Trong những năm qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành 
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước 
ta đã có sự biến  đổi sâu sắc và phát triển mạnh mẽ, trong  đó các doanh nghiệp thuộc các 
thành phần kinh tế khác nhau cùng tồn tại, cạnh tranh với nhau và bình  đẳng trước pháp 
luật.
Trước đây, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, Nhà nước can thiệp rất sâu vào 
hoạt  động kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà nước quyết  định tất cả các vấn  đề kinh 
doanh như mặt hàng kinh doanh, đối tượng phân phối, giá cả, số lượng... và doanh nghiệp 
sẽ  được bù  đắp nếu làm  ăn thua lỗ. Vì vậy, vấn  đề tiêu thụ hàng hoá chỉ mang tính pháp 
lệnh và hình thức, không được quan tâm và thúc đẩy.
Hiện nay, môi trường kinh tế mới buộc các doanh nghiệp phải tổ chức tốt các hoạt 
động kinh doanh của mình, nắm bắt  được các quy luật của cơ chế  thị trường để từ  đó đưa 
ra các quyết  định  đúng đắn,  đảm bảo thu  được lợi nhuận  để có thể tồn tại và  đứng vững. 
Thị trường là thách thức lớn lao  đối với mỗi doanh nghiệp trong việc tiêu thụ hàng hoá. 
Doanh thu bán hàng có ý nghĩa rất lớn  đối với toàn bộ hoạt  động của doanh nghiệp, nó là 
nguồn quan trọng để đảm bảo trang trải các khoản chi phí hoạt động kinh doanh, đảm bảo 
cho các doanh nghiệp có thể tái sản xuất giản đơn cũng như có thể tái sản xuất mở rộng, là 
nguồn  để các doanh nghiệp có thể thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, ổn định tình hình tài 
chính doanh nghiệp...Vì vậy,  để có thể  đứng vững trên thương trường, thì các doanh 
nghiệp phải tổ chức tốt công tác xúc tiến bán hàng, có chiến lược tiêu thụ thích hợp cho 
phép doanh nghiệp chủ  động thích ứng với môi trường, quyết định kịp thời khi có cơ hội, 
huy động tất cả các nguồn lực hiện có và lâu dài  để có thể  đạt hiệu quả cao trong kinh 
doanh.
Xuất phát từ quan  điểm trên, trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần que hàn 
điện Việt-  Đức em  đã nghiên cứu,  tìm hiểu về công tác xúc tiến bán hàng của công ty. 
Công ty đã sử dụng các hình thức xúc tiến bán hàng như một công cụ đắc lực phục vụ cho 
hoạt động kinh doanh của mình. Với sự giúp  đỡ nhiệt tình của các cán bộ, nhân viên đang 
công tác tại công ty cổ phần que hàn điện Việt- Đức nói chung và các nhân viên phòng kế 
hoạch –  kinh doanh nói riêng, cùng với sự hướng dẫn của các thầy cô giáo, em đã chọn đề 
tài:  “ Một số biện pháp  đẩy mạnh công tác xúc tiến bán hàng ở công ty cổ phần que 
hàn điện Việt- Đức”. 
Đồ án tốt nghiệp của em gồm ba phần:
Chương I: Cơ sở lý thuyết về hoạt động xúc tiến bán.
Chương II: Phân tích công tác xúc tiến bán hàng tại công ty cổ phần que hàn  điện 
Việt- Đức.
Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt  động xúc tiến bán  của 
công ty cổ phần que hàn điện Việt- Đức.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 44 trang
44 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2325 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp đẩy mạnh công tác xúc tiến bán hàng ở công ty cổ phần que hàn điện Việt - Đức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Một số biện pháp đẩy mạnh công tác 
xúc tiến bán hàng ở công ty cổ phần que 
hàn điện Việt- Đức 
Lời mở đầu 
 Trong những năm qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành 
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước 
ta đã có sự biến đổi sâu sắc và phát triển mạnh mẽ, trong đó các doanh nghiệp thuộc các 
thành phần kinh tế khác nhau cùng tồn tại, cạnh tranh với nhau và bình đẳng trước pháp 
luật. 
