Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ,đặc biệt khi nước ta gia nhập WTO thì
cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Để có được năng lực cạnh tranh
ấy cần có sự nỗ lực của Nhà nước của các tổ chức kinh tế và của toàn dân. Có thể khẳng
định rằng, sau khi thực hiện công cuộc đổi mới, cùng với khu vực kinh tế quốc doanh
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có những bước phát triển nhanh chóng và ngày
càng khẳng định được vị trí và vai trò của mình trong nền kinh tế, hàng năm khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp khoảng 60% - 65% vào GDP, 40% - 45% cho ngân
sách nhà nước và thu hút hơn 80% lao động cho xã hội.
Vai trò và vị trí quan trọng của DNNQD đòi hỏi phải có cơ chế và chính sách
thích hợp tạo điều kiện cho DNNQD phát huy mạnh mẽ mọi tiềm năng, thế mạnh của
mình. Trên thực tế, trong những năm gần đây nhận thức được tiềm năng to lớn của
DNNQD các NHTM đã đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp này tạo
điều kiện cho doanh nghiệp phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
góp phần vào sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy em đã lựa chọn đề tài
“Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại NHTM cổ phần Quân
đội ” với mong muốn góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào việc tìm ra các giải
pháp để mở rộng cho vay đối với DNNQD tại NHTM cổ phần Quân đội .
48 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2029 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại NHTM cổ phần Quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp
ngoài quốc doanh tại NHTM cổ phần
Quân đội
lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ,đặc biệt khi nước ta gia nhập WTO thì
cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Để có được năng lực cạnh tranh
ấy cần có sự nỗ lực của Nhà nước của các tổ chức kinh tế và của toàn dân. Có thể khẳng
định rằng, sau khi thực hiện công cuộc đổi mới, cùng với khu vực kinh tế quốc doanh
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có những bước phát triển nhanh chóng và ngày
càng khẳng định được vị trí và vai trò của mình trong nền kinh tế, hàng năm khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp khoảng 60% - 65% vào GDP, 40% - 45% cho ngân
sách nhà nước và thu hút hơn 80% lao động cho xã hội.
Vai trò và vị trí quan trọng của DNNQD đòi hỏi phải có cơ chế và chính sách
thích hợp tạo điều kiện cho DNNQD phát huy mạnh mẽ mọi tiềm năng, thế mạnh của
mình. Trên thực tế, trong những năm gần đây nhận thức được tiềm năng to lớn của
DNNQD các NHTM đã đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp này tạo
điều kiện cho doanh nghiệp phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
góp phần vào sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy em đã lựa chọn đề tài
“Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại NHTM cổ phần Quân
đội ” với mong muốn góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào việc tìm ra các giải
pháp để mở rộng cho vay đối với DNNQD tại NHTM cổ phần Quân đội .
2. Mục đích nghiên cứu:
Chuyên đề được thực hiện với mục đích:
Một là: Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung nhất về DNNQD và tín dụng
Ngân hàng đối với DNNQD.
Hai là: Phân tích thực trạng cho vay đối với DNNQD tại chi nhánh NHNo&PTNT
Quận Thanh Xuân, từ đó rút ra những kết quả đạt được, tồn tại và những nguyên nhân
của những tồn tại đó.
Ba là: Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng cho vay đối với
DNNQD tại NHTM cổ phần Quân đội .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài lấy hoạt động cho vay đối với DNNQD tại NHTM cổ phần Quân đội làm đối
tượng nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu chuyên đề là tín dụng DNNQD tại NHTM cổ phần Quân đội lấy
thực tế từ năm 2005 -2007 để chứng minh.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin để nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn.
Kết hợp với phương pháp điều tra khảo sát, phân tích - tổng hợp, thống kê để đánh giá
tình hình thực tế.
Sử dụng các bảng, biểu đồ để chứng minh, rút ra kết luận.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về DNNQD và vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với
DNNQD.
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNNQD tại NHTM cổ phần
Quân đội .
Chương 3: Giải pháp chủ yếu để mở rộng cho vay đối với DNNQD ttại NHTM cổ
phần Quân đội .
Chương 1.Cơ sở lý luận về
DOANH NGHIệP NGOàI QUốC DOANH và
vai trò của t ín dụng ngân hàng đối với
DOANH NGHIệP NGOàI QUốC DOANH
1.1. DNNQD trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm, phân loại, đặc điểm và vai trò của DNNQD trong nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam.
1.1.1.1. Khái niệm về DNNQD:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định,
được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh.
