kém phát triển, quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa (TBCN), nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, phân tán mang nặng tính tự nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn lạc hậu trong nhiều năm nền kinh tế tồn tại theo cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp nên đã tích tụ những yếu tố dẫn đến khủng hoảng kinh tế, mà thực tế khủng hoảng kinh tế đã diễn ra kéo dài đặc biệt là vào những năm 1980 - 1985 làm cho đời sống rất khó khăn. Trong nền kinh tế nước ta LLSX xã hội còn rất thấp, đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, sự phân công lao động xã hội gắn với sự tồn tại nhiều chủ thể sở hữu khác nhau như các thực thể kinh tế độc lập. Trong điều kiện đó, việc trao đổi sản phẩm giữa các chủ thể sản xuất với nhau không thể thực hiện theo nguyên tắc nào khác là nguyên tắc trao đổi ngang giá, tức là thực hiện sự trao đổi hàng hóa thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hóa. Các thành phần kinh tế cùng tham gia vào thị trường thống nhất vì vậy chúng liên hệ với nhau, vừa cạnh tranh với nhau. - Nước ta trong thời kỳ quá độ muốn phát triển mạnh mẽ LLSX thì phải xã hội hóa và chuyên môn hóa lao động. Quá trình ấy chỉ có thể diễn ra một cách thuận lợi trong một nền kinh tế hàng hóa mà phát triển cao là kinh tế thị trường. Thị trường là môi trường, điều kiện thực hiện tái sản xuất vì trao đổi là một giai đoạn tái sản xuất, các quan hệ kinh tế được giải quyết thông qua thị trường xoay quanh ba vấn đề là sản xuất cái gì? như thế nào? sản xuất cho ai? Phân phối ra sao? Các chủ thể tham gia thị trường hoàn toàn tự do mua bán, tự do giá cả và phải cạnh tranh. Cạnh tranh tạo ra động lực và làm tăng hiệu quả kinh tế. Thị trường phát triển thúc đẩy sản xuất và phát triển mở rộng quan hệ kinh tế, nối liền các miền, các vùng kinh tế trong nước và mở rộng liên hệ với thị trường quốc tế. Trong lịch sử kinh tế phát triển tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự phát triển LLSX đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, đồng thời là động lực mạnh mẽ thúc đẩy LLSX phát triển. Như vậy, phát triển nền kinh tế thị trường đối với nước ta là một tất yếu kinh tế, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển LLSX, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Tuy nhiên kinh tế thị trường có những khuyết tật nên Nhà nước phải can thiệp, điều tiết nền kinh tế để hạn chế, chính vì thế Đảng và Nhà nước ta đã xác định phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN tức là nền kinh tế có sự quản lý của Nhà nước. Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế thị trường là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, phát triển LLSX. Sau hơn 10 năm đã giành được những thành tựu bước đầu là thoát khỏi những khủng hoảng, ổn định kinh tế, bước đầu có tăng trưởng nên Đại hội Đảng VIII khẳng định đẩy mạnh đổi mới và đến Đại hội Đảng IX, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. c) Đặc trưng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam - Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối. - Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. - Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm hữu thế tuyệt đối khi CNXH được xây dựng xong về cơ bản. - Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. - Kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước ta là Nhà nước XHCN, quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. - Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. - Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. - Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. - Mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, đa dạng, đa phương, chủ động hội nhập, phát huy lợi thế so sánh tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. 2. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam a) Mâu thuẫn giữa lược lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ sản suất (QHSX) Theo lý luận của Các Mác. Trong sản xuất có hai mặt không thể tách rời nhau, một mặt là quan hệ giữa con người với tự nhiên, mặt khác là quan hệ giữa con người với con người; trong hai mặt đó một mặt là LLSX, mặt kia là QHSX. Như vậy: LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất còn QHSX là toàn bộ mối quan hệ lẫn nhau giữa người với người trong quá trình sản xuất. LLSX bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động. QHSX có 3 mặt: Quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. Do vậy đã có quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX, LLSX và QHSX thống nhất chặt chẽ với nhau trong quá trình sản xuất tạo thành phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Trong mối quan hệ giữa LLSX và QHSX thì LLSX là nội dung còn QHSX là hình thức xã hội của sản xuất, LLSX quyết định QHSX, QHSX phải phù hợp với LLSX và tác động tích cực trở lại LLSX. Khi một phương thức mới ra đời thì khi đó QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và nó là hình thức phát triển của LLSX. Sự phát triển của LLSX đến một trình độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp thành không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, khi đó QHSX trở thành kìm hãm LLSX phát triển. Chính vì vậy Mác viết "tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những QHSX hiện có... Trong đó từ trước đến nay các LLSX vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của LLSX, QHSX ấy trở thành những xiềng xích của các LLSX. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội". Thực tại ở Việt Nam khi phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN cũng là xác lập một phương thức sản xuất mới, khi đó LLSX phát triển bằng cuộc cách mạng trong CNH, HĐH do Đảng lãnh đạo. Với công nghệ, lao động đang biến đổi theo xu hướng ngày càng trí tuệ hóa, sự thống nhất giữa khoa học và công nghệ là đặc trưng của LLSX hiện đại. Khi đó QHSX cũ còn tồn tại đã kìm hãm sự phát triển do QHSX trở nên lỗi thời, lạc hậu so với sự phát triển của LLSX. Để giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi phải thay đổi QHSX cho phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Do đó trong nội dung CNH, HĐH Đảng ta đã chỉ rõ: Xây dựng hoàn thiện QHSX theo định hướng XHCN, phát triển LLSX trên cơ sở đó từng bước xây dựng, hoàn thiện QHSX trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô, định hướng phát triển kinh tế theo mục tiêu CNXH. b) Mâu thuẫn của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng - Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định, còn kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... cùng với các thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các tổ chức xã hội khác... được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. - Giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng với nhau, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội. Trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng. C.Mác viết "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ các kiến
Tài liệu liên quan