 Trước đây, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, Nhà nước can thiệp rất sâu vào 
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà nước quyết định tất cả các vấn đề kinh 
doanh như mặt hàng kinh doanh, đối tượng phân phối, giá cả, số lượng... và doanh nghiệp 
sẽ được bù đắp nếu làm ăn thua lỗ. Vì vậy, vấn đề tiêu thụ hàng hoá chỉ mang tính pháp 
lệnh và hình thức, không được quan tâm và thúc đẩy. 
 Hiện nay, môi trường kinh tế mới buộc các doanh nghiệp phải tổ chức tốt các hoạt 
động kinh doanh của mình, nắm bắt được các quy luật của cơ chế thị trường để từ đó đưa 
ra các quyết định đúng đắn, đảm bảo thu được lợi nhuận để có thể tồn tại và đứng vững. 
Thị trường là thách thức lớn lao đối với mỗi doanh nghiệp trong việc tiêu thụ hàng hoá. 
Doanh thu bán hàng có ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, nó là 
nguồn quan trọng để đảm bảo trang trải các khoản chi phí hoạt động kinh doanh, đảm bảo 
cho các doanh nghiệp có thể tái sản xuất giản đơn cũng như có thể tái sản xuất mở rộng, là 
nguồn để các doanh nghiệp có thể thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, ổn định tình hình tài 
chính doanh nghiệp...Vì vậy, để có thể đứng vững trên thương trường, thì các doanh 
nghiệp phải tổ chức tốt công tác xúc tiến bán hàng, có chiến lược tiêu thụ thích hợp cho 
phép doanh nghiệp chủ động thích ứng với môi trường, quyết định kịp thời khi có cơ hội, 
huy động tất cả các nguồn lực hiện có và lâu dài để có thể đạt hiệu quả cao trong kinh 
doanh. 
 Xuất phát từ quan điểm trên, trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần que hàn 
điện Việt- Đức em đã nghiên cứu, tìm hiểu về công tác xúc tiến bán hàng của công ty. 
Công ty đã sử dụng các hình thức xúc tiến bán hàng như một công cụ đắc lực phục vụ cho 
hoạt động kinh doanh của mình. Với sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ, nhân viên đang 
công tác tại công ty cổ phần que hàn điện Việt- Đức nói chung và các nhân viên phòng kế 
hoạch – kinh doanh nói riêng, cùng với sự hướng dẫn của các thầy cô giáo, em đã chọn đề 
tài: “ Một số biện pháp đẩy mạnh công tác xúc tiến bán hàng ở công ty cổ phần que 
hàn điện Việt- Đức”. 
 Đồ án tốt nghiệp của em gồm ba phần: 
 Chương I: Cơ sở lý thuyết về hoạt động xúc tiến bán. 
 Chương II: Phân tích công tác xúc tiến bán hàng tại công ty cổ phần que hàn điện 
Việt- Đức. 
 Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến bán của 
công ty cổ phần que hàn điện Việt- Đức. 
Phần I : Cơ sở lý thuyết về hoạt động xúc tiến bán 
I Tổng quan về hoạt động xúc tiến bán 
 Trong những năm trở lại đây do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và 
việc ứng dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất làm cho tình hình thị 
trường có nhiều thay đổi rõ rệt. Trên thị trường, các sản phẩm được đa dạng hoá ở mức độ 
rất cao, có rất nhiều sản phẩm mới ra đời mà người tiêu dùng không biết đến sự có mặt của 
chúng. Trong tình hình đó, các hoạt động của doanh nghiệp nhằm giới thiệu với khách 
hàng về sản phẩm của mình để khuyến khích họ mua hàng trở nên rất quan trọng. 
 Mặt khác, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì nhu cầu tiêu dùng của 
thị trường cũng ngày càng phát triển. Nhu cầu này không chỉ giới hạn ở việc tăng lên của 
số lượng và chất lượng hàng hoá cung ứng, mà còn thể hiện ở việc thoả mãn tâm lý, thị 
hiếu tiêu dùng của sản phẩm trong các dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng. 
 Trong nhiều trường hợp, các hoạt động xúc tiến bán hàng nhằm thoả mãn tâm lý 
mua hàng và tâm lý tiêu dùng, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để thúc đẩy bán hàng và 
nâng cao uy tín của doanh nghiệp. 
