Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước có tính quá độ
trong một thời gian nhất định. Đó là thời kỳ quá độ chuyển đổi nền kinh tế, khi mà nguồn
vốn NSNN còn bị hạn hẹp, đầu tư của các thành phần kinh tế khác ngoài Nhà nước còn bị
hạn chế, nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế – xã hội theo mục tiêu của Nhà nước lớn. Vốn tín
dụng ĐTPT của Nhà nước được sử dụng để đầu tư xây dựng các dự án trọng điểm, then
chốt thuộc một số ngành, lĩnh vực trọng yếu, các dự án triển khai ở các vùng khó khăn cần
khuyến khích đầu tư, có ý nghĩa ở tầm vĩ mô đối với nền kinh tế chung của cả nước, hoặc ở
những khâu xung yếu để làm mồi, tạo đà, tạo khâu đột phá nhằm kích thích sự tăng trưởng
của các ngành, các vùng kinh tế phát triển.
Để vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước được sử dụng hiệu quả, đảm bảo khả năng
hoàn vốn phải quan tâm đến hiệu quả của dự án đầu tư sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà
nước, điều đó đòi hỏi phải hoàn thiện cơ chế thẩm định dự án. Chất lượng công tác thẩm
định quyết định đến chất lượng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế của dự án đầu tư
và công tác thu nợ vay của tổ chức quản lý tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, trong khi nước ta đang thực hiện mục tiêu của
Đảng và Nhà nước ta đề ra là nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, đòi
hỏi có những dự án lớn, có tổng vốn đầu tư lớn, thời gian vay vốn dài, mặt khác do hội nhập
với thị trường thế giới mà thị trường thế giới luôn có những biến động mà ta không thể
lường trước, do đó các dự án luôn tiềm ẩn yếu tố rủi ro. Để cho việc sử dụng vốn tín dụng
ĐTPT của Nhà nước có hiệu quả, đảm bảo an toàn vốn thì phaỉ bắt đầu từ công tác thẩm
định các dự án vay vốn, làm sao các dự án vừa đúng đối tượng vay vốn theo quy định của
Chính phủ, vừa phải đảm bảo hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ. Đây là một vấn đề hết
sức phức tạp, khó khăn vì nghiệp vụ thẩm định vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ
thuật.
Chính vì vậy trong thời gian thực tập tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang, em đã tìm
hiểu về hoạt động thẩm định và quyết định chọn đề tài:
“ Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án vay vốn tín dụng
ĐTPT của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang”.
Với mong muốn nghiên cứu để thấy những khó khăn, vướng mắc trong công tác
thẩm định dự án đầu tư sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước hiện nay, từ đó đưa
những giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần vào việc khắc phục những khó khăn, bất cập
mà Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang đang gặp phải, phát huy hơn nữa những thành tựu đã
đạt được trong những năm qua.
Khoá luận tốt nghiệp bao gồm có 2 chương :
Chương1 : Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư vay vốn tín dụng ĐTPT của
Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang.
Chương 2 : Đánh giá về công tác thẩm định, một số giải pháp và kiến nghị nâng cao
chất lượng thẩm định dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ
HTPT Hà giang.
80 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1740 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án vay vốn tín dụng ĐTPT ở Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm
định dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà
nước tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang
Lời nói đầu
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước có tính quá độ
trong một thời gian nhất định. Đó là thời kỳ quá độ chuyển đổi nền kinh tế, khi mà nguồn
vốn NSNN còn bị hạn hẹp, đầu tư của các thành phần kinh tế khác ngoài Nhà nước còn bị
hạn chế, nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế – xã hội theo mục tiêu của Nhà nước lớn. Vốn tín
dụng ĐTPT của Nhà nước được sử dụng để đầu tư xây dựng các dự án trọng điểm, then
chốt thuộc một số ngành, lĩnh vực trọng yếu, các dự án triển khai ở các vùng khó khăn cần
khuyến khích đầu tư, có ý nghĩa ở tầm vĩ mô đối với nền kinh tế chung của cả nước, hoặc ở
những khâu xung yếu để làm mồi, tạo đà, tạo khâu đột phá nhằm kích thích sự tăng trưởng
của các ngành, các vùng kinh tế phát triển.
Để vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước được sử dụng hiệu quả, đảm bảo khả năng
hoàn vốn phải quan tâm đến hiệu quả của dự án đầu tư sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà
nước, điều đó đòi hỏi phải hoàn thiện cơ chế thẩm định dự án. Chất lượng công tác thẩm
định quyết định đến chất lượng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế của dự án đầu tư
và công tác thu nợ vay của tổ chức quản lý tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, trong khi nước ta đang thực hiện mục tiêu của
Đảng và Nhà nước ta đề ra là nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, đòi
hỏi có những dự án lớn, có tổng vốn đầu tư lớn, thời gian vay vốn dài, mặt khác do hội nhập
với thị trường thế giới mà thị trường thế giới luôn có những biến động mà ta không thể
lường trước, do đó các dự án luôn tiềm ẩn yếu tố rủi ro. Để cho việc sử dụng vốn tín dụng
ĐTPT của Nhà nước có hiệu quả, đảm bảo an toàn vốn thì phaỉ bắt đầu từ công tác thẩm
định các dự án vay vốn, làm sao các dự án vừa đúng đối tượng vay vốn theo quy định của
Chính phủ, vừa phải đảm bảo hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ. Đây là một vấn đề hết
sức phức tạp, khó khăn vì nghiệp vụ thẩm định vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ
thuật.
