Sở hữu là một phạm trù kinh tế xuất phát và cơ bản của kinh tế chính trị. Nó như là
một tổng thể các quan hệ kinh tế và theo đó là tổng thể các quyền sử dụng, chi phối, quản lý.
. gắn với một chế độ xã hội nhất định.
Chế độ sở hữu chiếm giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự vận động và phát triển
của xã hội loài người, là yếu tố chi phối các yếu tố khác của đời sống xã hội. Bản thân chế độ
sở hữu cũng là yếu tố động, luôn luôn biến đổi, luôn luôn có sự cải tiến. Khi chế độ sở hữu
thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi mọi yếu tố khác trong cấu trúc xã hội và thay đổi toàn bộ chế
độ xã hội.
ở nước ta, Đại hội Đảng lần thứ VI đã chỉ rõ sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế,
Đảng và nhà nước ta thực hiện chính sách phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần dựa
trên sự đa dạng của các hình thức sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa, coi sở hữu vừa là
mục tiêu vừa là phương tiện vì sở hữu nói riêng và quan hệ sản xuất nói chung không chỉ là
phương tiện như mọi phương tiện thông thường có thể thay thế, mà là một bộ phận cấu thành
của xã hội nhất định. Chủ nghĩa xã hội có những đặc trưng riêng về sở hữu, những quan hệ
sản xuất và phân phối nảy sinh từ chế độ sở hữu đó.
Nghiên cứu vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường có ý nghĩa quan trọng và cấp
bách cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và
đặc biệt đối với thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
36 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2068 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận về phạm trù sở hữu và đa dạng hoá các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vấn đề sở hữu trong nền kinh
tế thị trường
Lời nói đầu
Sở hữu là một phạm trù kinh tế xuất phát và cơ bản của kinh tế chính trị. Nó như là
một tổng thể các quan hệ kinh tế và theo đó là tổng thể các quyền sử dụng, chi phối, quản lý..
. gắn với một chế độ xã hội nhất định.
Chế độ sở hữu chiếm giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự vận động và phát triển
của xã hội loài người, là yếu tố chi phối các yếu tố khác của đời sống xã hội. Bản thân chế độ
sở hữu cũng là yếu tố động, luôn luôn biến đổi, luôn luôn có sự cải tiến. Khi chế độ sở hữu
thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi mọi yếu tố khác trong cấu trúc xã hội và thay đổi toàn bộ chế
độ xã hội.
ở nước ta, Đại hội Đảng lần thứ VI đã chỉ rõ sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế,
Đảng và nhà nước ta thực hiện chính sách phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần dựa
trên sự đa dạng của các hình thức sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa, coi sở hữu vừa là
mục tiêu vừa là phương tiện vì sở hữu nói riêng và quan hệ sản xuất nói chung không chỉ là
phương tiện như mọi phương tiện thông thường có thể thay thế, mà là một bộ phận cấu thành
của xã hội nhất định. Chủ nghĩa xã hội có những đặc trưng riêng về sở hữu, những quan hệ
sản xuất và phân phối nảy sinh từ chế độ sở hữu đó.
Nghiên cứu vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường có ý nghĩa quan trọng và cấp
bách cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và
đặc biệt đối với thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Vấn đề nghiên cứu rất sâu và phức tạp. Nó đòi hỏi, một kiến thức sâu và rộng về kinh
tế. Bản thân em là một sinh viên do kiến thức hiểu biết còn hạn chế, trong phạm vi bài viết
này em chỉ đưa ra một phần nào đó của vấn đề nhưng em rất muốn bài viết của mình có ý
nghĩa trong lý luận về chế độ sở hữu .
Chương I: Lý luận về phạm trù sở hữu
I. Khái niệm về phạm trù sở hữu và các khái niệm khác có liên quan
1.Chiếm hữu
a.Khái niệm
Chiếm hữu là một phạm trù khách quan là điều kiện trước tiên của hoạt động
sản xuất. Nó thể hiện việc giữ lấy những đối tượng vật chất cần thiết nhằm thoả mãn
mục đích con người. Sự chiếm hữu được thể hiện thông qua những hình thái giao tiếp
vật chất tương ứng với một sự phát triển của sản xuất, mà cụ thể là ở sự phân công
lao động.
