Cũng như những doanh nghiệp công nghiệp khác. Công ty cổ phần Dệt 10-10
Hà nội cũng rất quan tâm tới vấn đề tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm của Công ty trong môi trường vừa cạnh tranh, vừa hợp tác. Thị
trường ngành Dệt đang có những cơn sóng gió lớn. Việc tìm ra giải pháp hữu
hiệu để đứng vững và phát triển luôn là vấn đề mà Công ty hết sức quan tâm và
là bài toán phải giải quyết.
Vận dụng lý luận đã học, những vấn đề liên quan đến thị trường tiêu thụ
sản phẩm kết hợp với thực tiễn sản xuất kinh doanh của Công ty đồng thời được
sự giúp đỡ của thầy giáo Mai Văn Bưu em chọn đề tài :
“Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm tại Công ty cổ phần Dệt 10-10 “.
Do trình độ còn hạn chế, thời gian thực tập chưa nhiều lên luận văn không
thể chánh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của ban lãnh
đạo Công ty, của thầy giáo hướng dẫn để luận văn của em phong phú về lý luận
và sát với thực tế hơn.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn chia làm 3 phần:
Phần I: Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm là nhiệm cơ bản
và lâu dài của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Phần II: Thực trạng về thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty cổ phần
Dệt10- 10.
Phần III: Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ
sản phẩm tại Công ty Dệt 10-10.
74 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 1955 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm tại Công ty cổ phần Dệt 10-10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng và một số biện pháp
nhằm duy trì và mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm tại
Công ty cổ phần Dệt 10-10
1
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam sau hơn 40 năm chịu ảnh hưởng của cơ chế kế
hoạch hoá quan liêu bao cấp, nay đã và đang thích nghi với cơ chế mới - cơ chế
thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
Nhìn lại chặng đường của sự đổi mới đó cũng thấy rất nhiều điều phải ghi
nhận. Đó là đơn vị kinh tế quốc doanh do quen với phương thức làm ăn cũ
không bắt kịp cùng với phương thức làm ăn mới mà thị trường đang đòi hỏi, đã
lâm vào tình trạng thua lỗ, có những doanh nghiệp dẫn đến giải thể hay phá sản.
Song bên cạnh đó lại có rất nhiều doanh nghiệp rất năng động, tích cực nghiên
cứu học hỏi, áp dụng đúng phương thức đầu tư kinh doanh mới nên không
những đứng vững trên thị trường mà còn phát triển ngày càng với quy mô lớn
và lợi nhuận thu về ngày càng cao. Trong số đó ngày càng nhiều các doanh
nghiệp mới xuất hiện.
Mỗi doanh nghiệp là tế bào cơ bản tạo nên hệ thống kinh tế quốc dân của
mỗi nước. Doanh nghiệp có làm ăn khá mới giúp cho đất nước được phồn vinh
phát triển. Vì vậy các chủ doanh nghiệp phải biết cách kinh doanh, để làm giầu
cho bản thân, cho doanh nghiệp và tổ quốc.
Muốn được kết quả như vậy các doanh nghiệp phải tìm cho mình một thị
trường tiêu thụ sản phẩm thích hợp. Các doanh nghiệp muốn tiêu thụ được nhiều
sản phẩm thì thị trường của doanh nghiệp phải được mở rộng. Chính vì vậy
trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để duy trì thị trường
truyền thống và mở rộng thị trường mới.
Thị trường ngày càng trở nên quan trọng đối với các doanh nghiệp, cơ chế
thị trường là cơ chế cạnh tranh có đào thải, ai hiểu rõ được về thị trường, nắm
bắt được các cơ hội của thị trường thì sẽ dành thắng lợi trong kinh doanh. Doanh
nghiệp nào sản xuất ra được các sản phẩm thị trường cần và phù hợp với nhu
2
cầu thị hiếu khách hàng thì doanh nghiệp đó có khả năng cạnh tranh và đứng
vững trên thị trường.
Như vậy thị trường là rất quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến mọi
hoạt động của doanh nghiệp. Nhất là trong giai đoạn này và trong tương lai.