I.1 Khái niệm về xúc tiến bán 
 Xúc tiến bán là một thành phần của hỗn hợp Marketing nhằm thông tin, thuyết 
phục và nhắc nhở thị trường về sản phẩm hoặc người bán sản phẩm đó, với hy vọng ảnh 
hưởng đến thái độ và hành vi của người nhận tin. 
 Có năm hình thức xúc tiến bán là quảng cáo, khuyễn mãi, bán hàng trực tiếp, quan 
hệ công chúng và marketing trực tiếp. Mỗi hình thức có một đặc điểm riêng khiến cho nó 
có thể phát huy tác dụng tốt nhất trong những hoàn cảnh cụ thể. 
 Hiện nay, xúc tiến bán hàng là hoạt động không thể thiếu được trong hoạt động 
kinh doanh của doanh nghiệp. Trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, xúc tiến bán hàng sẽ 
giúp cho các doanh nghiệp có cơ hội phát triển các mối quan hệ thương mại với các bạn 
hàng trong và ngoài nước. 
 Xúc tiến bán hàng là công cụ hữu hiệu trong việc chiếm lĩnh thị trường và tăng tính 
cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp trên thị trường. 
 Xúc tiến bán hàng là cầu nối giữa khách hàng và doanh nghiệp thông qua xúc tiến 
bán, các doanh nghiệp có điều kiện nhìn nhận về ưu nhược điểm của hàng hoá, dịch vụ của 
doanh nghiệp mình. 
 Xúc tiến bán hàng góp phần kích thích lực lượng bán hàng của doanh nghiệp, nâng 
cao hiệu quả bán hàng 
I.2 Mục đích của xúc tiến bán 
 Xúc tiến bán có ba mục đích cơ bản là thông báo, thuyết phục và nhắc nhở. Tầm 
quan trọng của mỗi mục đích tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của doanh nghiệp. 
 Một sản phẩm có tính năng rất tuyệt vời sẽ không có ai mua nếu như không ai biết 
nó là gì, được bán ở đâu, tính năng của nó như thế nào. Do các kênh phân phối thường dài, 
một sản phẩm phải trải qua nhiều cấp trung gian mới đến tay người sử dụng cuối cùng. Vì 
lẽ đó, nhà sản xuất cần thông báo cho cả nhà trung gian lẫn người sử dụng cuối cùng về 
sản phẩm của mình. 
 Sự cạnh tranh ngày càng tăng lên giữa các hãng đã tạo nên sức ép ghê gớm đối với 
các doanh nghiệp. Không chỉ thông báo cho người tiêu dùng, các doanh nghiệp còn cần 
phải chứng minh sự ưu việt của sản phẩm của họ trước khách hàng, làm cho họ tin rằng 
sản phẩm của doanh nghiệp có khả năng đáp ứng yêu cầu khách hàng tốt hơn các sản 
phẩm cạnh tranh. Đó là mục đích thuyết phục của xúc tiến bán. 
 Những khách hàng đã mua sản phẩm của doanh nghiệp cũng cần được nhắc nhở để 
cho họ khỏi quên về sự sẵn có của sản phẩm này trên thị trường cũng như khả năng đáp 
ứng yêu cầu của sản phẩm. Những hoạt động như thế nhằm giữ chân khách hàng, làm cho 
họ ít suy nghĩ về sản phẩm cạnh tranh và tiếp tục mua sắm sản phẩm của doanh nghiệp khi 
có nhu cầu. 
I.3 Nội dung của hoạt động xúc tiến bán 
 Xúc tiến bán hàng kích thích người tiêu dùng mua sắm sản phẩm của doanh nghiệp 
nhiều hơn. Qua đó, doanh nghiệp có khả năng hướng dẫn thị hiếu của khách hàng. Vì vậy, 
để nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, một vấn 
đề quan trọng mang tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp 
là: doanh nghiệp phải tổ chức tốt hoạt động xúc tiến bán. 
I.3.1 Quảng cáo 
a) Khái niệm 
 Quảng cáo là những hoạt động truyền thông không mang tính cá nhân, thông qua 
một phương tiện truyền tin phải trả tiền. Có rất nhiều phương tiện quảng cáo như quảng 
cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng (phát thanh, truyền hình), in ấn (báo, tạp chí) 
biển hiệu ngoài trời (panô, áp-phích), các trang vàng niên giám điện thoại, bao bì sản 
phẩm, tờ rơi, catalô, tài liệu giới thiệu về doanh nghiệp. 
