Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đất nước ta chuyển từ cơ
chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước
theo đ ịnh hướng xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay, chúng ta đã thu được
những thành tựu đáng kể, đặc biệtlà các doanh nghiệp sau một thời gian
ngỡ ngàng trước cơ chế thị trường nay đã phục hồi vươn lên trong sản xuất
kinh doanh.
Trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, các doanh
nghiệp hoàn toàn tự chủ trong sản xuất, lấy thu bù chi và kinh doanh phải
có lãi. Trước yêu cầu đó, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không
ngừng vươn lên hoàn thiện mọi hoạt động của mình để thực hiện mục tiêu:
Giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ. để từ đó nâng cao
khả năng cạnh tranh.
Để thực hiện được các mục tiêu đó, các doanh nghiệp cần phải quan
tâm và phát huy hiệu quả các đòn bẩy kinh tế trong quản lý kinh tế. Bởi nó
có tác dụng rất lớn khi ta sử dụng làm công cụ quản lý trong doanh nghiệp.
Một trong những công cụ mà doanh nghiệp sử dụng đó là công cụ tiền
lương. Tiền lương là một đòn bẩy kinh tế lợi hại trong công tác quản lý của
doanh nghiệp. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự lựa chọn các hình
thức trả lương cho phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình sao
cho phát huy tốt nhất đòn bẩy kinh tế của tiền lương.
Qua thời gian dài được học tập và nghiên cứu tại trường cùng với quá
trình thực tập tại Công ty gạch ốp lát Hà nội. Vận dụng lý thuyết đã được
học với khảo sát thực tế tại Công ty tôi đã chọn đề tài: Một số giải pháp
góp phần hoàn thiện các hình thức trả lương tại Công ty gạch ốp lát Hà
nội
76 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2278 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp góp phần hoàn thiện các hình thức trả lương tại Công ty gạch ốp lát Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
--------------- ---------------
Luận văn
Thực trạng và một số giải
pháp góp phần hoàn thiện các
hình thức trả lương tại Công
ty gạch ốp lát Hà nội
--------------------------
1
LỜI NÓI ĐẦU
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đất nước ta chuyển từ cơ
chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay, chúng ta đã thu được
những thành tựu đáng kể, đặc biệt là các doanh nghiệp sau một thời gian
ngỡ ngàng trước cơ chế thị trường nay đã phục hồi vươn lên trong sản xuất
kinh doanh.
Trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, các doanh
nghiệp hoàn toàn tự chủ trong sản xuất, lấy thu bù chi và kinh doanh phải
có lãi. Trước yêu cầu đó, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không
ngừng vươn lên hoàn thiện mọi hoạt động của mình để thực hiện mục tiêu:
Giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ... để từ đó nâng cao
khả năng cạnh tranh.
Để thực hiện được các mục tiêu đó, các doanh nghiệp cần phải quan
tâm và phát huy hiệu quả các đòn bẩy kinh tế trong quản lý kinh tế. Bởi nó
có tác dụng rất lớn khi ta sử dụng làm công cụ quản lý trong doanh nghiệp.
Một trong những công cụ mà doanh nghiệp sử dụng đó là công cụ tiền
lương. Tiền lương là một đòn bẩy kinh tế lợi hại trong công tác quản lý của
doanh nghiệp. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự lựa chọn các hình
thức trả lương cho phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình sao
cho phát huy tốt nhất đòn bẩy kinh tế của tiền lương.
Qua thời gian dài được học tập và nghiên cứu tại trường cùng với quá
trình thực tập tại Công ty gạch ốp lát Hà nội. Vận dụng lý thuyết đã được
học với khảo sát thực tế tại Công ty tôi đã chọn đề tài: Một số giải pháp
góp phần hoàn thiện các hình thức trả lương tại Công ty gạch ốp lát Hà
nội
2
Luận văn bao gồm:
Chương I:
Tiền lương - một đòn bẩy kinh tế lợi hại trong công tác quản lý
của doanh nghiệp.
Chương II:
Thực trạng về tình hình trả lương tại Công ty gạch ốp lát Hà
Nội.