Cũng như những doanh nghiệp công nghiệp khác. Công ty cổ phần Dệt 10-10
Hà nội cũng rất quan tâm tới vấn đề tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm của Công ty trong môi trường vừa cạnh tranh, vừa hợp tác. Thị
trường ngành Dệt đang có những cơn sóng gió lớn. Việc tìm ra giải pháp hữu
hiệu để đứng vững và phát triển luôn là vấn đề mà Công ty hết sức quan tâm và
là bài toán phải giải quyết.
Vận dụng lý luận đã học, những vấn đề liên quan đến thị trường tiêu thụ
sản phẩm kết hợp với thực tiễn sản xuất kinh doanh của Công ty đồng thời được
sự giúp đỡ của thầy giáo Mai Văn Bưu em chọn đề tài :
“Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm tại Công ty cổ phần Dệt 10-10 “.
Do trình độ còn hạn chế, thời gian thực tập chưa nhiều lên luận văn không
thể chánh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của ban lãnh
đạo Công ty, của thầy giáo hướng dẫn để luận văn của em phong phú về lý luận
và sát với thực tế hơn.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn chia làm 3 phần:
Phần I : Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm là nhiệm cơ bản
và lâu dài của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Phần II : Thực trạng về thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty cổ phần
Dệt10-10.
Phần III : Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ
sản phẩm tại Công ty Dệt 10-10.
3
Phần I
DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM LÀ
NHIỆM VỤ CƠ BẢN VÀ LÂU DÀI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG :
1. Khái niệm về thị trường.
Thị trường ra đời gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, nó là môi trường để
tiến hành các hoạt động giao dịch mang tính chất thương mại của mọi doanh
nghiệp công nghiệp. Trong một xã hội phát triển, thị trường không nhất thiết chỉ
là địa điểm cụ thể gặp gỡ trực tiếp giữa người mua và người bán mà doanh
nghiệp và khách hàng có thể chỉ giao dịch, thoả thuận với nhau thông qua các
phương tiện thông tin viễn thông hiện đại. Cùng với sự phát triển của sản xuất
hàng hoá, khái niệm thị trường ngày càng trở nên phong phú và đa dạng. Có
một số khái niệm phổ biến về thị trường như sau:
1) Thị trường là nơi mua bán hàng hoá, là nơi gặp gỡ để tiến hành hoạt
động mua bán giữa người mua và người bán.
2) Thị trường là biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các
quyết định của các gia đình về tiêu dùng các mặt hàng nào, các quyết định của
các doanh nghiệp về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và quyết định của
người lao động về việc làm là bao lâu, cho ai đều được quyết định bằng giá cả.
3) Thị trường là sự kết hợp giữa cung và cầu, trong đó những người mua
và người bán bình đẳng cùng cạnh tranh. Số lượng người mua và người bán
nhiều hay ít phản ánh quy mô của thị trường lớn hay nhỏ. Việc xác định nên
mua hay bán bàng hoá và dịch vụ với khối lượng và giá cả bao nhiêu do quan hệ
cung cầu quyết định. Từ đó ta thấy thị trường còn là nơi thực hiện sự kết hợp
giữa hai khâu sản xuất và tiêu dùng hàng hoá.
4) Thị trường là phạm trù riêng của nền sản xuất hàng hoá. Hoạt động cơ
bản của thị trường được thể hiện qua 3 nhân tố có mối quan hệ hữu cơ với nhau
4
nhu cầu hàng hoá dịch vụ, cung ứng hàng hoá dịch vụ và giá cả hàng hoá dịch
vụ.
5) Khái niệm thị trường hoàn toàn không tách rời khái niệm phân công lao
động xã hội. Các Mác đã nhận định “hễ ở đâu và khi nào có sự phân công lao
động xã hội và có sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy sẽ có thị trường. Thị
trường chẳng qua là sự biểu hiện của phân công lao động xã hội và do đó có thể
phát triển vô cùng tận ”
6) Thị trường theo quan điểm Maketing, được hiểu là bao gồm tất cả
những khách hàng tiềm ẩn cùng có nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và
có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó.
