Việt Nam vốn là một đất nước bị xâm lược trong thời gian dài do vậy
sau khi giành độc lập đã gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế cũng
như các lĩnh vực khác. Hiện nay trong thời kỳ đổi mới , Việt Nam có rất
nhiều vấn đề kinh tế xã hội đang đặt ra cần được giải quyết. Một mặt, chúng
ta cố gắng huy động mọi tiềm năng để đưa đất nước trở thành một nước
công nghiệp có nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao.
Mặt khác lại phải luôn tỉnh táo để hướng sự phát triển này không đi chệch
mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội , trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Do
vậy những cán bộ quản lý trong tổ chức là những người gánh trên vai trọng
trách nặng nề để đưa đất nước đi lên hội nhập với thế giới.
Ngay từ khi Đảng ra đời thì vấn đề nâng cao chất lượng cán bộ quản lý
đã được đặt lên hàng đầu và ngày càng được chú trọng nhằm đáp ứng yêu
cầu đổi mới của đất nước. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nứơc ta
đã có những chủ trương, chính sách nhằm đổi mới cán bộ quản lý nói chung
và từng bộ phận, lĩnh vực nói riêng cũng như từng bước củng cố, đổi mới,
hoàn thiện, phát triển và nâng cao đội ngũ cán bộ này trong từng tổ chức của
mình. Tuy nhiên muốn thực hiện một cách có hiệu quả nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của tổ chức thì việc đưa ra những chủ trương, chính sách
đúng đắn phải gắn liền với thực tiễn cũng như đòi hỏi đang đặt ra, đồng thời
cũng phải nhận rõ thuận lợi cũng như những khó khăn mà trong bối cảnh
thực tế từng thời kỳ. Qua đó, ta thấy vai trò của cán bộ quản lý trong tổ chức
là rất quan trọng. Nó tác động các thành viên trong tổ chức và cũng là nhân
tố quan trọng quyết định tới kết quả mà tổ chức sẽ đạt được.
32 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2164 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ tổ chức ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng cán bộ tổ chức ở Việt Nam hiện
nay
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam vốn là một đất nước bị xâm lược trong thời gian dài do vậy
sau khi giành độc lập đã gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế cũng
như các lĩnh vực khác. Hiện nay trong thời kỳ đổi mới , Việt Nam có rất
nhiều vấn đề kinh tế xã hội đang đặt ra cần được giải quyết. Một mặt, chúng
ta cố gắng huy động mọi tiềm năng để đưa đất nước trở thành một nước
công nghiệp có nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao.
Mặt khác lại phải luôn tỉnh táo để hướng sự phát triển này không đi chệch
mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội , trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Do
vậy những cán bộ quản lý trong tổ chức là những người gánh trên vai trọng
trách nặng nề để đưa đất nước đi lên hội nhập với thế giới.
Ngay từ khi Đảng ra đời thì vấn đề nâng cao chất lượng cán bộ quản lý
đã được đặt lên hàng đầu và ngày càng được chú trọng nhằm đáp ứng yêu
cầu đổi mới của đất nước. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nứơc ta
đã có những chủ trương, chính sách nhằm đổi mới cán bộ quản lý nói chung
và từng bộ phận, lĩnh vực nói riêng cũng như từng bước củng cố, đổi mới,
hoàn thiện, phát triển và nâng cao đội ngũ cán bộ này trong từng tổ chức của
mình. Tuy nhiên muốn thực hiện một cách có hiệu quả nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của tổ chức thì việc đưa ra những chủ trương, chính sách
đúng đắn phải gắn liền với thực tiễn cũng như đòi hỏi đang đặt ra, đồng thời
cũng phải nhận rõ thuận lợi cũng như những khó khăn mà trong bối cảnh
thực tế từng thời kỳ. Qua đó, ta thấy vai trò của cán bộ quản lý trong tổ chức
là rất quan trọng. Nó tác động các thành viên trong tổ chức và cũng là nhân
tố quan trọng quyết định tới kết quả mà tổ chức sẽ đạt được.
Với mục đích nghiên cứu, tìm hiểu các biện pháp để nâng cao chất
lượng cán bộ quản lý trong tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới ở nước ta
hiện nay, em xin chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng cán bộ tổ chức ở Việt Nam hiện nay” cho bài viết này. Qua nghiên
cứu, với đề tài này sẽ giúp em bổ sung kiến thức về lĩnh vực quản lý, tạo
điều kiện để áp dụng những kiến thức này vào trong thực tế.