Chương III:
Một số biện pháp góp phần hoàn thiện hình thức trả lương tại
Công ty gạch ốp lát Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Nguyễn Cảnh Lịch, Lãnh đạo
Công ty, đặc biệt là cán bộ Phòng Tổ chức lao động đã nhiệt tình hướng
dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 5/2001
3
CHƯƠNG I
TIỀN LƯƠNG - MỘT ĐÒN BẨY KINH TẾ LỢI HẠI
TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CỦA DOANH NGHIỆP
I./ KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA TIỀN LƯƠNG
1. Khái niệm về tiền lương:
Trong thực tế, khái niệm và cơ cấu tiền lương rất đa dạng ở các nước
trên Thế giới. Tiền lương có thể có nhiều tên gọi khác nhau như thù lao lao
động, thu nhập lao động...
Ở Pháp sự trả công được hiểu là tiền lương, hoặc lương bổng cơ bản,
bình thường hay tối thiểu và mọi thứ lợi ích, phụ khoản khác, được trả trực
tiếp hay gián tiếp bằng tiền hay hiện vật mà người sử dụng lao động trả cho
người lao động theo việc làm của người lao động.
Ở Đài loan, tiền lương chỉ mọi khoản thù lao mà người công nhân
nhận được do làm việc, bất luận là lương bổng, phụ cấp, tiền thưởng hoặc
dùng mọi danh nghĩa khác để trả cho họ theo giờ, ngày, tháng, theo sản
phẩm.
Theo tổ chức lao động Quốc tế (ILO), tiền lương là sự trả công hoặc
thu nhập mà có thể biểu hiện bằng tiền và được ấn định bằng thoả thuận
giữa người sử dụng lao động và người lao động, hoặc bằng pháp luật, pháp
quy Quốc gia, do người sử dụng lao động phải trả cho người lao động theo
hợp đồng lao động cho một công việc đã thực hiện hay sẽ phải thực hiện,
hoặc những dịch vụ đã làm hoặc sẽ phải làm.
Ở Việt nam, hiện nay có sự phân biệt các yếu tố trong tổng thu nhập
của người lao động từ công việc: Tiền lương (dụng ý chỉ lương cơ bản), phụ
cấp và phúc lợi. Theo quan điểm cải cách tiền lương năm 1993, tiền lương
4
là giá cả sức lao động, được hình thành qua sự thoả thuận giữa người sử
dụng
lao động và người lao động phù hợp với quan hệ cung cầu về sức lao động
trên thị trường quyết định và được trả cho năng suất lao động, chất lượng và
hiệu quả công việc.
Như vậy: tiền lương được hiểu là số tiền mà người lao động nhận
được từ người sử dụng lao động của họ thanh toán lại tương ứng với số
lượng và chất lương lao động mà họ đã tiêu hao trong quá trình tạo ra của
cải trong xã hội.
2./ Bản chất của tiền lương:
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tiền lương là một phần
thu nhập quốc dân biểu hiện bằng tiền mà người lao động nhận được để bù
đắp cho lao động đã bỏ ra tuỳ theo số lượng và chất lượng của người lao
động đó. Như vậy tiền lương là một phần giá trị mới sáng tạo ra được phân
phối cho người lao động để tái sản xuất sức lao động của mình. Vì người
lao động trong quá trình tham gia sản xuất phải hao phí một lương sức lao
động nhất định và sau đó phải được bù đắp bằng việc sử dụng tư liệu tiêu
dùng.
Tiền lương dưới CNXH là một bộ phận của thu nhập quốc dân được
Nhà nước phân phối cho người lao động vì thế nó chịu ảnh hưởng của một
loạt nhân tố: Trình độ phát triển sản xuất, quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng
trong từng thời kỳ và chính sách của Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh
tế chính trị trong thời kỳ đó. Như vậy tiền lương của người lao động còn
phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế xã hội của Đất nước. Một nền kinh tế còn
nghèo nàn lạc hậu, các phương tiện sản xuất chưa tiên tiến, trình độ lao
động chưa cao, hiệu qủa sản xuất kinh doanh còn thấp thì tiền lương chưa
thể cao được. Mặt khác, lúc đó thu nhập quốc dân chưa đủ để đáp nhu cầu
cao về tiền lương của toàn xã hội. Như ta biết thu nhập quốc dân phụ thuộc
5
vào hai yếu tố đó là: Số lượng lao động trong khu vực sản xuất vật chất và
năng suất lao động bình quân của khối sản xuất vật chất. Vì vậy, tiền lương
chỉ được tăng lên trên cơ sở tăng số lượng lao động trong khu vực sản xuất
và tăng năng xuất lao động của khối này.