Tóm lại, thị trường được hiểu là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu của một loại
hàng hoá, dịch vụ hàng hoá hay cho một đối tác có giá trị. Ví dụ như thị trường
sức lao động bao gồm những người muốn đem sức lao động của mình để đổi lấy
tiền công hoặc hàng hoá. Để công việc trao đổi trên được thuận lợi, dần đã xuất
hiện những tổ chức kiểu văn phòng, trung tâm giới thiệu, xúc tiến việc làm cho
người lao động. Cũng tương tự như thế, thị trường tiền tệ đem lại khả năng vay
mượn, cho vay tích luỹ tiền và bảo đảm an toàn cho các nhu cầu tài chính của
các tổ chức, giúp họ có thể hoạt động liên tục được. Như vậy điểm lợi ích của
người mua và người bán hay chính là gía cả được hình thành trên cơ sở thoả
thuận và nhân nhượng lẫn nhau giữa cung và cầu.
2. Phân loại và phân đoạn thị trường :
2.1. Phân loại thị trường :
Một trong những điều kiện cơ bản để sản xuất kinh doanh có hiệu quả là
doanh nghiệp phải hiểu biết thị trường và việc nghiên cứu phân loại thị trường là
rất cần thiết. Có 4 cách phân loại thị trường phố biến như sau:
Phân loại theo phạm vi lãnh thổ
- Thị trường địa phương: Bao gồm tập hợp khách hàng trong phạm vi địa
phương nơi thuộc địa phận phân bố của doanh nghiệp.
5
- Thị trường vùng: Bao gồm tập hợp những khách hàng ở một vùng địa lý
nhất định. Vùng này được hiểu như một khu vực địa lý rộng lớn có sự đồng nhất
về kinh tế - xã hội.
- Thị trường toàn quốc: Hàng hoá và dịch vụ được lưu thông trên tất cả
các vùng, các địa phương của một nước.
- Thị trường quốc tế: Là nơi diễn ra các giao dịch buôn bán hàng hoá và
dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau.
Phân loại theo mối quan hệ giữa người mua và người bán
- Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Trên thị trường có nhiều người mua và
nhiều người bán cùng một loại hàng hoá, dịch vụ. Hàng hoá đó mang tính đồng
nhất và giá cả là do thị trường quyết định.
- Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Trên thị trường có nhiều người
mua và người bán cùng một loại hàng hoá, sản phẩm nhưng chúng không đồng
nhất. Điều này có nghĩa loại hàng hoá sản phẩm đó có nhiều kiểu dáng, mẫu mã,
bao bì, nhãn hiệu kích thước... khác nhau. Giá cả hàng hoá được ấn định một
cách linh hoạt theo tình hình tiêu thụ trên thị trường.
- Thị trường độc quyền: Trên thị trường chỉ có một nhóm người liên kết
với nhau cùng sản xuất ra một loại hàng hoá. Họ có thể kiểm soát hoàn toàn số
lượng dự định bán ra trên thị trường cũng như giá cả của chúng.
Phân loại theo mục đích sử dụng của hàng hoá
- Thị trường tư liệu sản xuất: Đối tượng hàng hoá lưu thông trên thị
trường là các loại tư liệu sản xuất như nguyên vật liệu, năng lượng, động lực,
máy móc thiết bị...
- Thị trường tư liệu tiêu dùng: Đối tượng hàng hoá lưu thông trên thị
trường là các vật phẩm tiêu dùng phục vụ trực tiếp nhu cầu tiêu dùng của dân cư
như quần áo, các loại thức ăn chế biến, đồ dùng dân dụng...
Phân loại theo quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp
- Thị trường đầu vào: Là nơi doanh nghiệp thực hiện các giao dịch nhằm
mua các yếu tố đầu vào cần thiết cho sản xuất. Có bao nhiêu yếu tố đầu vào thì
6
sẽ có bấy nhiêu thị trường đầu vào (thị trường lao động, thị trường tài chính -
tiền tệ, thị trường khoa học công nghệ, thị trường bất động sản...).
- Thị trường đầu ra: Là nơi doanh nghiệp tiến hành các giao dịch nhằm
bán các sản phẩm đầu ra của mình. Tuỳ theo tính chất sử dụng sản phẩm của
doanh nghiệp mà thị trường đầu ra là tư liệu sản xuất hay thị trường tư liệu tiêu
dùng.