Quảng cáo bao gồm các hoạt động giới thiệu và truyền đi các thông tin về sản phẩm 
và hình ảnh của doanh nghiệp nhằm kích thích khách hàng tiêu thụ hàng hoá dịch vụ, nâng 
cao uy tín cho nhà kinh doanh và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường. 
 Quảng cáo là một công cụ Marketing và phương tiện thúc đẩy bán hàng rất quan 
trọng, quảng cáo có vai trò và ý nghĩa to lớn trong hoạt động kinh doanh. Trong các hoạt 
động xúc tiến bán thì quảng cáo là hoạt động xúc tiến quan trọng nhất. Nhờ có quảng cáo 
mà khối lượng hàng hoá tiêu thụ được của nhà kinh doanh tăng lên rõ rệt. Quảng cáo còn 
là phương tiện quan trọng giúp các doanh nghiệp đạt được mục tiêu của chiến lược 
Marketing như: lợi nhuận, thế lực và an toàn trong kinh doanh. 
b)Chức năng 
 - Thu hút sự chú ý của khách hàng với sản phẩm, doanh nghiệp. 
 - Thuyết phục khách hàng tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ 
 - Hướng dẫn, giáo dục tiêu dùng 
c) Yêu cầu và nguyên tắc quảng cáo 
 Để nâng cao hiệu quả của quảng cáo, chương trình quảng cáo cần thực hiện tốt 
những yêu cầu và nguyên tắc sau đây: 
 - Quảng cáo phải tiêu biểu, đặc trưng, độc đáo và có lượng thông tin cao. 
 - Quảng cáo phải bảo đảm tính nghệ thuật, kích thích mua hàng. 
 - Quảng cáo phải trung thực, đảm bảo tính pháp lý. 
 - Quảng cáo phải nhắc lại thường xuyên và đúng thời cơ. 
 - Quảng cáo phải thiết thực, hiệu quả và phù hợp với chi phí dành cho quảng cáo. 
d) Phương tiện quảng cáo 
 Phương tiện quảng cáo bao gồm các công cụ và cách thức chuyển tải thông tin từ 
nhà sản xuất đến với khách hàng. Để chọn phương tiện quảng cáo thì doanh nghiệp cần rõ 
mình muốn vươn tới tầm ảnh hưởng nào, với tần số lặp lại bao nhiêu và mức tác động cần 
có để đạt được những mục tiêu quảng cáo. Các phương tiện quảng cáo gồm rất nhiều loại 
phong phú và đa dạng. Những phương tiện thường được sử dụng để quảng cáo gồm có: 
 * Phương tiện in ấn: báo, tạp chí, ấn phẩm gửi trực tiếp. 
 - Báo chí: có rất nhiều loại báo chí: báo hàng ngày, hàng tuần, các chuyên san,...ưu 
điểm của quảng cáo trên báo là đảm bảo đưa những thông tin quảng cáo tới khu vực thị 
trường đã chọn theo vị trí địa lý. Mặt khác, quảng cáo trên báo thường dễ chuẩn bị và 
tương đối ít tốn kém khi sử dụng có lựa chọn. Hạn chế lớn nhất của quảng cáo trên báo là 
thời gian sống của quảng cáo quá ngắn và tính chất địa phương rõ nét của nó. 
 - Tạp chí được xuất bản định kỳ hàng tuần hoặc hàng tháng. Quảng cáo trên tạp chí 
có tính chọn lọc địa bàn và công chúng, độ tin cậy và uy tín cao, khả năng tái hiện tốt, tồn 
tại lâu, nhiều độc giả trung thành. Tuy nhiên khoảng thời gian giữa hai lần xuất bản thường 
dài, và có nhiều số xuất bản vô ích, không đảm bảo về vị trí quảng cáo. 
 - Quảng cáo qua ấn phẩm gửi trực tiếp như thư từ, thông báo, hồ sơ tài liệu, tập san, 
và quảng cáo in rời.... Quảng cáo bằng hình thức này thường gây ấn tượng mạnh cho 
khách hàng tuy nhiên số lượng người nhận quảng cáo bị hạn chế, chi phí quảng cáo khá 
cao. 