Sở hữu được hình thành từ sự chiếm hữu đối tượng ( trước hết là giới tự nhiên
) để tiến hành sản xuất nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Do đó, sự chiếm hữu
mang tính chất tự nhiên, vì không có sự chiếm hữu thì không có sản xuất. Sự chiếm
hữu đêm lại quyền hạn cho chủ sở hữu. Những quyền hạn này trên thực tế thường
xuyên bị xâm phạm và lạm dụng, là nguồn gốc gây ra sự tranh chấp trong xã hội. Sản
xuất càng phát triển, lĩnh vực chiếm hữu càng được mở rộng. Những quy định về
quyền được thiết chế tập trung vào một tổ chức để bảo vệ và tiếp tục sự chiếm hữu
một cách có hiệu quả. Tổ chức đó chính là nhà nước và quyền được thiết chế thành
luật.
Quyền chiếm hưũ là quyền giữ lấy đối tượng sở hữu về mình bao gồm quyền
chiếm hữu hợp pháp và chiếm hữu bất hợp pháp.
Sở hữu được bắt đầu từ sự chiếm hữu giới tự nhiên mang tính chất cộng đồng,
hình thái đầu tiên của quan hệ sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, đến hình tháI chiếm
hữu tự nhiên mang tính cá nhân, đối lập với cộng đồng và dẫn đến sự tách biệt về sở
hữu. Đó là một quá trình diễn ra trong sự tác động trực tiếp của phân công lao động
xã hội. Sự phân công đã làm cho một số thành viên trong cộng đồng được tách ra để
tham gia hoạt động trong lĩnh vực sản xuất mới được mở rộng, làm thúc đẩy nên sự
hình thành các hình thức trao đổi khác nhau . Nhưng cũng chính sự phân công với tư
cách là sự tách rời của một số tế bào ra khỏi cơ thể kinh tế đã được hình thành này đã
dẫn đến sự suy giảm về năng lực sản xuất của chính cơ thể ấy. Hệ quả là xuất hiện`
một “ chế độ sở hữu tách riêng “ năng động bên cạnh chế độ sở hữu cộng đồng bảo
thủ, đang mất dần sức sống. Sự đối lập trong quan hệ giữa người với người về sự
chiếm hữu tự nhiên.
Sở hữu là hình thức nhất định được hình thành trong lịch sử về chiếm hữu của
cảI vật chất của xã hội. Để sinh sống và tồn tại, để sản xuất và tái sản xuất ra của cải
vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng con người phải chiếm hữu chinh phục tự
nhiên. Do vậy chiếm hữu biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là hành
vi gắn liền với sự tồn tại và phát triển của con người, là phạm trù vĩnh viễn trong tất
cả các giai đoạn khác nhau của lịch sử nhân loại
b.Các hình thức chiếm hữu
- Phân theo chủ thể: chiếm hữu cá nhân và chiếm hữu tập thể
- Phân theo đối tượng: Chiếm hữu tự nhiên và chiếm hữu xã hội
- Phân theo lịch sử: chiếm hữu tự nhiên, chiếm hữu nô lệ, chiếm hữu ruộng đất,
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
2. Sở hữu
a. Khái niệm.
Sở hữu là phương thức chiếm hữu mang tính lịch sử cụ thể của con người những
đối tượng dùng vào mục đích sản xuất cũng như phi sản xuất. Sở hữu luôn luôn gắn
với vật dụng (vật chất hoặc tinh thần)-đối tượng của chiếm hữu. Đồng thời, sở hữu
không chỉ đơn thuần là vật dụng nó còn là quan hệ giữa con người với nhau. Vì
vậy,Sở hữu là hình thức xã hội lịch sử nhất định của chiếm hữu tư liệu sản xuất. Là
một phạm trù kinh tế, sở hữu biểu thị tổng thể quan hệ kinh tế xã hội và pháp lý gắn
với một chế độ xã hội nhất định.
Cần xem xét phạm trù sở hữu dưới hai góc độ có mối quan hệ chặt với nhau. ở
góc độ thứ nhất, nó được coi là một phạm trù kinh tế khách quan-với góc độ này, sở
hữu được định nghĩa là quan hệ giữa người với người trong sự chiếm hữu về tư liệu
sản xuất. ậ góc độ thứ hai, sở hữu với tư cách là hình thức pháp lý-hình thức phản
ánh quan hệ sở hữu khách quan vào pháp luật. Để không dừng lại sở hữu về mặt hình
thức và điều kiện sản xuất, người ta gắn sở hữu với quyền sở hữu và việc thực hiện
quyền sở hữu về mặt kinh tế trong quá trình sản xuất và tái sản xuất với tư cách là kết
quả của quyến sở hữu-cái mà các chủ sở hữu phảI quan tâm.