NỘI DUNG
CHƯƠNG1: TỔNG QUAN VỀ CÁN BỘ QUẢN LÝ
I. Cán bộ quản lý và vai trò của cán bộ quản lý
1. Khái niệm về cán bộ quản lý
Do tính đặc thù của mỗi quốc gia khác nhau nên khái niệm cán bộ quản
lý giữa các nước cũng không hoàn toàn thống nhất. Ở nước ta hiện nay, phù
hợp với thể chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước thì khái niệm cán bộ
quản lý cũng có những đặc điểm nhất định được thể hiện tổng quát như sau:
“Cán bộ quản lý là những người thực hiện các chức năng quản lý nhằm
đảm bảo cho tổ chức đạt được những mục đích của mình với kết quả và hiệu
quả cao.”
Như vậy một cán bộ quản lý được xác định bởi ba yếu tố cơ bản sau:
- Có vị thế trong tổ chức với những quyền hạn nhất định trong quá trình
ra quyết định.
- Có chức năng thể hiện những công việc cần thực hiện trong toàn bộ
hoạt động của tổ chức.
- Có nghiệp vụ thể hiện phải đáp ứng những đòi hỏi nhất định của công
việc.
2. Phân loại cán bộ quản lý
Mỗi tổ chức có các đặc điểm khác nhau, do đó cán bộ quản lý trong các
tổ chức khác nhau có vai trò không giống nhau. Trong mỗi tổ chức có nhiều
cán bộ quản lý nhưng chủ yếu được phân loại theo hai tiêu chí: theo cấp
quản lý và theo phạm vi của hoạt động quản lý.
2.1. Phân loại cán bộ quản lý theo cấp quản lý
Theo cấp quản lý, cán bộ quản lý được chia làm ba loại: cán bộ quản
lý cấp cao, cán bộ quản lý cấp trung và cán bộ quản lý cấp cơ sở.
- Cán bộ quản lý cấp cao là những người chịu trách nhiệm quản lý toàn
diện đối với tổ chức.Những quyền hạn của họ bao gồm: quyết định chiến
lược hoặc có ảnh hưởng lớn đến các quyết định chiến lược, quyết định
các chính sách, chỉ đạo các mối quan hệ của tổ chức với môi trường.
Trong doanh nghiệp, các chức vụ này thường là tổng giám đốc, chủ tịch,
giám đốc, phó tổng giám đốc.
- Cán bộ quản lý cấp trung: là những người chịu trách nhiệm quản lý
những bộ phận và phân hệ của tổ chức. Họ là người lãnh đạo của một số
cán bộ quản lý cấp thấp hơn và phải báo cáo cho các nhà quản lý cấp cao
hơn. Trách nhiệm của các nhà quản lý cấp trung là chỉ đạo quá trình triển
khai các chính sách của tổ chức và thiết lập mối quan hệ cân bằng giữa
đòi hỏi của những nhà quản lý với năng lực của các nhân viên.
- Cán bộ quản lý cấp cơ sở: là những người chịu trách nhiệm trước công
việc của những người lao động trực tiếp. Họ không kiểm soát hoạt động
của những nhà quản lý khác và họ thường được gọi là các giám sát viên.
2.2. Phân lọai cán bộ quản lý theo phạm vi quản lý.
Phụ thuộc vào phạm vi hoạt động mà một người chịu trách nhiệm
quản lý có thể thuộc về các nhà quản lý chức năng hay các nhà quản lý tổng
hợp.
- Cán bộ quản lý chức năng: là người chỉ chịu trách nhiệm quản lý một
chức năng hoạt động của tổ chức, như quản lý tài chính, quản lý nguồn
nhân lực, quản lý sản xuất….
- Cán bộ quản lý tổng hợp: là người chịu trách nhiệm quản lý ở tất cả các
hoạt động ở một đơn vị phức tạp như tổ chức, chi nhánh hay đơn vị hoạt
động lập.Một tổ chức nhỏ có thể chỉ cần một vài cán bộ quản lý tổng hợp
nhưng đối với một tổ chức lớn thì cần nhiều cán bộ quản lý tổng hợp.
