Những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo,
ngành thương mại đã cùng các ngành, các địa phương nỗ lực phấn đấu, đạt được những
thành tựu bước đầu quan trọng trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa và dịch vụ, góp phần tạo
nên những biến đổi sâu sắc trên thị trường trong nước và vị thế trên thị trường nước ngoài.
Các loại hình dịch vụ gắn với lưu thông hàng hóa phát triển mạnh, thúc đẩy sản xuất kinh
doanh, góp phần phục vụ đời sống và giải quyết việc làm cho người lao động. Trong số đó
không thể không nhắc tới ngành sản xuất kinh doanh thực phẩm là ngành sản xuất hàng
tiêu dùng luôn gắn liền với đời sống hàng ngày của người dân.
Với sự cạnh tranh găy gắt hiện nay trên thị trường, mỗi doanh nghiệp đều cần thấy
rõ sự quan trọng của việc đẩy mạnh kinh doanh, thấy được các nhân tố tác động tới hiệu
quả sản xuất kinh doanh, từ đó xây dựng phương án kinh doanh phù hợp. Đối với Xí
nghiệp khai thác và cung ứng thực phẩm tổng hợp thì vấn đề thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm
càng quan trọng hơn bao giờ hết vì chức năng chủ yếu của Xí nghiệp là khai thác và kinh
doanh mặt hàng thực phẩm. Nhận thức được điều đó, qua thời gian thực tập tại Xí nghiệp,
có được một sự hiểu biết về thực trạng sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp, nên em đã chọn
đề tài: “Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh thực phẩm tại Xí nghiệp khai
thác và cung ứng thực phẩm tổng hợp”. Bằng những kiến thức của bản thân cùng với sự
giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn và các cán bộ, nhân viên trong Xí nghiệp, em
đi sâu phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp và đề xuất một số giải
pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp.
Cơ cấu của chuyên đề, ngoài lời mở đầu và kết luận được chia thành 3 chương:
- Chương I: Lý luận chung về kinh doanh thực phẩm của doanh nghiệp
- Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh thực phẩm tại Xí nghiệp khai
thác và cung ứng thực phẩm tổng hợp
- Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh kinh doanh thực phẩm tại Xí
nghiệp khai thác và cung ứng thực phẩm tổng hợp
69 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1940 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh thực phẩm ở Xí nghiệp khai thác và cung ứng thực phẩm tổng hợp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động kinh
doanh thực phẩm tại Xí nghiệp khai thác
và cung ứng thực phẩm tổng hợp
LờI Mở Đầu
Những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo,
ngành thương mại đã cùng các ngành, các địa phương nỗ lực phấn đấu, đạt được những
thành tựu bước đầu quan trọng trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa và dịch vụ, góp phần tạo
nên những biến đổi sâu sắc trên thị trường trong nước và vị thế trên thị trường nước ngoài.
Các loại hình dịch vụ gắn với lưu thông hàng hóa phát triển mạnh, thúc đẩy sản xuất kinh
doanh, góp phần phục vụ đời sống và giải quyết việc làm cho người lao động. Trong số đó
không thể không nhắc tới ngành sản xuất kinh doanh thực phẩm là ngành sản xuất hàng
tiêu dùng luôn gắn liền với đời sống hàng ngày của người dân.
Với sự cạnh tranh găy gắt hiện nay trên thị trường, mỗi doanh nghiệp đều cần thấy
rõ sự quan trọng của việc đẩy mạnh kinh doanh, thấy được các nhân tố tác động tới hiệu
quả sản xuất kinh doanh, từ đó xây dựng phương án kinh doanh phù hợp. Đối với Xí
nghiệp khai thác và cung ứng thực phẩm tổng hợp thì vấn đề thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm
càng quan trọng hơn bao giờ hết vì chức năng chủ yếu của Xí nghiệp là khai thác và kinh
doanh mặt hàng thực phẩm. Nhận thức được điều đó, qua thời gian thực tập tại Xí nghiệp,
có được một sự hiểu biết về thực trạng sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp, nên em đã chọn
đề tài: “Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh thực phẩm tại Xí nghiệp khai
thác và cung ứng thực phẩm tổng hợp”. Bằng những kiến thức của bản thân cùng với sự
giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn và các cán bộ, nhân viên trong Xí nghiệp, em
đi sâu phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp và đề xuất một số giải
pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp.