DNNQD là một bộ phận của nền kinh tế, lấy sở hữu tư nhân làm nền tảng, được tồn
tại lâu dài, được bình đẳng trước pháp luật và có tính sinh lợi hợp pháp chủ động trong
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật.
Xuất pháp từ hình thức sở hữu của DNNQD, Nhà nước không cấp vốn hoạt động
cũng như không tái cấp vốn mà vốn hoạt động của DNNQD là vốn do tư nhân bỏ ra hay
một nhóm các thành viên là các tổ chức, cá nhân góp lại. Số tiền này nhiều hay ít phụ
thuộc vào qui mô ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật
(đựơc quy định trong luật doanh nghiệp). Mặt khác, trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình, DNNQD phải chịu trách nhiệm hữu hạn, vô hạn hay hỗn hợp cả vô hạn và hữu
hạn. Điều đó tuỳ thuộc vào đặc trưng của từng loại hình sản xuất kinh doanh của
DNNQD mà các cá nhân, tổ chức tham gia trong đó.
1.1.1.2. Phân loại DNNQD:
- Nếu căn cứ vào mức độ trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì
DNNQD: Bao gồm các doanh nghiệp chiụ trách nhiệm hữu hạn (công ty TNHH, công ty
cổ phần, …), các doanh nghiệp chịu trách nhiệm hỗn hợp (công ty hợp vốn đơn giản là
công ty trong đó có một thành viên nhận vốn chịu trách nhiệm vô hạn còn các thành viên
góp vốn khác chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn đóng góp mà thôi).
Nếu chia theo tính chất sở hữu vốn DNNQD: bao gồm các loại hình doanh nghiệp
sở hữu một chủ (doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH 1 thành viên), sở hữu nhiều chủ
(công ty cổ phần, công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên,..).
Tuy nhiên dù phân loại theo hình thức nào thì DNNQD cũng bao gồm các loại hình
sau: Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, nhóm công ty,công ty hợp
danh.
1.1.1.3. Đặc điểm của DNNQD ở Việt Nam:
Thứ nhất: Quy mô vốn nhỏ bé:
Các DNNQD dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên nguồn vốn mang tính
chất nhỏ hẹp, mặt khác thâm niên tồn tại chưa lâu nên chưa có điều kiện để tích luỹ vốn.
Nguồn vốn hoạt động chủ yếu là đi vay từ bạn bè, vay tư nhân, vay Ngân hàng và các
TCTD khác. Song do uy tín của các DNNQD chưa cao nên việc vay vốn gặp rất nhiều
khó khăn, mặc dù đã có nhiều văn bản của chính phủ, NHNN quy định về việc mở rộng
cho vay đối với khu vực này
Thứ hai: Trình độ kỹ thuật công nghệ chưa theo kịp với thế giới:
Do quy mô vốn hạn chế cùng với việc thiếu thông tin về công nghệ, sự hạn chế
trong việc áp dụng công nghệ tiên tiến dẫn đến trình độ công nghệ của các DNNQD nhìn
chung là không đồng bộ. Hầu hết là các thiết bị đều cũ kỹ, lạc hậu, phần lớn là máy cũ
tân trang lại, tuổi của các máy móc thiết vào khoảng 20 tuổi.
Thứ ba: Hoạt động kinh doanh chứa nhiều rủi ro.
Do tính năng động tự chủ cao, trong quá trình cạnh tranh, các DNNQD dễ đi đến
hoạt động mạo hiểm, dễ xảy ra rủi ro. Vì vậy, nếu thiếu sự điều tiết, hướng dẫn của các
cơ quan chức năng các DNNQD có thể bỏ qua những quy định, nguyên tắc do Nhà nước
đề ra, để chạy theo lợi ích trước mắt, gây hiệu quả xấu cho nền kinh tế xã hội.
Thứ tư: Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là sản xuất tiêu dùng và dịch vụ.
Kinh tế ngoài quốc doanh thường sản xuất tiêu cùng và cung ứng dịch vụ hoặc trong
lưu thông hàng hoá, vì vây đây là những ngành không đòi hỏi một lượng vốn quá lớn.
Hơn nữa lại là lĩnh vực hoạt động có vòng quay vốn nhanh, tỷ suất lợi nhuận cao phù hợp
với đặc thù của các DNNQD. Điều này có ưu điểm là nhanh chóng tạo cho nền kinh tế
một khối lượng hàng hoá dịch vụ lớn, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội. Song
ngược lại khi những nhược điểm của DNNQD thể hiện dễ gây ra những khủng hoảng
lớn, rối loạn trong khâu sản xuất và lưu thông hàng hoá, ảnh hưởng đến sự ổn định của
đồng tiền.