Quan hệ sở hữu là sự tổng hoà các mối quan hệ sản xuất xã hội, tức là các quan
hệ của các giai đoạn tái sản xuất xã hội. Những phương tiện sống, bao gồm những
quan hệ sản xuất trực tiếp, phân phối, trao đổi, lưu thông và tiêu dùng được xét trong
tổng thể của chúng. Quan hệ sở hữu về kinh tế là hiện diện của bộ mặt pháp lý. Quan
hệ sở hữu pháp lý là tổng hoà các mối quan hệ sở hữu, sử dụng và quản lý. Những
quan hệ này tạo ra và ghi nhận các quan hệ kinh tế thông qua các nguyên tấc, chuẩn
mực pháp lý.
Phạm trù sở hữu khi được luật hoá thành quyền sở hữu được thực hiện qua một
cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu là sự thể chế hoá các quan hệ
sở hữu thành các quyền : sở hữu, sử dụng, thừa kế, thế chấp, chuyển nhượng.. trong
đó quyền sở hữu và quyền sử dụng là đáng chú ý nhất. Đó là hai mặt vừa thống nhất
vừa mâu huẫn với nhau trong phạm trù sở hữu.
b, Đối tượng của sở hữu
Sở hữu là quan hệ kinh tế luôn ở trạng thái vận động, biến đổi. Trong quá trình
đó, tượng của sở hữu cũng có sự biến đổi thích ứng. Trong xã hội cộng sản nguyên
thuỷ đối tượng của sở hữu là những cáI có sẵn trong tự nhiên (hiện vật). Đến xã hội
nô lệ, cùng với sở hữu vật còn có sở hữu nô lệ. Xã hội phong kiến đối tượng của sở
hữu là tư liệu sản xuất (đất đai, công cụ lao động.,). Trong xã hội tư bản chủ nghĩa,
đối tượng sở hữu không chỉ là hiên vật mà quan trọng hơn là giá trị và tiền tệ. Ngày
nay, cùng với sở hữu về mặt hiện vật và giá trị của tư liệu sản xuất, người ta chú
trọng nhiều đến sở hữu trí tuệ, giáo dục..
II, Sự hình thành phát triển và biến đổi của sở hữu về tư liệu sản xuất
1. Sự hình thành, phát triển và biến đổi của sở hữu về tư liệu sản xuất là quá
trình lịch sử tự nhiên
Như đã biết, sở hữu về tư liệu sản xuất là hình thái xã hội của sự chiếm hữu
về tư liệu sản xuất, một nội dung chủ yếu trong hệ thống sản xuất. Hình thức, mức
độ, quy mô, phạm vi và tính đa dạng của sở hữu không phảI do ý muốn chủ quan của
con người quyết định mà là một quá trình lịch sử tự nhiên. Sự xuất hiện, tồn tại, phát
triển và chuyển hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là do tính chất và trình
độ phát triển của một lực lượng sản xuất tương ứng quyết định.
Nói cách khác, sự biến đổi của các hình thức sở hữu được quyết định bởi quy
luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Chính vì thế C.Mac đã dùng quy luật này để lý giảI sự ra đời và phát triển của 5
phương thức sản xuất xã hội trong lịch sử và coi phương thức sản xuất xã hội là nhân
tố có ý nghĩa quyết định.
Với tư cách là người sáng lập ra trường phái kinh tế chính trị Mac xit, C.Mac và
F.Angghen không phải chỉ một lần bàn về vấn đề sở hữu. Đặc biệt, trong tuyên ngôn
của Đảng cộng sản, ông đã nhấn mạnh : “ Chủ nghĩa cộng sản không xoá bỏ của ai
quyền chiếm hữu các của cải mà chỉ xoá bỏ việc dùng những của cải ấy để nô dịch
lao động của người khác “.” Tuyên ngôn đã chỉ ra rằng,chế độ sở hữu không cố định
mà luôn luôn vận động và phát triển, đã trải qua những thay đổi liên tiếp, những cải
biến liên tiếp trong lịch sử. Mỗi một hình tháI kinh tế xã hội có một chế độ sở hữu cơ
bản đặc trưng cho hình thái kinh tế xã hội đó. Hình thái kinh tế xã hội tiếp theo xoá
bỏ chế độ sở hữu cơ bản của xã hội trước đó và thiết lập một chế độ sở hữu mới phù
hợp với hình tháI kinh tế xã hội mơí.