Để tổ chức đạt kết quả và hiệu quả mong muốn, thích ứng với mọi biến
động và rủi ro của môi trường thì cần phải có sự đồng bộ cân xứng về số
lượng, kỹ năng… giữa các loại cán bộ.
3. Vai trò của cán bộ quản lý
Trong các tổ chức cán bộ quản lý là nhân tố cơ bản quyết định sự thành
công hay thất bại của tổ chức đó. Vì vậy, tầm quan trọng của cán bộ quản
lý là rất lớn nó được thể hiện qua ba vai trò là vai trò liên kết con người,
vai trò thông tin và vai trò ra quyết định.
Vai trò liên kết bao hàm những công việc trực tiếp với những người
khác. Với vai trò người đại diện nhà quản lý đại diện cho đơn vị mình
trong các cuộc gặp mặt chính thức; với vai trò người lãnh đạo nhà quản
lý tạo ra và duy trì động lực cho người lao động nhằm hướng cố gắng của
họ tới mục tiêu chung của tổ chức; với vai trò người liên lạc đảm bảo
mối quan hệ với các đối tác.
Vai trò thông tin bao hàm sự trao đổi thông tin với những người khác.
Với vai trò người giám sát nhà quản lý tìm kiếm những thông tin phản
hồi cần thiết cho quản lý; với vai trò người truyền tin sẽ chia sẻ thông tin
với những người trong đơn vị; với vai trò người phát ngôn sẽ chia sẻ
thông tin với những người bên ngoài.
Vai trò quyết định bao hàm việc ra quyết định để tác động lên con người.
Với vai trò người ra quyết định nhà quản lý tìm kiếm cơ hội để tận dụng,
xác định vấn đề để giải quyết; với vai trò người điều hành sẽ chỉ đạo việc
thực hiện quyết định; với vai trò người đảm bảo nguồn lực sẽ phân bổ
nguồn lực cho những mục đích khác nhau; với vai trò người đàm phán sẽ
tiến hành đàm phán với những đối tác
II. Sự cần thiết nâng cao chất lượng của cán bộ quản lý tổ chức trong
giai đoạn hiện nay
1. Chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý
Một đội ngũ cán bộ quản lý có chất lượng cao là phải đảm bảo đủ bản
lĩnh, phẩm chất và năng lực, nắm bắt được những yêu cầu của thời đại có đủ
phẩm chất tài năng ý chí và đạo đức để đưa tổ chức thực hiện được kế hoạch
một cách có hiệu quả tốt nhất. Điều này đòi hỏi cán bộ quản lý phải có
những yêu cầu sau:
Năng lực chuyên môn
Năng lực chuyên môn thể hiện kiến thức và tài năng trong quá trình quản
lý các hoạt động thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình. Nó bao gồm kỹ
năng thực hiện các hoạt động chuyên môn và kỹ năng thực hiện các quy
trình quản lý. Muốn quản lý tốt thì nhà quản lý phải hiểu và thực hiện
được những hoạt động đó. Ví dụ như một trưởng phòng quản lý nhân lực
thì phải biết sắp xếp nhân lực một cách hợp lý, tốn ít chi phí mà vẫn bảo
đảm thực hiện kế hoạch. Đồng thời nhà quản lý phải có khả năng thực
hiện các quá trình quản lý bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo
và kiểm tra đối với các hoạt động trong phạm vi trách nhiệm của mình.
Năng lực chuyên môn thể hiện ở những yêu cầu sau:
- Trình độ văn hoá và chuyên môn thể hiện qua quá trình nhà quản lý
đã được đào tạo qua khoá học nào đó. Chỉ tiêu thể hiện năng lực
chuyên môn của nhà quản lý là yêu cầu về bằng cấp, ngành được đào
tạo, hình thức đào tạo…
- Kinh nghiệm công tác. Đòi hỏi nhà quản lý phải có kinh nghiệm hoạt
động trong lĩnh vực chuyên môn của tổ chức thể hiện qua chỉ tiêu
thâm niên công tác, vị trí công tác đã trải qua…
- Kỹ năng thể hiện sự thành thạo nghiệp vụ, công việc chuyên môn…
Khả năng thực hiện các mối quan hệ con người
Kỹ năng thực hiện các mối quan hệ con người là khả năng của người
lãnh đạo có thể làm việc được với nhiều người khác, bao hàm nhưng kỹ
năng cụ thể sau:
- Đánh giá đúng con người, có khả năng thấu hiểu và thông cảm với
những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của con người;
- Có khả năng giành quyền lực và tạo ảnh hưởng;
- Mềm dẻo trong hành vi, có kỹ năng giao tiếp và đàm phán;
- Sử dụng một cách có nghệ thuật các phương pháp lãnh đạo con người;
- Có khả năng xây dựng và làm việc theo nhóm;
- Có khả năng chủ trì các cuộc họp;
- Giải quyết các mâu thuẫn trong tập thể;
- Quản lý có hiệu quả thời gian và sự căng thẳng của bản thân mình,
không để các vấn đề cá nhân làm ảnh hưởng tới công việc chung…
Nhà quản lý có kỹ năng làm việc với con người sẽ làm cho mọi người
tham gia tích cực vào công việc của tổ chức, tạo ra được một môi trường
trong đó mọi người cảm thấy an toàn, dễ dàng bộc bạch ý kiến và có thể
phát huy tốt tính sáng tạo của mình.