 * Phương tiện phát thanh, truyền hình: Radio, tivi 
 - Tivi: Quảng cáo qua ti vi có khả năng kết hợp khá hoàn chỉnh giữa âm thanh và 
màu sắc, hành động và ngôn ngữ, tác động tới cảm xúc, hấp dẫn sự chú ý và có phạm vi 
bao quát rộng. Nhược điểm của hình thức này là chi phí quá cao, ít có tính chọn lọc khán 
giả. 
 - Radio:là phương tiện truyền thông có tính đại chúng, có tính chọn lọc địa bàn và 
công chúng, chi phí thấp song sức thu hút của phương tiện quảng cáo này lại kém do chỉ có 
âm thanh, không có cấu trúc chuẩn, tiếp xúc thoáng qua. 
 * Quảng cáo ngoài trời và các phương tiện quảng cáo khác 
 - Biển quảng cáo, pano, áp phích: quảng cáo bằng hình thức này có lợi thế là thời 
gian tồn tại lâu, khả năng chọn vị trí cao, chi phí thấp. 
 Ngoài các phương tiện trên các nhà kinh doanh còn sử dụng và sáng tạo nhiều loại 
hình quảng cáo phong phú như: quảng cáo bằng đèn neon, người máy quảng cáo, quảng 
cáo bao bì... 
I.3.2 Bán hàng trực tiếp 
a) Khái niệm và những ưu nhược điểm của bán hàng trực tiếp 
 Bán hàng trực tiếp là hình thức thuyết trình sản phẩm do nhân viên của doanh 
nghiệp thực hiện trước khách hàng, có thể là mặt đối mặt hoặc thông qua điện thoại. Địa 
điểm thuyết trình có thể tại nhà riêng, tại công sở hoặc những nơi tập trung những người 
mua triển vọng. Bán hàng trực tiếp hoàn toàn đối lập với các hình thức quảng cáo, khuyến 
mại, quan hệ công chúng hay marketing trực tiếp. Nó cho phép người thuyết trình thấy 
được những phản ứng từ phía khách hàng khi nhân viên này giới thiệu sản phẩm. Vì lẽ đó, 
bán hàng trực tiếp được coi là một kênh thông tin hai chiều. 
 Cách thức truyền thông này làm cho bán hàng trực tiếp linh hoạt hơn các công cụ 
xúc tiến bán khác. Nhờ nghiên cứu địa điểm của khách hàng trước khi thuyết trình hoặc 
nhờ thấy được phản ứng của khách hàng trong khi thuyết trình, nhân viên bán hàng có thể 
thay đổi nội dung và phương pháp thuyết trình để phù hợp với nhu cầu của khách hàng. 
 Bán hàng trực tiếp có tính chọn lọc đối tượng tiếp xúc cao, nhờ đó giảm được 
những chi phí truyền thông cho những người không có quan tâm thực sự đến việc mua sắm 
sản phẩm của doanh nghiệp. 
 Một ưu điểm khác của bán hàng trực tiếp là thực sự tạo nên doanh số. Quảng cáo 
hay quan hệ công chúng có thể dịch chuyển khách hàng tiềm năng tới trạng thái gần quyết 
định mua hơn, còn bán hàng trực tiếp sẽ khiến khách hàng tiềm năng phải hành động do 
khả năng thuyết phục của bán hàng trực tiếp cao. 
 Hạn chế chủ yếu của bán hàng trực tiếp có chi phí cao do doanh nghiệp phải trả 
nhiều chi phí lớn như chi phí tuyển dụng, đào tạo, tài liệu chào hàng cũng như hoa hồng 
hay tiền thưởng cho nhân viên bán hàng. 
b) Phạm vi của bán hàng trực tiếp 
 Có hai kiểu bán hàng trực tiếp: bán hàng trong cửa hàng và bán hàng ngoài thực 
địa. Công việc bán hàng trong cửa hàng thường đơn giản hơn rất nhiều so với bán hàng 
ngoài thực địa. Các lực lượng bán hàng ngoài thực địa thường đại diện cho nhà sản xuất 
hay nhà bán sỉ để bán sản phẩm cho những khách hàng công nghiệp chứ không phải là các 
hộ gia đình. Trong một số ít trường hợp, lực lượng bán hàng cũng bán sản phẩm cho các 
hộ gia đình và người tiêu dùng cá nhân. 
c) Quá trình bán hàng trực tiếp 
 Quá trình bán hàng trực tiếp là một trình tự logic gồm bốn bước mà nhân viên bán 
hàng cần thực hiện khi chào hàng trước các người mua tiềm năng. 