Cơ cấu của chuyên đề, ngoài lời mở đầu và kết luận được chia thành 3 chương:
- Chương I: Lý luận chung về kinh doanh thực phẩm của doanh nghiệp
- Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh thực phẩm tại Xí nghiệp khai
thác và cung ứng thực phẩm tổng hợp
- Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh kinh doanh thực phẩm tại Xí
nghiệp khai thác và cung ứng thực phẩm tổng hợp
Chương I
lý luận chung về kinh doanh thực phẩm
của doanh nghiệp
1.1. Khái niệm và vai trò của kinh doanh thực phẩm đối với quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm kinh doanh và kinh doanh thực phẩm
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh là hoạt động kinh tế cơ bản
được các cá nhân và doanh nghiệp tiến hành nhằm mục đích thu lợi nhuận. Hiện nay có
nhiều cách hiểu về kinh doanh:
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp (có hiệu lực từ ngày 1/1/2000), thì: “Kinh
doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh
lời”.
Như vậy, có thể hiểu kinh doanh là một hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu sinh lời
của chủ thể kinh doanh trên thị trường. Khi tiến hành bất cứ hoạt động kinh doanh nào thì
các chủ thể đều phải sử dụng tập hợp các phương tiện, con người, nguồn vốn… và đưa các
nguồn lực này vào hoạt động để sinh lời cho doanh nghiệp. Chúng đều có đặc điểm chung
là gắn liền với sự vận động của nguồn vốn, một chủ thể kinh doanh không chỉ có cần vốn
mà cần cả những cách thức làm cho đồng vốn của mình quay vòng không ngừng, để đến
cuối chu kỳ kinh doanh số vốn lại tăng thêm. Mặt khác, chủ thể kinh doanh phải có được
doanh thu để bù đắp chi phí và có lợi nhuận.
Với cách hiểu về kinh doanh như vậy thì kinh doanh thực phẩm được hiểu là việc
đầu tư sản xuất và tiêu thụ thực phẩm trên thị trường, nhằm mục đích thu lợi nhuận. Kinh
doanh thực phẩm là một trong số các hình thức kinh doanh. Là lĩnh vực kinh doanh hàng
tiêu dùng, nó có các đặc điểm chung giống như các lĩnh vực kinh doanh khác nhưng nó
cũng có những đặc điểm riêng, đó là:
- Người tiêu dùng ít hiểu biết về hàng hóa một cách có hệ thống: trên thị trường có
tới hàng chục ngàn mặt hàng cho nên dù người bán có tận dụng được nhiều phương pháp
giới thiệu hàng hóa, doanh nghiệp nhưng người tiêu dùng vẫn chưa hiểu rõ hết được về địa
chỉ sản xuất, chất lượng, đặc tính, công dụng và cách thức sử dụng của tất cả các loại hàng
hóa.
- Sức mua trên thị trường biến đổi lớn theo thời gian, theo địa phương…Người tiêu
dùng có thể cân nhắc rất kỹ khi cần mua sắm nhất là vào thời điểm có rất nhiều hàng tiêu
dùng có khả năng thay thế lẫn nhau.
- Sự khác biệt về người tiêu dùng rất lớn: giữa các tầng lớp dân cư, có sự khác nhau
về nghề nghiệp, dân tộc, giới tính, trình độ văn hóa, độ tuổi, tập quán sinh hoạt nên sự hiểu
biết và tiêu dùng của họ về các loại thực phẩm là khác biệt nhau.
- Có nhiều người mua vì hàng thực phẩm gắn với cuộc sống hàng ngày của nhân
dân, các thành viên trong xã hội đều có nhu cầu tiêu dùng nhưng mỗi lần mua không
nhiều, lặt vặt và phân tán vì nhu cầu đời sống rất đa dạng.
ở đây, mặt hàng kinh doanh là hàng thực phẩm, gắn liền với nhu cầu sinh hoạt của
con người như lương thực, đường, sữa, đồ hộp, dầu ăn, bia, rượu, bột mì, bánh kẹo…
Nguyên liệu của nó là các sản phẩm của ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, thủy
sản, và một số ngành chế biến khác. Hàng nông sản được dùng làm nguyên liệu đầu vào
cho sản xuất kinh doanh hàng thực phẩm nên ta phải hiểu rõ đặc điểm của nó để chủ động
khai thác tốt nhất nguồn đầu vào này. Hàng nông sản có những đặc điểm sau:
+ Tính thời vụ: vì chăn nuôi, trồng trọt có tính thời vụ nên cần phải biết quy luật sản
xuất các mặt hàng nông sản để làm tốt công tác chuẩn bị trước mùa thu hoạch, đến kỳ thu
hoạch phải tập trung nhanh nguồn lao động để triển khai công tác thu mua và chế biến sản
phẩm từ các ngành này.