2.2. Phân loại thị trường :
Hiện nay, dân số trên thế giới đã đạt con số 6 tỷ người - một con số khổng
lồ và được phân bố trên phạm vi rộng với những sở thích thói quen khác nhau.
Mọi doanh nghiệp đều nhận thức được rằng làm cho tất cả mọi người ưa thích
sản phẩm của mình ngay là một điều không tưởng và không thể được. Trước hết,
họ cần phải khôn khéo tập trung vào phục vụ một bộ phận nhất định của thị
trường, tìm mọi cách hấp dẫn và chinh phục nó. Từ đó xuất hiện khái niệm
“Phân đoạn thị trường”. Nó được hiểu việc phân chia thị trường thành những
nhóm người mua hàng khác nhau theo độ tuổi giới tính, mức thu nhập, tính
cách, thói quen, trình độ học vấn ...
Không hề có một công thức phân đoạn thị trường thống nhất cho tất cả
các doanh nghiệp mà họ buộc phải thử các phương án phân đoạn khác nhau
trên cơ sở kết hợp các tham biến khác nhau theo ý tưởng của riêng mình. Tuy
nhiên, có thể tóm lại 4 nguyên tắc phân đoạn các thị trường tiêu dùng như sau :
Nguyên tắc địa lý
- Nguyên tắc này đòi hỏi chia cắt thị trường thành các khu vực địa lý khác
nhau như quốc gia, tỉnh, thành phố, thị xã, miền..., thành các khu vực có mật độ
dân số khác nhau như thành thị, nông thôn, thành các khu vực có trình độ dân trí
khác nhau như miền núi, đồng bằng...
Nguyên tắc nhân khẩu học
Phân đoạn thị trường theo nguyên tắc nhân khẩu học là việc phân chia thị
trường thành những nhóm căn cứ vào biến nhân khẩu học như giới tính, tuổi tác,
quy mô gia đình, giai đoạn của chu kỳ gia đình, mức thu nhập, loại nghề nghiệp,
trình độ văn hoá, tôn giáo tín ngưỡng và dân tộc. Đây là các biến phổ biến nhất
7
làm cơ sở để phân biệt các Phân đoạn thị trường theo phương pháp nhân khẩu
học là việc phân chia thị trường thành những nhóm căn cứ vào biến nhân khẩu
như giới tính, mức thu nhập, tuổi tác, quy mô gia đình, giai đoạn của chu kỳ gia
đình, loại nghề nghiệp, trình độ học vấn tôn giáo, tín ngưỡng và dân tộc. Đây là
các biến phổ biến nhất làm cơ sở để phân biệt các nhóm người tiêu dùng. Điều
này có thể lý giải bởi sở thích, mong muốn hay nhu cầu của khách hàng có liên
quan chặt chẽ tới đặc điểm nhân khẩu học. Hơn nữa các biến này dễ đo lường,
đơn giản và dễ hiểu hơn các biến khác.
- Biến giới tính: Đã được áp dụng từ lâu trong việc phân đoạn các thị
trường thời trang quần áo, mỹ phẩm, sách báo... Ở đây có sự khác biệt khá rõ nét
trong thị hiếu tiêu dùng giữa nam và nữ.
- Tuổi tác khác nhau cũng dẫn đến những nhu cầu khác nhau. Ví dụ như
thị trường kem đánh răng đối với trẻ em: cần chú ý một số tiêu thức như độ ngọt
cao, có thể nuốt được và chống sâu răng, đối với thanh niên cần có nhu cầu về
làm bóng, trắng răng và hương thơm, đối với người già nổi bật là nhu cầu làm
cứng và chắc răng...
- Cuối cùng, việc doanh nghiệp có tiêu thụ được sản phẩm của mình được
hay không lại phụ thuộc vào khả năng thanh toán của khách hàng có nhu cầu.
Mức thu nhập của người dân có cao thì khả năng thanh toán mới lớn. Nhiều
doanh nghiệp đã áp dụng phương pháp giá phân biệt cho các tầng lớp lao động
trong xã hội và đã thu được nhiều thành công.