Theo quan điểm đổi mới hiện nay, tiền lương ở nước ta đã được coi
là giá cả sức lao động, coi sức lao động là hàng hoá là một bước tiến quan
trọng trong nhận thức về tiền lương của Đảng và Nhà nước ta và cũng hoàn
toàn phù hợp với đặc điểm của tình hình đất nước. Đất nước ta đang trong
chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH, nền kinh tế còn tồn tại
nhiều chế độ sở hữu đan xen lẫn nhau, do đó tiền công hay tiền lương còn
tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau với bản chất khác nhau. Trong thành
phần kinh tế tư bản tư nhân dựa trên chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất và
bóc lột sức và bóc lột sức lao động làm thuê thì tiền công là giá cả sức lao
động và quan hệ lao động ở đây là quan hệ chủ thợ. Trong thành phần kinh
tế quốc doanh về mặt sở hữu tập thể mà Nhà nước là người đại diện đứng ra
quản lý trong các doanh nghiệp quốc doanh thì quyền quản lý và sử dụng
lao động giao cho Giám đốc, mặt khác người lao động được tự do hoàn toàn
về thân thể (sự tự do này được pháp luật công nhận và bảo hộ). Vì vậy, đã
có đủ điều kiện để coi sức lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh
cũng là hàng hoá, nghĩa là tiền lương và giá cả sức lao động. Tiền lương ở
khu vực này Nhà nước tác động thông qua hệ thống thang bảng lương. Các
doanh nghiệp quốc doanh đại diện cho Nhà nước là người sử dụng lao động
tiến hành bố trí lao động cho phù hợp với khả năng và yêu cầu của người
lao động trên cơ sở đó phân phối kết quả sản xuất. Việc trả lương không chỉ
căn cứ vào hợp đồng lao động mà còn căn cứ vào kết quả sản xuất kinh
doanh.
2.1 Chức năng của tiền lương
6
Trong bất cứ một doanh nghiệp nào, doanh nghiệp sản xuất cũng như
doanh nghiệp thương mại, tiền lương thực hiện hai chức năng sau:
2.1.1 . Về phương diện xã hội :
Trong bất cứ chế độ xã hội nào, tiền lương cũng thực hiện chức năng
kinh tế cơ bản của nó là đảm bảo tái sản xuất sức lao động cho xã hội.Tuy
nhiên mức độ tái sản xuất mở rộng cho người lao động và cách tính, cách
trả tiền lương trong mỗi chế độ là khác nhau. Người lao động tái sản xuất
sức
lao động của mình thông qua các tư liệu sinh hoạt nhận được từ khoản tiền
lương của họ. Để tái sản xuất sức lao động tiền lương phải đảm bảo tiêu
dùng cá nhân người lao động và gia đình họ. Để thực hiện chính sách này
trong công tác tiền lương phải:
+ Nhà nước phải định mức lương tối thiểu; mức lương tối thiểu phải
đảm bảo nuôi sống gia đình và bản thân họ. Mức lương tối thiểu là nền tảng
cho chính sách tiền lương và việc trả lương cho các doanh nghiệp, bởi vậy
nó phải được thể chế bằng pháp luật buộc mọi doanh nghiệp khi sử dụng
lao động phải thực hiện. Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá linh
hoạt, đảm bảo cho người lao động làm việc đơn giản nhất trong điều kiện
lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích luỹ tái
sản xuất sức lao động mở rộng và làm căn cứ để tính các mức lương cho
các loại lao động khác.
+ Mức lương cơ bản khác: Được xác định trên cơ sở mức giá hàng vật
phẩm tiêu dùng trong từng trường hợp một, bởi vậy khi giá cả có biến động,
đặc biệt khi tốc độ lạm phát cao phải điều chỉnh tiền lương phù hợp để đảm
bảo đời sống của người lao động.
2.1.2 Về phương diện kinh tế:
Tiền lương là một đòn bẩy kinh tế có tác dụng kích thích lợi ích vật
chất đối với người lao động làm cho họ vì lợi ích vật chất của bản thân và
7
gia đình mình mà lao động một cách tích cực với chất lượng kết quả ngày
càng cao.