Kỹ năng nhận thức
Kỹ năng nhận thức là khả năng phát hiện, phân tích và giải quyết những
vấn đề phức tạp. Nhà quản lý phải có khả năng thấy được bức tranh toàn
diện về thực trạng và xu thế biến động của đơn vị do mình phụ trách, của
toàn tổ chức và của môi trường; nhận ra được những nhân tố chính trong
mỗi hoàn cảnh; nhận thức được mỗi quan hệ giữa các phần tử của tổ
chức.
Nhà quản lý được đánh giá cao và được nhấn mạnh nhất chính là năng
lực phân tích và giải quyết vấn đề. Nhà quản lý phải có khả năng xác
định rõ vấn đề; hiểu và giải thích được các dữ liệu thông tin; sử dụng
thông tin để xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề; lựa chọn được các
phương pháp tối ưu nhất cho vấn đề; biết cách lập luận và đưa ra các cam
kết trong những tình huống phức tạp; trình bày một cách sáng sủa trong
bài viết.
Phẩm chất, uy tín của người cán bộ
Bao gồm những tiêu chuẩn sau:
- Phẩm chất chính trị. Đó là quan điểm, ý thức chính trị, trình độ chính
trị, ý thức chấp hành pháp luật và kỷ luật lao động…
- Phẩm chất đạo đức: trung thực, cần mẫn, liêm khiết…
- Mức độ tín nhiệm của tập thể đối với cán bộ quản lý. Mức độ này
thường được phản ánh thông qua các chỉ tiêu như: số phiếu tín nhiệm,
sự chấp hành của cấp dưới đối với mệnh lệnh của người đó…
2. Sự cần thiết nâng cao chất lượng cán bộ quản lý
Nền kinh tế nước ta bước từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung cao
độ sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định
hướng XHCN. Do vậy nền kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn như nợ của
nước khác, thiếu vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh…Trong điều kiện
hiện nay thì phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ là phù hợp nhất. Số
doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới từ 95% đến 98% trong tổng số các
doanh nghiệp. Do đó để phát triển các doanh nghiệp này thì điều quan trọng
là phải có những nhà quản lý giỏi. Hơn nữa với cơ chế hiện nay nước ta
đang mở cửa quan hệ rộng rãi với nước ngoài, kể cả những nước có chế độ
chính trị khác ta đã làm cho đối tượng quản lý đa dạng phức tạp hơn nhiều.
Đồng thời làm cho cơ cấu giai cấp- xã hội trở nên đa dạng hơn, các giai cấp,
tầng lớp, các nhóm dân cư có sự biến đổi không thuần nhất, đan xen vào
nhau rất phức tạp. Điều này đòi hỏi cán bộ quản lý phải được nâng cao về
chất lượng để đưa tổ chức của mình hoạt động có hiệu quả nhất.
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã đề ra nhiệm vụ trung tâm của cách mạng
nước ta hiện nay là: “tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại
hoá. Mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế
hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh
vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Mặc dù đất nước ta đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt tuy
nhiên với cơ chế thị trường cũng tạo ra hàng loạt vấn đề phức tạp mới. Đó là
sự thay đổi quan niệm về giá trị xã hội của con nguời. Đó là sự thay đổi
trong lối sống của mọi bộ phận dân cư, trong đó lối sống hưởng thụ chạy
theo đồng tiền với bất kỳ giá nào trở thành một “dòng chảy lớn” trong xã
hội, nhiều khi lấn át cả lý tưởng được hun đức từ trong các cuộc đấu tranh
cách mạng lâu dài của dân tộc. Đó là nạn tham nhũng, buôn lậu, mua chuộc
cán bộ quản lý ….Những điều đó diễn ra trên mọi bình diện xã hội. Điều
này đòi hỏi phải có tác động lớn vào cán bộ quản lý bằng nhiều cách.