+ Tính phân tán: hàng nông sản phân tán ở các vùng nông thôn và ở trong tay hàng
triệu nông dân, sức tiêu thụ thì tập trung ở thành phố và khu công nghiệp tập trung. Vì vậy
phải bố trí địa điểm thu mua, phương thức thu mua, chế biến và vận chuyển đều phải phù
hợp với đặc điểm nói trên.
+ Tính khu vực: tùy theo địa hình của từng nơi mà có vùng thì thích hợp với trồng
trọt cây nông nghiệp, nơi thì cây công nghiệp, nơi thì với nghề chăn nuôi, vì thế có những
cơ sở sản xuất sản phẩm hàng nông sản rất khác nhau với tỷ lệ hàng hóa khá cao.
+ Tính không ổn định: Sản xuất hàng nông sản không ổn định, sản lượng hàng nông
nghiệp có thể lên xuống thất thường, vùng này được mùa, vùng khác mất mùa…
Tất cả các đặc điểm trên của yếu tố đầu vào đều có ảnh hưởng tới kết quả và hiệu
quả kinh doanh thực phẩm. Ngoài ra sản phẩm của hàng thực phẩm lại có ảnh hưởng trực
tiếp tới sức khỏe của người tiêu dùng. Vì vậy, kinh doanh thực phẩm ngoài việc cần giấy
phép đăng ký kinh doanh còn phải có giấy chứng nhận đạt chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm do Bộ Ytế cấp.
1.1.2. Vai trò của kinh doanh thực phẩm đối với quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp
1.1.2.1. Vai trò của kinh doanh thực phẩm đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Thực phẩm là một mặt hàng tiêu dùng rất quan trọng đối với toàn xã hội nói chung
và đối với mỗi con người nói riêng. Thực phẩm cung cấp cho con người những chất dinh
dưỡng như: tinh bột, chất béo, các loại vitamin, prôtêin và các chất khóang khác… giúp
con người có sức khỏe để tồn tại phát triển và lao động. Xét trong tổng thể nền kinh tế
quốc dân, tiêu thụ sản phẩm có vai trò trong việc cân đối giữa cung và cầu thực phẩm trên
thị trường. Thực phẩm có thể ở dạng tự nhiên hay là đã qua chế biến, sản xuất sản phẩm
rồi được tiêu thụ tức là vấn đề sản xuất kinh doanh thực phẩm được diễn ra bình thường,
liên tục tránh được những mất cân đối trong cung và cầu về hàng thực phẩm. Doanh
nghiệp kinh doanh thực phẩm có nhu cầu sử dụng các nguồn lực của xã hội để bảo đảm
đầu vào cho sản xuất như nguyên liệu, vốn, nhân lực, thiết bị máy móc, công nghệ… đã
tác động tới một loạt các hoạt động khác, các lĩnh vực kinh doanh khác như người chăn
nuôi, trồng trọt, yếu tố con người, yếu tố văn hóa xã hội. Tức nó đã trực tiếp hoặc gián tiếp
tác động tới sự phát triển của các ngành khác hay toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Tiêu thụ sản phẩm nói chung và tiêu thụ thực phẩm nói riêng không trực tiếp tạo ra
của cải vật chất cho xã hội mà nó chỉ phục vụ quá trình tiếp tục sản xuất trong khâu lưu
thông. Kinh doanh thực phẩm có tác dụng nhiều mặt tới lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng xã
hội, nó cung cấp những sản phẩm là lương thực, thực phẩm là những hàng hóa thiết yếu
cho người tiêu dùng một cách đầy đủ, kịp thời đồng bộ, đúng số lượng, chất lượng một
cách thuận lợi, với quy mô ngày càng mở rộng. Đối với các lĩnh vực lưu thông, các doanh
nghiệp thương mại, đại lý bán buôn, bán lẻ có thể nhận được các sản phẩm, hàng hóa đầu
vào một cách kịp thời, đồng bộ, đúng số lượng, chất lượng. Đối với lĩnh vực tiêu dùng, các
cá nhân có thể dễ dàng thỏa mãn nhu cầu về hàng thực phẩm trên thị trường một cách kịp
thời và văn minh, nhờ hàng loạt các cửa hàng, quầy hàng, siêu thị… cung cấp cho mọi
người, mọi gia đình và các nhu cầu đa dạng của mọi tầng lớp dân cư, lứa tuổi, nghề
nghiệp. Ngoài ra, kinh doanh thực phẩm còn có tác dụng nữa là kích thích nhu cầu, gợi mở
nhu cầu, hướng người tiêu dùng tới những hàng thực phẩm có chất lượng cao, thuận tiện
trong sử dụng, đồng thời đa dạng về sản phẩm với phong cách phục vụ đa dạng, văn minh,
hiện đại.