Để trở thành đòn bẩy kinh tế, việc trả lương phải gắn liền với kết quả
lao động, tổ chức tiền lương phải nhằm khuyến khích người lao động nâng
cao năng xuất, chất lượng và hiệu quả lao động. Làm nhiều hưởng nhiều,
làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Bội số của tiền lương phải phản
ánh đúng sự khác biệt, trong tiền lương giữa loại lao động có trình độ thấp
nhất và cao nhất được hình thành trong quá trình lao động.
II. VAI TRÒ CỦA TIỀN LƯƠNG TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ
DOANH NGHIỆP HIỆN NAY
Với chức năng cơ bản nói trên, vai trò của tiền lương được biểu hiện :
1. Về mặt kinh tế: Tiền lương đóng vai trò đặc biệt quan trọng,
quyết định trong việc ổn định và phát triển kinh tế gia đình. Nếu tiền không
đủ trang trải, mức sống của người lao động bị giảm sút, họ phải kiếm thêm
việc làm ngoài doanh nghiệp như vậy có thể làm ảnh hưởng kết quả làm
việc tại doanh nghiệp. ngược lại nếu tiền lương trả cho người lao động lớn
hơn hoặc bằng mức lương tối thiểu thì sẽ tạo cho người lao động yên tâm,
phấn khởi làm việc, dồn hết khả năng và sức lực của mình cho công việc vì
lợi ích chung và lợi ích riêng, có như vậy dân mới giàu, nước mới mạnh.
2. Về mặt chính trị xã hội: Có thể nói tiền lương là một nhân tố
quan trọng tác động mạnh mẽ nhất, nếu như tiền lương không gắn chặt với
chất lượng, hiệu quả công tác, không theo giá trị sức lao động thì tiền lương
không đủ đảm bảo để sản xuất, thậm chí tái sản xuất giản đơn sức lao động
đã làm cho đời sống của đại bộ phận của người lao động, không khuyến
khích họ nâng cao trình độ nghiệp vụ, trình độ tay nghề. Vì vậy, tiền lương
phải đảm bảo các yếu tố cấu thành để đảm bảo nguồn thu nhập, là nguồn
8
sống chủ yếu của người lao động và gia đình họ là điều kiện để người lao
động hưởng lương hoà nhập vào thị trường lao xã hội .
Để sử dụng đòn bẩy tiền lương đối với người lao động đòi hỏi công
tác tiền lương trong doanh nghiệp phải đặc biệt coi trọng.
Tổ chức tiền lương trong doanh nghiệp được công bằng và hợp lý sẽ
tạo ra hoà khí cởi mở giữa những người lao động, hình thành khối đoàn kết
thống nhất, trên dưới một lòng, một ý chí vì sự nghiệp phát triển và vì lợi
ích bản thân họ.
Chính vì vậy mà người lao động tích cực làm việc bằng cả lòng nhiệt
tình, hăng say và họ có quyền tự hào về mức lương họ đạt được.
Ngược lại, khi công tác tổ chức tiền lương trong doanh nghiệp thiếu
tính công bằng và hợp lý thì không những nó sẽ sinh ra những mâu thuẫn
nội bộ thậm chí khá gay gắt đối với người lao động với nhau, với những
người lao động với cấp quản trị, cấp lãnh đạo doanh nghiệp, mà có lúc còn
có thể gây ra sự phá ngầm dẫn đến sự phá hoại ngầm dẫn những đến sự
lãng phí to lớn trong sản xuất. Vì vậy, với nhà quản trị doanh nghiệp, một
trong những công việc cần được quan tâm hàng đầu là phải theo dõi đầy đủ
công tác tiền lương, thường xuyên lắng nghe và phát hiện kịp thời những ý
kiến bất đồng hoặc những mâu thuẫn có khả năng xuất hiện trong phân
phối tiền lương, tiền thưởng của người lao động qua đó có sự điều chỉnh
thoả đáng hợp lý.
Tóm lại, trong đời sống xã hội, trong doanh nghiệp tiền lương đóng
vai trò đặc biệt quan trọng, nó không chỉ đảm bảo cho đời sống của người
lao động, tái sản xuất sức lao động mà còn là một công cụ để quản lý
doanh nghiệp, là đòn bẩy kinh tế hiệu lực. Tuy nhiên, chỉ trên cơ sở áp
dụng đúng đắn chế độ tiền lương, đảm bảo các nguyên tắc của nó thì mới
9
phát huy được mặt tích cực và ngược lại sẽ làm ảnh hưởng xấu đến toàn bộ
hoạt động của doanh nghiệp.