Để nhấn mạnh quan điểm về sự biến đổi của các hình thức sở hữu như là quá
trình lịch sử tự nhiên. F.Angghen khuyên rằng: “ không thể xoá bỏ ngay tư hữu và
thiết lập ngay chế độ công hữu về tư liệu sản xuất”.
2. Các hình thức sở hữu trong lịch sử.
Sở hữu không phải cái bất biến, cố định. Nó luôn luôn vận động, biến đổi một
cách khách quan theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Loài người đã lần lượt trảI
qua 5 hình thái kinh tế xã hội. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội có nhiều hình thức
sở hữu, trong đó bao giờ cũng có một hình thức sở hữu đặc trưng.
a. Hình thái kinh tế xã hội cộng sản nguyên thuỷ.
Hình thức sở hữu đầu tiên là sở hữu bộ lạc, phù hợp với giai đoạn chưa phát
triển của sản xuất. Khi sức phát triển đến một trình độ nhất định ( con người không
hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên ) thì xuất hiện hình thức sở hữu công xã về
ruộng đất, tiếp đó là hình thức sở hữu gia đình, cá thể về súc vật. ở thời kỳ đầu có
lịch sử thành văn, đất đai đã bị phân chia và chuyển hoá thành sở hữu tư nhân, tình
hình đó thích hợp cho nền sản xuất hàng hoá tương đối phát triển .Bên cạnh của cải
bằng hàng hoá đã xuất hiện của cảI bằng nô lệ, tiền, ruộng đất. Tuy nhiên, trong xã
hội cộng sản nguyên thuỷ, hình thức sở hữu đặc trưng vẫn là sở hữu công xã, sở hữu
bộ lạc
b. Hình thái kinh tễ xã hội chiếm hữu nô lệ.
Trong thời kỳ này, công cụ sản xuất có bước chuyển biến lớn, con người sản xuất
chủ yếu với những công cụ bằng kim loại làm tăng năng suất lao động. Sở hữu công
xã được thay thế bằng sở hữu tư nhân. Nhà nước nô lệ xuất hiện. Bên cạch sở hữu
công xã chưa mất hẳn đi là hình thức sở hữu nhà nước. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ
tù binh chiến tranh, nông dân, những người bị phá sản, là một lực lượng có thể tạo ra
sản phẩm thặng dư lớn, họ trở thành nô lệ bị coi là những công cụ biết nói và nhứng
gia súc, bị coi là những món hàng có thể trao đổi mua bán cả sức lao động cũng thế.
Như vậy hình thức chiếm hữu trong chế độ chiếm hữu nô lệ: sở hữu công xã, sở hữu
nhà nước, sở hữu tư nhân nhưng nét đặc trưng trong chế độ chiếm hữu nô lệ là chiếm
hữu về mặt thân thể người nô lệ.
c.Hình thái kinhtế xã hội phong kiến
Sở hữu công xã chưa mất đi mà vẫn tồn tại. Người nông nô chẳng những là những
người chủ mặc dầu đó là những người chủ phải nộp cống vật của những mảnh đất đó
thuộc về nhà ở của họ, mà họ là những người chủ chung của những đất đai của những
công xã nữa. Bên cạnh sở hữu công xã, còn có sở hữu nhỏ của người nông dân.
Người nông dân tự do làm chủ mảnh ruộng của mình. Trong xã hội phong kiến, sở
hữu ruộng đất gắn liền với sở hữu tư hữu C.Mac viết “ Nói chung sự thống trị của chế
độ tư hữu bắt đầu cùng với chế độ chiếm hữu ruộng đất là cơ sở của chế độ tư hữu”.
Cùng với sở hữu ruộng đất ở nông thôn thì ở thành thị cũng có sở hữu phường hội tức
là tổ chức phong kiến của tiểu thủ công nghiệp. Như vậy trong thời đại phong kiến
hình thức chủ yếu một mặt là sở hữu ruộng đất với lao động của nông nô đã bị cột
chặt vào nó, mặt khác là lao động của bản thân tiến hành với một tư bản nhỏ chi phối
lao động của thợ bạn.
d. Hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa.