1.1.2.2. Vai trò của kinh doanh thực phẩm đối với sự phát triển của doanh nghiệp
Kinh doanh thực phẩm là một quá trình bao gồm nhiều khâu, nhiều công đoạn,
nhiều bộ phận phức tạp và liên tục có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau. Kết quả của
khâu này bộ phận này có ảnh hưởng tới chất lượng của các khâu khác hay toàn bộ quá
trình kinh doanh, trong đó khâu tiêu thụ sản phẩm được đánh giá là khâu then chốt quyết
định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Sản xuất được mà không tiêu thụ được hay sản
phẩm thực phẩm tiêu thụ chậm thì làm cho doanh nghiệp đó kinh doanh lỗ rồi dẫn tới phá
sản.
Kinh doanh thực phẩm từ khâu mua nguyên liệu đầu vào, sản xuất chế biến và khâu
tiêu thụ sản phẩm, khâu nào cũng quan trọng để tăng hiệu quả của hoạt động kinh doanh
nếu một khâu nào đó hoạt động kém, chậm tiến độ sẽ ảnh hưởng tới khâu khác. Nhưng
phải nói rằng trong kinh doanh nói chung và kinh doanh thực phẩm nói riêng thì tiêu thụ
sản phẩm là giai đoạn quan trọng, vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới các khâu khác, tới sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp. Để tiếp tục, đẩy mạnh kinh doanh trên thị trường thì
doanh nghiệp hoạt động trong ngành thực phẩm luôn tìm cách tái sản xuất, mở rộng thị
trường sao cho có nhiều sản phẩm đáp ứng được tối đa nhu cầu của khách hàng. Như vậy
điều kiện cần và đủ là doanh nghiệp phải tiêu thụ được sản phẩm sao cho thu được một
lượng tiền bảo đảm bù đắp chi phí bỏ ra, có lợi nhuận từ đó doanh nghiệp có đủ nguồn lực
để tiếp tục tái sản xuất mở rộng cho chu kỳ sản xuất sau, còn nếu doanh nghiệp không tiêu
thụ được thì sẽ gây ứ đọng nguồn vốn, tăng các chi phí kho, bảo quản… gây đình trệ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đối với doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm, tiêu thụ sản phẩm có vai trò quan
trọng trong việc duy trì và phát triển mở rộng thị trường. Tiêu thụ được càng nhiều sản
phẩm tức là sản phẩm thực phẩm đã được thị trường chấp nhận, và càng có nhiều khách
hàng biết tới sản phẩm, biết tới thương hiệu, và biết tới doanh nghiệp kinh doanh thực
phẩm đó. Trong bất kỳ một hình thức kinh doanh nào cũng vậy thì mục tiêu duy trì và mở
rộng thị trường là một mục tiêu rất quan trọng để doanh nghiệp có thể duy trì và phát triển.
Doanh nghiệp đó phải đề ra các biện pháp để kích thích khối lượng tiêu thụ, tăng doanh số
bán không chỉ ở thị trường hiện tại mà cả ở thị trường tiềm năng. Khối lượng hàng bán ra
ngày một lớn hơn thì doanh nghiệp có thêm điều kiện để mở rộng và phát triển kinh doanh,
từ đó phát hiện thêm nhu cầu và cho ra sản phẩm thực phẩm mới.
Tiêu thụ thực phẩm trong doanh nghiệp còn góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, thông qua chỉ tiêu lợi nhuận, tốc độ quay của vốn, mức chi
phí trên một đồng vốn để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh
doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình kinh
doanh ở doanh nghiệp nhằm đạt kết quả cao nhất, với chi phí nhỏ nhất. Nó không chỉ là
thước đo trình độ tổ chức kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Tiêu
thụ thực phẩm tác động trực tiếp tới quá trình tổ chức quản lý, thúc đẩy việc áp dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao chất lượng thực phẩm, hạ giá thành sản xuất của doanh
nghiệp trong ngành thực phẩm. Tổ chức tốt hoạt động tiêu thụ góp phần giảm các chi phí
lưu thông, giảm thời gian dự trữ thành phẩm, nguyên liệu, tăng nhanh vòng quay của vốn,
rút ngắn chu kỳ sản xuất kinh doanh… từ đó giúp doanh nghiệp tăng doanh thu và đem lại
lợi nhuận cao.