Sơ đồ 1: Quy trình bán hàng trực tiếp 
 Bước đầu tiên trong qui trình bán hàng là thăm dò. Nó bao gồm việc nhận dạng 
khách hàng tiềm năng và thẩm tra tư cách như là xác định về sức mua, quyền hạn và sự sẵn 
lòng mua. 
 Tiền tiếp cận: trước khi tới thăm một khách hàng triển vọng, nhân viên bán hàng 
cần học thuộc lòng và nắm vững tất cả các thông tin, thói quen, sở thích về những cá nhân 
hay công ty mà họ sắp tiếp xúc. 
 Thuyết trình bán hàng là hoạt động chính diễn ra trong các lần liên lạc với khách 
hàng. Nhân viên bán hàng có thể áp dụng mô hình AIDA để dẫn người mua đi qua từng cấp 
độ sẵn sàng mua nhằm đạt được mục tiêu của mình. 
 - Chữ A (Attention) gây sự chú ý 
 - Chữ I (Interest) gợi mối quan tâm 
 - Chữ D ( Desire) tạo nên ước muốn 
 - Chữ A (Action) dẫn tới hành động 
Tiền tiếp 
cận 
Thuyết 
trình 
Dịch vụ 
hậu mãi 
Thăm dò 
 Dịch vụ hậu mãi: công việc bán hàng hiệu quả không dừng lại sau khi đã có được 
đơn đặt hàng từ khách hàng triển vọng. Sau khi có được đơn đặt hàng sẽ là một quá trình 
gồm rất nhiều hoạt động sau bán hàng nhằm xây dựng tiếng tốt về doanh nghiệp, xoá bỏ sự 
bất ổn về tâm lý và chuẩn bị cho những thương vụ tương lai. 
I.3.3 Khuyến mãi 
a) Khái niệm 
Khuyến mãi là các hoạt động kích thích nhu cầu mua sắm bằng cách đưa thêm các 
lợi ích cho khách hàng trong một giai đoạn. Khuyến mãi có thể định hướng tới người tiêu 
dùng hay nhà trung gian. Các hình thức phổ biến là các đợt giảm giá, tăng số lượng giá 
không đổi, bán hàng kèm quà tặng, hàng mẫu phát tặng, sổ xố, cuộc thi có thưởng, triển 
lãm thương mại, trưng bày trong cửa hàng, thẻ khuyến mãi. 
b) Mục tiêu khuyến mãi 
Có ba loại mục tiêu chung là: 
 - Kích thích nhu cầu của khách hàng công nghiệp hay người tiêu dùng cá nhân. 
 - Cải thiện kết quả hoạt động marketing của nhà trung gian và lực lượng bán hàng. 
 - Hỗ trợ cho quảng cáo và lực lượng bán hàng. 
Những mục tiêu cụ thể hơn là: 
 - Khuyến khích dùng thử sản phẩm mới 
 - Thay đổi thói quen mua sắm 
 - Hấp dẫn những khách hàng mới 
 - Kích thích khách hàng mua nhiều hơn 
 - Chống lại các hoạt động khuyến mãi của đối thủ 
 - Tăng cường việc mua sắm theo cảm xúc bất chợt 
 - Tăng cường sự hợp tác từ nhà bán lẻ 
c) Lựa chọn công cụ khuyến mãi 
 Để giúp doanh nghiệp đạt được các mục tiêu xúc tiến bán thì việc quyết định nên sử 
dụng công cụ khuyến mại nào là một bước rất quan trọng. Các yếu tố cần xem xét bao 
gồm: 
 - Đặc điểm của khách hàng mục tiêu: người tiêu dùng, nhà trung gian ? người lao 
động chân tay hay tầng lớp có thu nhập cao. 
 - Mục tiêu khuyến mãi của doanh nghiệp 
- Đặc điểm của sản phẩm 
- Chi phí của công cụ 
- Tình hình kinh tế hiện tại 
Đối với người tiêu dùng công cụ khuyến mãi thường được sử dụng là: thẻ khuyến 
mãi, tăng số lượng giá không đổi, sổ xố, cuộc thi, trình diễn tại điểm mua sắm, trình diễn 
sản phẩm, triển lãm thương mại, hội chợ, bán hàng kèm quà tặng, hồi khấu tiền mặt, hàng 
phát tặng miễn phí. 