Nền sản xuất xã hội có nhiều biến đổi sâu sắc. Phương thức sản xuất cũ tự
cung tự cấp của xã hội phong kiến bị nền sản xuất hàng hoá tư bản phá vỡ, công cụ
thủ công được thay thế bằng công cụ cơ khí một cách phổ biến. Những biến đổi to
lớn của công cụ sản xuất của nền sản xuất hàng hoá đã chi phối quá trình vận động
của các hình thức sở hữu. Chuyển lên chủ nghĩa tư bản, sở hữu công xã về ruộng đất
vẫn tiếp tục tồn tại thậm chí còn phổ biến ở nhiều nơi. Sở hữu ruộng đất dưới chủ
nghĩa tư bản tồn tại với tư cách là hàng hoá cho nên thường xuyên diễn ra sự canh
tranh giữa những người sở hữu ruộng đất, biến sở hữu nhỏ thành sơ hữu lớn của một
số ít người. Bên cạnh sự canh tranh, còn có sự tước đoạt ruộng đất, tư liệu sản xuất,
công cụ lao động của đông đảo quần chúng lao động. Sự tước đoạt đó diễn ra theo
quy luật nội tại của bản thân nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá nên trong chủ
nghĩa tư bản đã xuất hiện một số hình thức sở hữu mới bên cạnh sở hữu tư nhân như :
sử hữu cổ phần, sở hữu tư bản nhà nước... “Trong công nghiệp lớn và cạnh tranh, tất
cả các điều kiện tồn tại của các nhân đIều hoà trong hai hình thức đơn giản nhất : sở
hữu tư nhân và lao động “. Vì vậy, trong chủ nghĩa tư bản hình thức sở hữu đặc trưng
là sở hữu tư nhân.
Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, sở hữu tư nhân vẫn giữ vai trò chủ đạo,
nhưng xuất hiện nhiều hình thức mới như cônh nhân có sở hữu trong các công ty cổ
phần của tư bản, và xuất hiện các xí nghiệp công quản.
III. Sự tách rời quyền sở hữu với quyền sử dụng và quyền quản lý
Quy luật phát triển của nền kinh tế dã cho thấy các quyền gắn liền với phạm
trù đã có sự biến đổi rất đáng kể.ở thời kỳ đầu quyền sở hữu , quyền quản lý và
quyền sử dụng .. thống nhất với nhau trong cùng một người chủ sở hữu về mặt pháp
lý. Sự xuất hiện của tư bản cho vay đã làm cho hai quyền sở hữu và sử dụng tách rời
nhau “ tư bản sở hữu tách rời tư bản sử dụng “ Tài sản và vốn chỉ sinh lợi khi đưa vào
sử dụng trong kinh doanh một cách hợp lí. Người có quyền sở hữu thông qua việc
giao quyền sử dụng cho ngườ khác để thực hiện lợi ích kinh tế của mình, nếu có
quyền sở hữu mà không đạt lợi ích kinh tế thì quyền đó trở thành vô nghĩa. Mặt khác,
người sử dụng cần thiết phảI dựa vào và tôn trọng quyền sở hữu của người khác mới
được sử dụng tư liệu sản xuất cần thiết. Người sử dụng phảI đạt được lợi ích của
mình thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, quan hệ lợi ích phải đảm
bảo lợi ích cho cả chủ sở hữu và người sử dụng,làm tách biệt quyền quản lý và quyền
sử dụng. Sự ra đời của công ty cổ phần và khi lao động quản lý trở thành một nghề đã
dẫn đến sự tách rời giữa quyền quản lý và quyền sử hữu.
Tất nhiên sự tách rời này chỉ có ý nghĩa tương đối vì giám đốc khi tực hiện các
chức năng quản lý phảI dựa vào các chiến lược sản xuất kinh doanh, kỹ thiật và công
nghệ do Hội Đồng Quản Trị, với tư cách là người đại diện cho quyền sở hữu, đề ra.
Vì vậy, quyền sở hữu vẫn giữ vai trò quyết định, nhưng quyền quản lý và phân phối
không vì thế mà không còn giá trị.