III./ CÁC HÌNH THỨC TRẢ LƯƠNG TRONG DOANH NGHIỆP HIỆN
NAY
A. Các nguyên tắc trả lương trong doanh nghiệp:
Để phát huy tốt tác dụng của tiền lương trong hoạt động sản xuất
kinh doanh và đảm bảo hiệu quả của các doanh nghiệp, khi trả lương cho
người lao động cần đạt được các yêu cầu sau:
- Bảo đảm tái sản xuất sức lao động và không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho người lao động.
- Làm cho năng suất lao động không ngừng nâng cao.
- Đảm bảo tính đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu.
Để phản ánh đầy đủ các yêu cầu trên, khi tổ chức trả lương phải đảm
bảo các nguyên tắc cơ bản sau:
1.Trả lương ngang nhau cho lao động như nhau:
Đề ra nguyên tắc này là nhằm quán triệt nguyên tắc phân phối theo
lao động, phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người.
Người sử dụng lao động không được trả công cho người lao động thấp hơn
mức lương tối thiểu do Nhà Nước quy định, không được phân biệt giới
tính, tuổi tác, dân tộc...mà phải trả công ngang nhau cho lao động như nhau
nếu kết quả lao động và hiệu quả như nhau trong cùng một đơn vị làm việc.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay còn tồn tại nhiều
thành phần kinh tế thì nguyên tắc này đang bị vi phạm, tiền lương chưa
quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động mang nặng tính bình quân.
2. Tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động.
Xã hội muốn tồn tại và phát triển thì con người là nhân tố tác động
phải thường xuyên tiêu dùng các của cải vật chất. Để có của cải vật chất thì
10
nền sản xuất xã hội phải tiến hành liên tục, do đó sức lao động yếu tố cơ
bản cấu thành quá trình sản xuất cũng cần luôn luôn được sử dụng và tái
tạo.
Thực hiện nguyên tắc này tiền lương phải là giá cả sức lao động phù
hợp với quan hệ lao động của pháp luật Nhà Nước. Thực hiện việc trả
lương gắn với giá trị mới sáng tạo ra, đồng thời phản ánh đúng kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế. Mức lương tối thiểu phải là nền tảng của chính
sách tiền lương và có cơ cấu hợp lý về sinh học, xã hội học, bảo hiểm tuổi
già và nuôi con.
Tiền lương của người lao động là để tái sản xuất sức lao động, tức là
đảm bảo cho đời sống của bản thân họ và gia đình của người lao động.
Điều quan trọng là số lượng tư liệu sinh hoạt mà người lao động được nhận
khi họ chuyển hoá số tiền lương nhận được qua các khâu phân phối lưu
thông trực tiếp là giá cả và phương thức phục vụ của thị trường.
3. Đảm bảo tốc độ tăng năng suất lao động lớn hơn tốc độ tăng
tiền lương bình quân:
Đề ra nguyên tắc này nhằm thực hiện yêu cầu của tái sản xuất mở
rộng, kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đáp ứng nhu
cầu trước mắt và chăm lo lợi ích lâu dài.
Thực hiện nguyên tắc này, cần gắn chặt tiền lương với năng suất lao
động và hiệu quả kinh tế. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa: Làm và ăn, thúc
đẩy mọi người khai thác mọi khả năng tiềm tàng để không ngừng nâng cao
năng suất lao động xã hội.
Nguyên tắc này có khả năng thực hiện được, bởi vì những nhân tố
làm tăng năng suất lao động nhiều hơn những nhân tố làm tăng tiền lương.
Tiền lương phụ thuộc vào việc nâng cao trình độ lành nghề của người lao
động do nâng cao hiệu quả sử dụng thời gian lao động do Nhà Nước tăng
11
lương...Năng suất lao động tăng lên không chỉ phụ thuộc vào các nhân tố
làm tăng tiền lương mà còn phụ thuộc vào các nhân tố khác nhau: Do phát
triển của khoa học kỹ thuật và việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công
nghệ mới vào hoạt động sản xuất. Do cải tiến và nâng cao trình độ tổ chức
sản xuất và tiết kiệm, phát huy các yếu tố thuận lợi của điều kiện tự nhiên...