Nguyên tắc hành vi
Phân đoạn thị trường theo nguyên tắc hành vi là việc phân chia người mua
thành nhiều nhóm khác nhau theo các biến lý do mua hàng, lợi ích mong muốn
thu được, tình trạng người sử dụng, cường độ tiêu dùng, mức độ trung thành,
mức độ sẵn sàng chấp nhận hàng và thái độ với món hàng đó.
Có nguyên tắc này bởi vì người tiêu dùng quyết định mua hàng hoá nhằm
thoả mãn một lợi ích mong đợi nào đó. Nếu sản phẩm đủ sức hấp dẫn, họ sẽ trở
thành khách hàng thường xuyên và trung thành của doanh nghiệp. Một doanh
nghiệp muốn đứng vững trên thị trường thì điều cần thiết không phải là đẩy
mạnh tiêu thụ mà phải nhận biết, hiểu kỹ lưỡng hành vi của khách hàng để đáp
8
ứng đúng thị hiếu của từng nhóm khách hàng một và từ đó sản phẩm sẽ tự được
tiêu thụ trên thị trường.
Nguyên tắc tâm lý
Phân đoạn thị trường theo nguyên tắc tâm lý là việc phân chia người mua
thành những nhóm theo đặc điểm giai tầng xã hội, lối sống và đặc tính nhân
cách.
Nguồn gốc giai tầng có ảnh hưởng mạnh đến sở thích của con người đặc
biệt là đối với quần áo, đồ dùng dân dụng, thói quen nghỉ ngơi, đi du lịch, đọc
sách báo... Những người thuộc tầng lớp trung lưu thường đi tìm những sản phẩm
hàng đầu, hàm chứa nhiều giá trị thẩm mĩ độc đáo và thậm chí cả cách chơi chữ,
còn những người thuộc tầng lớp hạ lưu lại vừa lòng với thông thường nhất, phù
hợp với túi tiền ít ỏi của mình. Ngoài ra phong cách hay lối sống hàng ngày
cũng được thể hiện khá rõ trong cách tiêu dùng của người dân. Những người “cổ
hủ“ thường thích những chiếc quần bò với kiểu cách giản dị, tiện lợi, hay những
người năng động, lại là những người thích các loại xe ô tô dáng thể thao khoẻ
mạnh. Nhiều doanh nghiệp khi thiết kế sản xuất hàng hoá dịch vụ đã đưa vào
những tính chất và đặc tính làm vừa lòng chính những người này.
3. Vai trò và chức năng của thị trường
3.1. Vai trò của thị trường
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp góp phần vào việc thoả mãn
các nhu cầu của thị trường, kích thích sự ra đời của các nhu cầu mới và nơng cao
chất lượng nhu cầu... Tuy nhiên trong cơ chế thị trường, thị trường có vai trò đặc
biệt quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thị
trường vừa là động lực, vừa là điều kiện, vừa là thước đo kết quả và hiệu quả
kinh doanh của các doanh nghiệp
- Là động lực: Thị trường đặt ra các nhu cầu tiêu dùng, buộc các doanh
nghiệp nếu muốn tồn tại được phải luông nắm bắt được các nhu cầu đó và định
hướng mục tiêu hoạt động cũng phải xuất phát từ những nhu cầu đó. Ngày nay,
mức sống của người dân được tăng lên một cách rõ rệt do đó khả năng thanh
toán của họ cũng cao hơn. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất kinh doanh thay nhau
9
ra đời cạnh tranh dành giật khách hàng một cách gay gắt bởi vì thị trường có
chấp nhận thì doanh nghiệp mới tồn tại được nếu ngược lại sẽ bị phá sản. Vậy
thị trường là động lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Là điều kiện: Thị trường bảo đảm cung ứng có hiệu quả các yếu tố cần
thiết để doanh nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình. Nếu
doanh nghiệp có nhu cầu về một loại yếu tố sản xuất nào đó thì tình hình cung
ứng trên thị trường sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tiêu cực hoặc tích cực tới hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy thị trường là điều kiện sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Là thước đo: Thị trường cũng kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả
của các phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong qua trình hoạt
động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với các trường
hợp khó khăn đỏi hỏi phải có sự tính toán cân nhắc trước khi ra quyết định. Mỗi
một quyết định đều ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của các doanh
nghiệp. Thị trường có chấp nhận, khách hàng có ưa chuộng sản phẩm hàng hoá
của doanh nghiệp thì mới chứng minh được phương án kinh doanh đó là có hiệu
quả và ngược lại. Vậy thị trường là thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Như vậy thông qua thị trường (mà trước hết là hệ thống giá cả) các doanh
nghiệp có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực. Trên thị trường, giá cả
hàng hoá và dịch vụ, giá cả các yếu tố đầu vào (như máy móc thiết bị, nguyên
vật liệu đất đai lao động, vốn... ) luôn luôn biến động nên phải sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực để tạo ra các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng kịp thời nhu cầu
hàng hoá của thị trường và xã hội.