1.1.1.4. Vai trò của các DNNQD trong tiến trình đổi mới.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ra đời và phát triển trong nền kinh tế thị trường,
các DNNQD chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ nên rất linh hoạt, nhạy bén thích ứng nhanh
chóng với sự biến động của thị trường. Nó huy động tối đa nguồn vốn trong dân cư để
phát triển kinh tế đất nước. Với tính tự chủ và khả năng thích nghi cao, DNNQD đóng
một vai trò không thể thiếu được trong nền kinh tế, thể hiện qua các mặt sau:
Thứ nhất: DNNQD góp phần thu hút tối đa mọi nguồn vốn trong dân, giải quyết nạn
thất nghiệp tạo ra sự phát triển cân đối trong nền kinh tế.
- .Sự độc chiếm của hình thức sở hữu Nhà nước và tập thể không khai thác hết
tiềm năng lớn của đất nước, do đó vẫn còn một lượng vốn lớn còn nằm trong dân cư. Chỉ
có con đường phát triển DNNQD mới có thể khai thác chúng.
- DNNQD tham gia vào hầu hết các ngành kinh tế từ công nghiệp, thương mại
đến dịch vụ, với đặc tính nhạy bén, tổ chức gọn nhẹ nên đã thu hút được rất nhiều lao
động có trình độ khác nhau.
Thứ hai: DNNQD phát triển tạo thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
DNNQD đáp ứng khá nhanh nhậy các nhu cầu phong phú, đa dạng của thị trường,
từ đó tạo ra ngày càng nhiều lợi nhuận đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà
nước. Trên thực tế DNNQD đóng góp mỗi năm khoảng 40% - 45% vào ngân sách Nhà
nước.
Thứ ba: DNNQD tạo ra nhiều hàng hoá cho tiêu dùng và cho xuất khẩu.
Theo chiến lược phát triển hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu của Đảng và Nhà nước
ta, DNNQD với sự đa dạng về quy mô, ngành nghề và hình thức kinh doanh đã khơi dậy
tiềm năng to lớn trong dân để phát triển sản xuất, thu hút vốn, kỹ thuật công nghệ của
nước ngoài tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng và cho xuất khẩu
Thứ tư: DNNQD có tác dụng quan trọng đối với quá trình CNH - HĐH và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta.
Quá trình phát triển DNNQD cũng là quá trình cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao
năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường, đến một mức
độ nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công nghệ, làm cho quá trình CNH - HĐH đất nước
không chỉ diễn ra theo chiều rộng mà cả ở chiều sâu. Mặt khác, sự phục hồi các làng nghề
ở một số vùng quê đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thứ năm: DNNQD phát triển góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy phát
triển kinh tế.
Với sự đa dạng về lĩnh vực hoạt động, DNNQD đã tạo nên môi trường cạnh tranh
trong nền kinh tế với các DNNN. DNNQD có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của DNNN,
bù đắp những lỗ hổng do khu vực này tạo ra. Đặc biệt nó có vai trò quan trọng trong việc
chống lại xu thế độc quyền đang tác động làm trì trệ, cản trở nền kinh tế phát triển.
Thứ sáu: DNNQD góp phần tạo ra thị trường vốn rộng lớn cho Ngân hàng.
Sự xuất hiện và phát triển của các DNNQD đã tạo ra một nhóm khách hàng thường
xuyên cho Ngân hàng. Với tốc độ phát triển nhanh chóng cả về quy mô và chất lượng các
DNNQD đã tạo ra một nhu cầu lớn cho Ngân hàng cả về vốn, thanh toán và các dịch vụ
qua Ngân hàng. Điều này tạo điều kiện cho Ngân hàng ngày càng phát triển. Như chúng
ta biết, hoạt động Ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào nền kinh tế quốc dân mà trong đó
DNNQD chiếm một tỷ lệ đáng kể do vậy, trong tương lai DNNQD sẽ là thị trường đầy
triển vọng của ngành Ngân hàng.
1.1.2. Thuận lợi và khó khăn của DNNQD trong quá trình đổi mới.
1.1.2.1. Thuận lợi:
Nước ta đã chính thức gia nhập WTO năm 2006 vì vậy các doanh nghiệp có nhiều
cơ hội để phát triển ,thị trường thế giới rộng mở.
- Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được sự khuyến khích phát triển của Nhà nước.