Tiêu thụ thực phẩm tạo ra ưu thế và độ an toàn cho doanh nghiệp kinh doanh thực
phẩm trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt hiện nay với các doanh nghiệp trong ngành
và ngoài ngành, đây cũng chính là một mục tiêu mà bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng
muốn hướng tới. Vị thế được đánh giá qua doanh số bán, số lượng hàng hóa bán ra, phạm
vi thị trường mà nó chiếm lĩnh. Mỗi doanh nghiệp luôn luôn phảỉ chú ý tới uy tín, tới niềm
tin của khách hàng vào sản phẩm của doanh nghiệp, tới thương hiệu của doanh nghiệp, để
từ đó tạo đà cho việc mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng khả năng cạnh tranh.
Tiêu thụ thực phẩm có vai trò gắn kết người sản xuất, chế biến thực phẩm đối với
người tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp mình. Nó giúp cho các nhà sản xuất thực
phẩm hiểu rõ thêm về kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh của mình thông qua sự
phản ánh của người tiêu dùng thực phẩm, qua đó cũng nắm bắt được nhu cầu mới của họ.
Đồng thời qua hoạt động tiêu thụ còn giúp cho các doanh nghiệp có thể kiểm tra tình hình
hoạt động kinh doanh của các đơn vị, cửa hàng, đại lý, chi nhánh… Trên cơ sở đó doanh
nghiệp sẽ có những biện pháp hữu hiệu đối với từng đoạn thị trường để có thể khai thác
được tối đa nhu cầu của khách hàng.
Như vậy, có thể thấy rằng kinh doanh thực phẩm có vai trò rất quan trọng đối với
doanh nghiệp kinh doanh kinh doanh thực phẩm. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Do đó, thúc đẩy kinh doanh thực phẩm sẽ có tác động trực tiếp tới quy mô,
lợi nhuận của doanh nghiệp, quyết định tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2. Nội dung của kinh doanh thực phẩm ở doanh nghiệp
Với cách hiểu về kinh doanh thực phẩm theo nghĩa rộng thì nội dung của nó sẽ bao
gồm nhiều khâu, nhiều hoạt động liên kết với nhau tạo thành một chuỗi quy trình. Có thể
khái quát các nội dung cơ bản của kinh doanh thực phẩm ở doanh nghiệp qua sơ đồ 1.1
dưới đây.
Mua sắm
các yếu tố
đầu vào
cho sản
Sản xuất
thực phẩm
Tiêu thụ
thực phẩm
Sơ đồ 1.1. Quá trình sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm
1.2.1. Hoạt động mua sắm các yếu tố đầu vào cho sản xuất (tạo nguồn)
Để hoạt động sản xuất và tiêu thụ thực phẩm được diễn ra liên tục không bị gián
đoạn đòi hỏi phải bảo đảm thường xuyên, liên tục nguyên, nhiên, vật liệu, máy móc thiết
bị, sức lao động, vốn… Chỉ có thể đảm bảo đủ số lượng, đúng mặt hàng và chất lượng cần
thiết với thời gian quy định thì sản xuất mới có thể được tiến hành bình thường và sản xuất
kinh doanh mới có hiệu quả. Vật tư (nguyên, nhiên vật liệu) cho sản xuất ở các doanh
nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng, góp phần nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao
sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Các yếu tố đầu vào cho sản xuất thực phẩm gồm có: các
sản phẩm nông sản tươi, khô (gạo, ớt, măng, tỏi, đậu nành, mía, dưa…), các thiết bị máy
móc, vốn, cơ sở hạ tầng, điện, nước…
Đảm bảo tốt vật tư cho sản xuất thực phẩm là đáp ứng các yêu cầu về số lượng, chất
lượng, đúng thời gian, chủng loại và đồng bộ. Điều này ảnh hưởng tới năng suất của doanh
nghiệp, đến chất lượng của sản phẩm thực phẩm sản xuất ra, đến việc sử dụng hợp lý và
tiết kiệm vật tư, đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh, đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường, nội dung của công tác đầu vào cho sản xuất kinh
doanh nói chung và cho lĩnh vực thực phẩm nói riêng (hậu cần vật tư cho sản xuất) bao
gồm từ khâu nghiên cứu thị trường, xác định nguồn vật tư, lập kế hoạch mua sắm vật tư,
tổ chức mua sắm, tổ chức tiếp nhận, bảo quản và cấp phát đến việc quản lý sử dụng và
quyết toán vật tư.