4. Thực hiện mối tương quan hợp lý về tiền lương và thu nhập
của các bộ phận lao động xã hội:
Cơ sở để đề ra nguyên tắc này nhằm bảo đảm sự công bằng và bình
đẳng xã hội, kết hợp hài hoà lợi ích giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng
xã hội. Thực hiện nguyên tắc này cần xem xét giải quyết tốt mối quan hệ
về thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp dân cư, giữa những người đang
làm việc với những người nghỉ hưu, những người hưởng chính sách xã hội.
Trong khu vực Nhà Nước, cần thực hiện trả lương hoàn toàn bằng
tiền trên cơ sở xoá bỏ các chính sách chế độ cung cấp hiện vật mang tính
chất tiền lương. Xác lập quan hệ hợp lý về tiền lương và thu nhập giữa các
khu vực, các ngành nghề trên cơ sở xác định bội số và mức lương bậc 1 khi
xây
dựng các hệ thống thang, bảng lương, phụ cấp và cơ chế trả lương, trả
thưởng. Nhà Nước có chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý giữa
các bộ phận dân cư, các vùng, các ngành.
B./ Các hình thức trả lương trong doanh nghiệp:
1. Hình thức trả lương theo sản phẩm:
Hiện nay phần lớn các doanh nghiệp nước ta đều áp hình thức trả
lương theo sản phẩm. Trả lương theo sản phẩm là hình thức tiền lương căn
cứ vào số lượng sản phẩm sản xuất ra của mỗi người và đơn giá lương sản
phẩm để trả lương cho cán bộ công nhân viên chức.
Sở dĩ như vậy là vì chế độ lương cấp bậc và các khoản phụ cấp chưa
kiểm tra giám sát được chặt chẽ về sức lao động của mỗi người để đãi ngộ
12
về tiền lương một cách đúng đắn. Hình thức tiền lương trả theo sản phẩm
là hình thức căn bản để thực hiện quy luật phân phối theo lao động. Để
quán triệt đầy đủ hơn nữa nguyên nhân, nguyên tắc phân phối theo số
lượng và chất lượng lao động nghĩa là căn cứ trực tiếp vào kết quả lao động
của mỗi người sản xuất. Ai làm nhiều, chất lượng sản phẩm tốt, được
hưởng nhiều lương, ai làm ít chất lượng sản phẩm xấu thì hưởng ít lương.
Những người làm việc như nhau thì phải được hưởng lương bằng nhau.
Mặt khác chế độ trả lương sản phẩm còn căn cứ vào số lượng lao động chất
lượng lao động kết tinh trong từng sản phẩm của mỗi công nhân làm ra để
trả lương cho họ, làm cho quan hệ giữa tiền lương và năng suất lao động,
giữa lao động và hưởng thụ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
1.1 Thực hiện chế độ trả lương theo sản phẩm có nhiều tác dụng
như sau:
Làm cho mỗi người lao động vì lợi ích vật chất mà quan tâm đến việc nâng
cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, bảo đảm hoàn thành toàn
diện và vượt mức kế hoạch nhà nước. Vì hình thức lương sản phẩm căn cứ
trực tiếp vào số lượng, chất lượng sản phẩm của mỗi người sản xuất ra để
tính lương nên có tác dụng khuyến khích người công nhân tích cực sản
xuất, tận dụng thời gian làm việc tăng năng suất lao động. Hơn nữa chỉ
những sản phẩm tốt mới được trả lương cao nên người công nhân nào cũng
cố gắng sản xuất bảo đảm chất lượng sản phẩm tốt. Như vậy năng suất lao
động tăng, chất lượng sản phẩm bảo đảm thì giá thành sản phẩm sẽ hạ.
- Khuyến khích người công nhân quan tâm đến việc nâng cao trình
độ văn hoá, trình độ chuyên môn, khoa học kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất và
lao động tích cực sáng tạo và áp dụng các phương pháp sản xuất tiên tiến.
Khi thực hiện trả lương theo sản phẩm, công nhân phải phấn đấu để thường
xuyên đạt và vượt mức các định mức lao động đề ra do đó họ không