Nhà nước ta đã có chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, đặc biệt là tăng tỷ
trọng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh để tận dụng các nguồn lực của nền kinh tế
như: lao động và vốn. Môi trường pháp lý sẽ ngày càng được khai thông để tạo điều kiện
tối đa cho khu vực này phát triển; bên cạnh đó Nhà nước có những chính sách ưu đãi cho
khu vực này như miễn giảm thuế trong những năm đầu đối với những lĩnh vực được
khuyến khích phát triển, giảm giá thuê đất... Như vậy, các DNNQD sẽ có rất nhiều điều
kiện thuận lợi để phát triển.
- Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế: hệ thống giao thông, hệ thống thông tin liên lạc,
khoa học kỹ thuật công nghệ... phát triển đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các doanh
nghiệp Việt Nam nói chung và các DNNQD nói riêng.
- Môi trường tài nguyên còn rất nhiều tiềm năng phù hợp với đặc điểm của các
DNNQD. Lực lượng lao động dồi dào và tiền công thấp là một thuận lợi cho sự phát triển
của các DNNQD.
- DNNQD bao gồm phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp này
có những thuận lợi riêng như: dễ triển khai hoạt động, linh hoạt, dễ thích ứng, quay vòng
nhanh, chi phí gián tiếp thấp, tận dụng được các nguồn vốn nhỏ.
Mặc dù có những thuận lợi như vậy, nhưng DNNQD cũng gặp phải không ít những
khó khăn.
1.1.2.2. Khó khăn
- Thiếu vốn là một trong những căn bệnh kinh niên của các nước đang phát triển,
vốn là một trong những yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng, quyết định đối với sự hình
thành, tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp, quyết định tới phạm vi ngành nghề kinh
doanh, quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
-Giá thành sản phẩm cao,chất lượng sản phẩm hạn chế và mẫu mã lạc hậu,khả năng
tiếp cận thị trường hạn chế,công nghệ lạc hậu ,năng suất lao động thấp
- Một trong những quy luật khắc nghiệt của kinh tế thị trường là quy luật cạnh tranh.
Quy luật này sẽ loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém, không hiệu quả, thiếu năng
động, non nớt trên thị trường.
1.1.3. Các nguồn vốn của DNNQD:
1.1.3.1. Vốn tự có:Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép khai trương
của doanh nghiệp là phải có đủ vốn ban đầu theo quy định của pháp luật.
- Đối với các doanh nghiệp tư nhân, nguồn vốn này là của người chủ đứng lên thành
lập doanh nghiệp
- Đối với các công ty cổ phần, nguồn vốn này là vốn đóng góp của các cổ đông dưới
dạng phát hành cổ phiếu.Hiện nay thị trường chứng khoán nuớc ta đang rất sôI động vì
vậy thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn hiệu quả của các doanh nghiệp đã
cổ phần hoá.
- Đối với các công ty TNHH, nguồn vốn này là vốn đóng góp của các thành viên
đứng lên thành lập công ty.
1.1.3.2. Nguồn vốn đi vay:
Doanh nghiệp có thể vay từ bạn hàng qua hình thức tín dụng thương mại hay vay
Ngân hàng qua hình thức tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng thương mại:
Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ đối với các
doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Tín dụng thương mại là một phương
thức tài trợ tiện lợi và linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác nó còn tạo ra khả năng mở
rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh, thúc đẩy sự lưu thông của hàng hoá.
Tín dụng Ngân hàng:
Doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn (dưới 1 năm), vay trung hạn (từ 1 đến 5 năm),
vay dài hạn (trên 5 năm) với những mức lãi suất Ngân hàng và những điều kiện ràng
buộc khác nhau.. Nó có những đặc điểm tiến bộ và có vai trò thúc đẩy sự phát triển của
các doanh nghiệp nói chung và các DNNQD nói riêng:
- Việc sử dụng tín dụng Ngân hàng sẽ giúp doanh nghiệp chia sẻ bớt rủi ro cho
Ngân hàng.
- Sử dụng tín dụng Ngân hàng không làm chia sẻ quyền lực của người chủ doanh
nghiệp.
- Tiền lãi vay được tính trong chi phí hợp lý do vậy sẽ giảm được thuế cho doanh
nghiệp.
1.2. tín dụng ngân hàng đối với các DNNQD
1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng.
NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và hoạt động chủ yếu và thường xuyên đó
là huy động tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả (vốn và lãi), sau đó sử dụng số tiền huy
động được để cho vay, thanh toán, chiết khấu... nhằm mục đích sinh lợi.
Như vậy ta thấy rằng Ngân hàng là trung gian thanh toán, trung gian tín dụng của
nền kinh tế. Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay (Ngân hàng) và
bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển
giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi
vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn
thanh toán.