Xác định nhu
cầu
Lập và tổ chức
thực hiện kế
hoạch mua sắm
vật tư
Lựa chọn người
cung ứng
Sơ đồ 1.2. Mô hình tổ chức mua sắm và quản lý vật tư
Sau đây chúng ta xem xét nội dung chủ yếu của một số hoạt động cơ bản.
1.2.1.1. Xác định nhu cầu vật tư
Mỗi loại vật tư đều có những đặc tính cơ, lý, hóa học và trạng thái khác nhau, có
nhu cầu tiêu dùng cho các đối tượn khác nhau. Doanh nghiệp thực phẩm phải tính toán,
dựa vào các chỉ tiêu để xác định được nhu cầu cần tiêu dùng trong kỳ kinh doanh, số lượng
nguyên nhiên, vật liệu loại gì chất lượng ra sao để sản xuất thực phẩm. Đồng thời doanh
nghiệp phải nghiên cứu xác định khả năng của nguồn hàng, để có thể khai thác đặt hàng và
thu mua đáp ứng cho nhu cầu của sản xuất, nguồn hàng có thể mua lại của các nhà kinh
doanh khác hay tới tận nơi trồng trọt chăn nuôi để thu mua nguyên vật liệu.
Nhu cầu vật tư cho sản xuất được xác định bằng 4 phương pháp:
* Phương pháp trực tiếp ( dựa vào mức tiêu dùng vật tư và khối lượng sản phẩm sản xuất
trong kỳ)
* Phương pháp tính dựa trên cơ sở số liệu về thành phần chế tạo sản phẩm
* Phương pháp tính nhu cầu dựa trên cơ sở thời hạn sử dụng
* Phương pháp tính theo hệ số biến động
1.2.1.2. Lập và tổ chức thực hiện kế hoạch mua sắm vật tư ở doanh nghiệp
Kế hoạch mua sắm vật tư (đầu vào cho sản xuất kinh doanh thực phẩm) là một bộ
phận quan trọng của kế hoạch sản xuất-kỹ thuật-tài chính của doanh nghiệp và có mối
quan hệ mật thiết với các kế hoạch khác như kế hoạch tiêu thụ, kế hoạch sản xuất, kế
hoạch tài chính... Kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp là các bản tính toán nhu cầu
cho sản xuất hàng thực phẩm của doanh nghiệp và nguồn hàng rất phức tạp nhưng có tính
cụ thể và nghiệp vụ cao. Nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch là bảo đảm vật tư tốt nhất cho
hoạt động sản xuất kinh doanh hàng thực phẩm, nó phản ánh được toàn bộ nhu cầu vật tư
của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch như nhu cầu vật tư cho sản xuất, cho sửa chữa, dự
Tổ chức
quản lý vật
tư nội bộ
Phân tích
đánh giá
quá trình
quản lý
Thương lượng
và đặt hàng
Theo dõi đặt
hàng và tiếp
nhận vật tư
Quản lý dự trữ
và bảo quản
Cấp phát vật
tư nội bộ
Quyết toán vật
tư
trữ… Đồng thời nó còn phản ánh được các nguồn vật tư và cách tạo nguồn của doanh
nghiệp gồm nguồn hàng tồn kho đầu kỳ, nguồn động viên tiềm lực nội bộ doanh nghiệp,
nguồn mua trên thị trường.
Trên cơ sở của kế hoạch mua sắm vật tư và kết quả nghiên cứu thị trường doanh
nghiệp lên đơn hàng vật tư và tổ chức thực hiện việc đảm bảo vật tư cho sản xuất. Lên đơn
hàng là quá trình cụ thể hóa nhu cầu, là việc xác định tất cả các quy cách, chủng loại và
thời gian nhận hàng, lập đơn hàng là công việc hết sức quan trọng của quá trình tổ chức
mua sắm vật tư, vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình mua sắm vật tư và hiệu quả của quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bất cứ một sai sót nào cũng có thể dẫn tới
việc đặt mua những vật tư mà nhu cầu sản xuất không cần tới hoặc không đủ so với nhu
cầu. Để lập được đơn hàng chính xác bộ phận lập đơn hàng phải tính đến các cơ sở như:
nhiệm vụ sản xuất, hệ thống định mức tiêu dùng vật tư, định mức dự trữ vật tư, lượng tồn
kho, kế hoạch