3.2. Chức năng của thị trường
Chức năng thừa nhận
Nếu sản phẩm doanh nghiệp sản xuất tiêu thụ được trên thị trường, tức là
khi đó hàng hoá của doanh nghiệp đã được thị trường chấp nhận, lúc ấy sẽ tồn
tại một lượng khách hàng nhất định có nhu cầu và sãn sàng trả tiền để có hàng
10
hoá nhằm thoả mãn nhu cầu đó và quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp nhờ
đó mà cũng được thự hiện. Thị trường thừa nhận tổng khối lượng hàng hoá và
dịch vụ đưa ra giao dịch, tức thừa nhận giá trị và giá trị sử dụng của chúng,
chuyển giá trị cá biệt thành giá trị xã hội. Sự phân phối và phân phối lại các
nguồn lực nói nên sự thừa nhận của thị trường.
Chức năng này đòi hỏi các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh
doanh phải tìm hiểu kỹ thị trường, đặc biệt là nhu cầu thị trường. Xác định cho
được thị trường cần gì với khối lượng bao nhiêu...
Chức năng thực hiện của thị trường
Thông qua các hoạt động trao đổi trên thị trường, người bán và người mua
thực hiện được các mục tiêu của mình. Người bán nhận tiền và chuyển quyền sở
hữu cho người mua. Đổi lại, người mua trả tiền cho người bán để có được giá trị
sử dụng của hàng hoá. Tuy nhiên, sự thể hiện về gía trị chỉ xảy ra khi thị trường
đã chấp nhận giá trị sử dụng của hàng hoá. Do đó, khi sản xuất hàng hoá và dịch
vụ doanh nghiệp không chỉ tìm mọi cách để giảm thiểu các chi phí mà còn phải
chú ý xem lợi ích đem lại từ sản phẩm có phù hợp với nhu cầu thị trường hay
không.
Như vậy thông qua chức năng thực hiện của thị trường, các hàng hoá và
dịch vụ hình thành nên các giá trị trao đổi của mình để làm cơ sở cho việc phân
phối các nguồn lực.
Chức năng điều tiết và kích thích của thị trường
Cơ chế thị trường sẽ điều tiết việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế , tức là kích
thích các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh vào các lĩnh vực có mức lợi nhuận
hấp dẫn, có tỷ suất lợi nhuận cao, tạo ra sự di chuyển sản xuất từ ngành này sang
ngành khác. Thể hiện rõ nhất của chức năng điều tiết là sự đào thải trong quy
luật cạnh tranh. Doanh nghiệp nào, bằng chính nội lực của mình, có thể thoả
mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường, phản ứng một cách kịp thời, linh hoạt, sáng
tạo với các biến động của thị trường thì sẽ tồn tại và phát triển, ngược lại sẽ bị
11
phá sản. Ngoài ra thị trường còn hướng dẫn người tiêu dùng sử dụng theo mục
đích có lợi nhất nguồn ngân sách của mình.
Chức năng này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm bắt cho được chu kỳ
sống của sản phẩm, để xem sản phẩm đang ở giai đoạn nào, tức lã xem sét mức
độ hấp dẫn của thị trường đến đâu để từ đó có các chính sách phù hợp.
Chức năng thông tin của thị trường
Chức năng này được thể hiện ở chỗ, thị trường chỉ cho người sản xuất biết
nên sản xuất hàng hoá và dịch vụ nào, bằng cách nào và với khối lượng bao
nhiêu để đưa vào thị trường tại thời điểm nào