Chương II: Cơ cấu sở hữu trong thời kỳ quá độ ở nước ta
I.Vấn đề sở hưũ trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập
trung
Trong những năm nền kinh tế vận hành trong cơ chế hoạch hoá tập trung, quan
liêu, bao cấp, khi giảI quyết vấn đề sở hữu chúng ta đã mắc phảI khuyết đIểm khá
trầm trọng. Chúng ta đã tuyệt đối hoá tính hơn hẳn của sở hữu xã hội chủ nghĩa và
quan niệm rằng chỉ có chế độ công hữu mới bảo đảm mục đích thoả mãn mọi nhu cầu
xã hội, mới thúc đẩy sản xuất theo kế hoạch nhà nước. Chúng ta coi chế độ công hữu
là mục tiêu, là tiêu chí số một để đánh giá mức độ đạt được của quá trình tiến lên chủ
nghĩa xã hội, thậm chí được coi là tiêu thức để đánh giá mức độ lập trường giai cấp.
ĐIều đó dẫn tới một sai lầm nghiêm trọng trong nhận thức là hợp tác xã càng
lớn, càng có nhiều “ hợp tác xã cấp cao “, xí nghiệp có quy mô ngày càng lớn thì
chất chủ nghĩa xã hội càng nhiều, càng tiến gần đến chủ nghĩa xã hội hơn. Chúng ta
đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao động, thậm chí còn coi đó là hình thức
sở hữu đối lập với xã hội chủ nghĩa, là mầm mống khôI phục lại chế độ người bóc lột
ngươI lao động.
Nhà nước ta đã thực hiện chủ trương ồ ạt xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất dưới hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Song
“sở hữu toàn dân” thực tế là “sở hữu nhà nước”, nhà nước đại diện cho người lao
động thực hiên quyền sở hữu đối với các tư liệu sản xuất chứ không phải người lao
động là các chủ sở hữu trực tiếp, không được bảo đảm bằng cơ sở kinh tế trực tiếp.
Còn “sở hữu tập thể” (trong hợp tác xã) được vân hành theo cơ chế cũ, tự nhiên biến
thành sở hữu của ban quản lý hợp tác xã, còn xã viên thì như người đi làm thuê. Thực
tế trên đã cho thấy người dân chỉ là chủ sở hữu hình thức, các quan hệ lợi ích chưa
được tạo ra nhằm thúc đẩy người lao động hăng say làm việc, năng suất lao động
thấp, hiệu quả kinh tế rất thấp, hàng hoá thiếu thốn, đời sống nhân dân rất khó
khăn.Tình trạng bao cấp ỷ lại vào Nhà nước kéo dài và ngày càng nặng nề.
Sỡ dĩ chủ trương trên được thực hiện một cách như vậy là do chúng ta cho
rằng có thể và cần sử dụng tính chủ động của nền chuyên chính vô sản đưa quan hệ
sở hữu đI trước một bước, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đó là quan
đIểm sai lầm nghiêm trọng, đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất trong
một thời gian dài.
Đại hội VI đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong quá trình thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển. Đảng ta đã nhân thức được lực lượng sản xuất lac hậu không chỉ
trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà ngay cả khi quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố quan xa so với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Trong khi nền kinh tế nước ta còn phổ biến là sản
xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu, kinh tế hàng hoá chưa phát triển, trình độ xã
hội hoá còn thấp, muốn hoàn thành quá trình cảI tạo XHCN trong một thời gian ngắn,
đưa nhanh quan hệ sản xuất lên trình độ xã hội hoá cao, bỏ qua các hình thức trung
gian quá độ là thoát ly tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chủ
trương đó đã kìm hãm tiềm năng phát triển to lớn của nhân dân về vốn, sức lao động
và tay nghề để phát triển lực lượng sản suất. Hơn nữa, việc cải tạo quan hệ sản xuất
chủ yếu chỉ chú ý tới chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, coi quan hệ phấn phối và
quản lý. Tuy chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là nền tảng cho quan hệ sản xuất
mới, nhưng khi chế độ quản lý và chế độ phân phối không phù hợp thì ngay cả các
đơn vị kinh tế thuộc sở hữu toàn dân, được trang bị kỹ thuật cao hơn cũng làm ăn
kém hiệu quả.
II. Cơ cấu sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Qua những đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
chứng tỏ tính đúng đắn của đường đối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá các hình
thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tiễn cho
thấy, một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phảI bao gồm nhiều hình thức sở
hữu, không thể chỉ có hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể như trước đây. Hiện
nay c