1.2.2. Đặc trưng của tín dụng Ngân hàng:
- Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị trên cơ sở lòng tin, ở đây người cho
vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả sau một thời gian nhất định và
do đó có khả năng trả được nợ. Từ đặc trưng này ta thấy sự tín nhiệm là điều kiện cần
thiết để phát sinh quan hệ tín dụng. Để có được lòng tin về khách hàng, Ngân hàng luôn
thẩm định đánh giá khách hàng trước khi cho vay. Nếu khâu này được thực hiện một cách
khách quan, chính xác thì việc cho vay của ngân hàng có thể mở rộng được mà ít gặp phải
rủi ro.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Đặc trưng này của
tín dụng xuất phát từ tính chuyển nhượng tạm thời. Như vậy, để đảm bảo thu hồi nợ đúng
hạn Ngân hàng phải định kỳ hạn nợ một cách phù hợp với đối tượng vay.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc
và lãi. Đây là thuộc tính riêng có của tín dụng.
1.2.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNNQD:
Tín dụng Ngân hàng có vai trò rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và
nhất là đối với các DNNQD. Vai trò đó thể hiện là:
Thứ nhất, tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện ra đời các tổ chức kinh tế công, thương
nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh. Về phương diện này, tín dụng ngân hàng sẽ là công
cụ tài trợ đắc lực trong việc tạo lập cơ sở vật chất cũng như vốn lưu động trong hoạt động
sản xuất và lưu thông của họ.
Thứ hai, tín dụng Ngân hàng có vai trò trong việc tạo điều kiện phát triển ngành
nghề mới trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Việc phát triển từ nhu cầu sản xuất và
tiêu dùng từng lĩnh vực kinh tế, từng chủ doanh nghiệp rất khó có thể thông hiểu một
cách rộng khắp nhu cầu của thị trường. Thông qua hoạt động cấp tín dụng, hệ thống Ngân
hàng có khả năng thấy được nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng hiện tại cũng như tương
lai, cùng với nguồn vốn của mình, tín dụng Ngân hàng sẽ thúc đẩy sự ra đời những ngành
nghề mới, đáp ứng cho yêu cầu phát triển ngày càng đi lên của nền kinh tế.
Thứ ba, tín dụng Ngân hàng trở thành đòn bẩy kinh tế quan trọng giúp nhà sản xuất
kinh doanh thực hiện đều đặn quá trình tái sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới,
phục vụ thị hiếu của người tiêu dùng cũng như đòi hỏi khắt khe của người sản xuất.
Thứ tư, tín dụng Ngân hàng có vai trò tích cực trong việc hạn chế, xoá bỏ tệ nạn cho
vay nặng lãi góp phần tích cực vào việc xây dựng, bổ sung hoàn thiện cơ chế quản lý tài
chính, thúc đẩy DNNQD phát triển.
1.2.4. Các hình thức cho vay:
Theo điều 3 của quy chế cho vay của các TCTD quy định: “cho vay là một hình
thức cấp tín dụng, theo đó TCTD giao cho khác hàng vay một khoản tiền để sử dụng vào
mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”.
Hoạt động cho vay của Ngân hàng đối với các DNNQD có nhiều hình thức:
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay:
-Cho vay công và thương nghiệp, dịch vụ, phuc vụ kinh doanh thương mại và sản
xuất công nghiệp.
-Cho vay nông nghiệp để trang trại chi phí sản xuất nông nghiệp như phân bón
thuốc trừ sâu, giống.
-Cho vay tiêu dùng đáp ứng nhu cầu chi tiêu mua sắm.
-Cho vay bất động sản, để mua bất động sản như nhà đất.
Căn cứ vào thời hạn vay vốn:
-Cho vay ngắn hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn dưới 12 tháng được sử dụng
vốn để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp. Đối với các NHTM, loại
hình cho vay này thường chiếm tỷ trọng cao.
-Cho vay trung hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm, chủ yếu
được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công
nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian
thu hồi vốn nhanh.
-Cho vay dài hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn trên 5 năm, chủ yếu là để đáp
ứng nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà ở, đầu tư các thiết bị, phương tiện vận tải có quy
mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Căn cứ vào tính chất bảo đảm:
- Cho vay có bảo đảm: Loại hình cho vay này được Ngân hàng cung ứng vốn
phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Việc bảo đảm
này sẽ là căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung cho
nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
- Cho vay không có bảo đảm: Đó là các khoản cho vay tín nhiệm, các khoản cho
vay mà không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, việc cho vay này
chủ yếu dựa vào uy tín của khách hàng mà