Đất nước ta đang tiếp nhận những vận hội lớn, đồng thời cũng đứng
trước nguy cơ thách thức lớn. Những thành tựu bước đầu quan trọng của
công cuộc đổi mới đã đưa đất nước đến thời cơ phát triển mới đồng thời để
lại nhiều kinh nghiệm quí báu trong đó có vấn đề xây dựng cán bộ quản lý.
Trong quá trình thực hiên công nghiệp hoá hiện đại hoá, vai trò của đội
ngũ cán bộ quản lý là cực kỳ quan trọng. Họ phải là người vạch ra kế sách
để thực hiện từng mục tiêu nêu trên, đồng thời lại là người tổ chức, quản lý
quá trình thực hiện và gương mẫu thực hiện những mục tiêu đó. Việc nâng
cao chất lượng của cán bộ quản lý ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay càng
quan trọng và cấp bách hơn. Có thể khẳng định rằng, không thể thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công với một cơ chế quản lý lạc hậu và
một đội ngũ cán bộ quản lý chất lượng thấp.
III. Phương pháp đánh giá cán bộ quản lý
Việc đánh giá về mặt quản lý đôi khi được coi là “gót chân Asin”. Nhưng
có thể nó cũng chính là chìa khoá quan trọng của bản thân công tác quản lý.
Nó chính là cơ sở để xác định ai là người có khả năng đề bạt nên các cương
vị cao hơn. Nó cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển cán bộ quản
lý bởi vì nếu không biết được các điểm mạnh và điểm yếu của một người
quản lý thì khó có thể xác định được liệu các cố gắng trong việc phát triển
có đi theo đúng hướng hay không. Việc đánh giá phải là một bộ phận trong
hệ thống các hoạt động quản lý. Việc biết được rõ một người quản lý có thể
lập kế hoạch, tổ chức, sắp xếp bộ máy, chỉ đạo và kiểm soát giỏi đến mức
nào thực sự là cách duy nhất để đảm bảo rằng những người giữ những
cương vị quản lý đang thực sự tiến hành công việc có kết quả.
Việc đánh giá phải được coi là một nhân tố cơ bản trong toàn bộ hệ thống
quản lý. Để đảm bảo năng lực quản lý, người quản lý phải biết được trình độ
của những người quản lý cấp dưới. Tổ chức phải có một chương trình lựa
chọn và phát triển về mặt quản lý và phải có một cấu trúc phù hợp về các vai
trò quản lý. Ngoài ra tổ chức cũng phải có những biện pháp khen thưởng
đúng đắn những ngưòi quản lý có thành tích.Việc đánh giá thực sự có kết
quả gắn liền với một hệ thống khen thưởng của tổ chức, việc khen ngợi kịp
thời các kết quả đã đạt được chính là yếu tố kích thích có tác dụng nhất.
1. Nội dung đánh giá
Việc đánh giá về mặt quản lý là đo lường kết quả thực hiện của một
người với cương vị là một cán bộ quản lý trong việc đạt được các mục
tiêu mà người quản lý có trách nhiệm hoàn thành.
Đánh giá kết quả thực hiện trong việc hoàn thành các mục tiêu
Khi đánh giá kết quả các hệ thống đánh giá căn cứ vào các mục tiêu xác
đáng đã được lựa chọn trước, có giá trị đặc biệt quan trọng. Nếu kế hoạch
được xây dựng để đạt đến các mục tiêu cụ thể là thích hợp, hài hoà và
được hiểu đúng thì những tiêu chuẩn thích hợp nhất để đánh giá việc
thực hiện công tác quản lý gắn liền với khả năng để đặt ra được các mục
tiêu một cách khôn khéo để lập ra được các chương trình nhằm đạt tới
các mục tiêu này và để thành công trong việc thực hiện chúng. Trong
một số trường hợp, những người quản lý đạt được kết quả hoàn toàn là
do may mắn thì lại được đề bạt và ngược lại những người khác không đạt
được các kết quả mong đợi chỉ vì những yếu tố vượt ra ngoài khả năng
kiểm soát của họ, thì lại bị khiển trách vì thất bại. Vì vậy, chúng ta cần
bổ sung thêm cho cách đánh giá dựa vào các mục tiêu xác đáng.