Đối với các nhà trung gian thường áp dụng các hình thức: triển lãm thương mại, hội 
chợ, tặng sản phẩm miễn phí, cuộc thi bán hàng, đào tạo nhân viên cho nhà trung gian, 
giảm giá vì quảng cáo sản phẩm cho nhà sản xuất... 
I.3.4 Quan hệ với công chúng 
 Quan hệ công chúng bao gồm nhiều hình thức truyền thông nhằm tạo nên thái độ 
thân thiện đối với doanh nghiệp và những sản phẩm của doanh nghiệp mà thường không 
nói rõ một thông điệp bán hàng cụ thể nào. Khán giả mục tiêu có thể là khách hàng, cổ 
đông, cơ quan nhà nước hay các nhóm dân cư có mối quan tâm riêng. Các hình thức có thể 
là bản tin, báo cáo hàng năm, vận động hành làng hoặc tài trợ cho các sự kiện từ thiện hoặc 
thể thao văn hóa. 
 Quan hệ công chúng của doanh nghiệp có nhiều mục đích, kể cả đạt được việc 
tuyên truyền thuận lợi cho doanh nghiệp, tạo nên một hình ảnh tốt cho doanh nghiệp và xử 
lý những tin đồn, những câu chuyện bất lợi với doanh nghiệp. 
 Thực tiễn kinh doanh chỉ ra rằng, việc giải quyết tốt mối quan hệ công chúng có ý 
nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thực chất của các mối 
quan hệ công chúng là mối quan hệ giữa doanh nghiệp với đội ngũ bán hàng, khách hàng 
và những tổ chức, cá nhân có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 
Hiệu quả của các hoạt động này có thể được biểu hiện trực tiếp hoặc có thể phát huy trong 
một thời gian dài. 
Các hoạt động tiếp xúc giữa doanh nghiệp với bên ngoài rất phong phú, đa dạng 
được thực hiện bằng các hình thức chủ yếu sau đây: 
- Tổ chức hội nghị khách hàng theo định kỳ hoặc đột xuất 
- Tổ chức hội nghị của các nhà trung gian phân phối (bán buôn, bán lẻ, đại lý) 
- Tổ chức hội nghị các nhà sản xuất kinh doanh 
- Tổ chức những cuộc thăm hỏi khách hàng và đội ngũ những trung gian phân phối 
- Tổ chức tiếp xúc và duy trì mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các tổ chức cá nhân 
có vị trí, thế lực và uy tín với xã hội, đặc biệt là các nhà chính trị, ngoại giao, các nghệ sĩ, 
vận động viên nổi tiếng. 
- Giải quyết tốt mối quan hệ với giới báo chí, tuyên truyền nhằm phát huy ảnh 
hưởng của doanh nghiệp. 
I.3.5 Marketing trực tiếp 
 Marketing trực tiếp là những hoạt động truyền thông có tính tương tác, sử dụng một 
hay nhiều phương tiện truyền thông để tạo nên những đáp ứng có thể đo được hoặc những 
giao dịch ở bất kỳ địa điểm nào. Marketing trực tiếp vừa thuộc về công cụ xúc tiến bán lẫn 
công cụ phân phối trong hỗn hợp marketing. Các hình thức phổ biến là bán hàng qua thư, 
bán hàng qua catalog, marketing từ xa (bán hàng qua điện thoại), bán hàng qua tivi và 
internet marketing( bán hàng trực tuyến). 
 - Bán hàng qua thư: thông qua bưu điện doanh nghiệp gửi đến các khách hàng 
những thư chào hàng, tờ quảng cáo, băng ghi âm, băng ghi hình, đĩa mềm máy tính về hình 
ảnh và các sản phẩm của công ty. Ví dụ công ty thiết bị tập thể dục đã gửi qua đường bưu 
điện băng video giới thiệu công cụ và lợi ích của thiết bị tập thể dục ở nhà, trung tâm 
Metro gửi các tờ quảng cáo giới thiệu các loại sản phẩm trong tuần và giá của các sản phẩm đó 
tới các k