Dựa vào kết quả thực hiện với tư cách là người quản lý
Điều này chỉ ra rằng các số liệu cho việc hoàn thành các mục tiêu chính
là bằng chứng có sức thuyết phục về khả năng lãnh đạo một nhóm người
nào đó, nó vẫn cần được bổ sung bằng việc đánh giá một người quản lý
với tư cách là một người quản lý. Người quản lý phải được đánh giá căn
cứ vào việc họ đã hiểu và thực hiện ra sao các chức năng quản lý như lập
kế hoạch, tổ chức, định biên chế, lãnh đạo và kiểm tra
2. Các phương pháp đánh giá nhà quản lý
Cách đánh giá truyền thống theo đặc điểm
Nhà quản lý được đánh giá căn cứ vào các tiêu chuẩn về đặc điểm cá
nhân và phẩm chất công tác. Hệ thống đánh giá xếp theo đặc điểm điển
hình liệt kê từ 10 đến 15 cá tính con người, chẳng hạn những khả năng
hoà nhập với mọi người, khả năng lãnh đạo, năng lực phân tích, về
chuyên môn, khả năng phán xét và sáng tạo. Khi cho biết những tiêu
chuẩn này, người ta yêu cầu người phân loại thực hiện việc đánh giá cấp
dưới dựa vào một trong số 5 hay 6 hạng xếp loại từ không chấp nhận
được đến suất xắc.
Nhược điểm của việc đánh giá theo đặc điểm là nhiều nhà quản lý phản
đối việc xếp hạng theo đặc điểm có xu hướng làm báo cáo cho xong, mà
không biết đích xác phải xếp hạng như thế nào. Mặt khác thì việc đánh
giá theo đặc điểm là không khách quan, cho nên những người quản lý
nghiêm túc và trung thực không muốn sử dụng những nhận xét rõ ràng là
chủ quan của mình về một vấn đề quan trọng là việc thực hiện cấp dưới.
Còn nhân viên xếp hạng ở cấp thấp bao giờ cũng cảm thấp bất công.
Ngoài ra thì các tiêu chuẩn cho điểm là rất mơ hồ.
Đánh giá nhà quản lý căn cứ vào các mục tiêu xác đáng
Đây là việc đánh giá thực hiện công tác quản lý dựa vào việc đặt ra và
hoàn thành các mục tiêu xác đáng. Việc đặt ra một mạng lưới các mục
tiêu có ý nghĩa và có khả năng thực hiện được chính là một nội dung cơ
bản của việc quản lý có kết quả. Người lãnh đạo xác định xem những nhà
quản lý đã đặt ra các mục tiêu hoàn chỉnh đến đâu, và họ đã thực hiện
được tốt đến mức nào so với chúng. Các mục tiêu phải xem xét xem có
khả năng hoàn thành được hay không. Ngoài ra việctiến tới mục tiêu phải
được kiểm tra thường xuyên, kiểm tra phải theo định kỳ vì các hoạt động
của tổ chức luôn luôn vận động và biến đổi. Đối với nhà quản lý cấp cao
thì kiểm tra và đánh giá mức độ tiến bộ hàng quý một cách thật chi tiết
và bao quát hơn, theo hướng khả năng hoàn thành công việc, có thể là
cho ba hay bốn quý tiếp theo đó. Đối với những người quản lý cấp thấp
hơn thì có thể kiểm tra hàng quý có thể là vừa phải mà cũng có thể
không.
Điểm mạnh của việc đánh giá này đều là cơ sở cho việc quản lý có kết
quả và là phương tiện cải thiện chất lượng công tác quản lý. Ngoài ra ưu
điểm rất lớn của nó là nắm trong phạm vi tác nghiệp. Công việc đánh giá
không tách rời công việc mà người quản lý phải thực hiện mà nó là một
sự kiểm tra lại xem họ đã thực sự làm được gì với tư cách là một nhà
quản lý.
Yếu điểm của cách đánh giá này là việc mọi người hoàn toàn có khả
năng hoàn thành hay đi chệch khỏi các mục tiêu mà không có bất