Chính vì vậy trong thời gian thực tập tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang, em đã tìm
hiểu về hoạt động thẩm định và quyết định chọn đề tài:
“ Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án vay vốn tín dụng
ĐTPT của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang”.
Với mong muốn nghiên cứu để thấy những khó khăn, vướng mắc trong công tác
thẩm định dự án đầu tư sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước hiện nay, từ đó đưa
những giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần vào việc khắc phục những khó khăn, bất cập
mà Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang đang gặp phải, phát huy hơn nữa những thành tựu đã
đạt được trong những năm qua.
Khoá luận tốt nghiệp bao gồm có 2 chương :
Chương1 : Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư vay vốn tín dụng ĐTPT của
Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang.
Chương 2 : Đánh giá về công tác thẩm định, một số giải pháp và kiến nghị nâng cao
chất lượng thẩm định dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ
HTPT Hà giang.
Chương 1
Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước
tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang.
1.1 – Một số vấn đề cơ bản về tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
1.1.1 – Bản chất của tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
1.1.1.1 – Khái niệm về tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
- Tín dụng là quan hệ vay trả. Tín dụng của nhà nước là các hoạt động vay – trả giữa
Nhà nước với các tác nhân hoạt động trong nền kinh tế, phục vụ cho mục đích của Nhà
nước. Khác với các loại hình tín dụng khác, tín dụng nhà nước không phục vụ các đối tượng
kinh tế đơn thuần, mà nhằm vào các đối tượng vừa có tính chất kinh tế, vừa có tính chất xã
hội, để thực hiện vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định.
Cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, tín dụng nhà nước ra đời rất sớm.
Tuy nhiên, tín dụng nhà nước trong giai đoạn đầu chủ yếu là các loại tín dụng phi kinh tế,
nhằm phục vụ mục đích chi tiêu của Nhà nước, là nguyên nhân tiềm ẩn của việc tăng thuế
má và lạm phát trong tương lai, nên hầu như có tính cưỡng chế. Để đáp ứng được hai tính
chất trên, tín dụng đầu tư nhà nước phải có cả chức năng phân phối của tài chính ( phân
phối, cấp phát) và chức năng tín dụng của ngân hàng.
- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là tín dụng đầu tư của nhà nước cho vay đầu tư với
lãi suất ưu đãi theo kế hoạch của Nhà nước, hoặc theo mục tiêu, định hướng của Nhà nước.
- Đối tượng của tín dụng ĐTPT của Nhà nước thường ở các lĩnh vực then chốt, trọng
điểm của các ngành, các vùng làm mồi, tạo đà đối với phát triển kinh tế – xã hội, nhưng khả
năng sinh lời thấp, quy mô đầu tư vốn quá lớn, hoặc quá mạo hiểm đối với nhà đầu tư. Do
đó được Nhà nước định hướng khuyến khích và ưu tiên đầu tư trong từng thời kỳ với lãi
suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thị trường có tín dụng thương mại.
Khái niệm tín dụng ĐTPT của Nhà nước chỉ ra đời khi mục đích của tín dụng nhà
nước chuyển từ chi tiêu sang đầu tư dưới dạng có vay có hoàn trả. Tính kinh tế của của hoạt
động tín dụng nhà nước xuất hiện khi các hoạt động đầu tư phát triển được sử dụng từ
nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước để tạo ra nguồn thu có khả năng hoàn trả khoản
vốn đã sử dụng. Đây cũng chính là lý do khiến cho tín dụng ĐTPT của Nhà nước không chỉ
là công cụ củng cố tiềm lực tài chính quốc gia mà còn là công cụ để Nhà nước có thể thực
hiện vai trò điều tiết vĩ mô. Giống như các hình thức tín dụng khác, cơ chế tín dụng nhà
nước cho đầu tư phát triển không chỉ giúp tập trung được nguồn vốn cần thiết – nền tảng
cho Nhà nước tiến hành điều tiết nền kinh tế, mà còn có tác dụng nâng cao hiệu quả sử
dụng, bảo toàn và phát triển được nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước. Qua đó, Nhà
nước có thể mở rộng và chủ động trong vấn đề đầu tư phát triển.
1.1.1.2 - Đặc tính kinh tế – xã hội của tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
Do tín dụng ĐTPT của Nhà nước là một hình thức tín dụng đặc biệt, ở đó tính kinh tế
của tín dụng nhà nước không phải là tính kinh tế đơn thuần. Nó bao gồm những đặc tính
sau.
- Đặc tính kinh tế vĩ mô : tín dụng ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào các lĩnh vực
then chốt, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân cả nước, hoặc một ngành, một
vùng, một khu vực.
- Đặc tính xã hội: tín dụng ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào các lĩnh vực mà tín
dụng thương mại với mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận có thể không giải quyết được ( do hiệu
quả trực tiếp của nhà đầu tư không được đảm bảo, hoặc quy mô nguồn vốn quá lớn, thời
gian thu hồi vốn đầu tư dài...) để giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước như : giải quyết
việc làm, xoá đói giảm nghèo, điều chỉnh các cơ cấu kinh tế ...vv.
1.1.1.3 - Đặc điểm của tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
- Nguồn vốn để cho vay đầu tư là vốn của NSNN được cân đối để cho vay đầu tư,
hoặc nguồn vốn huy động theo kế hoạch của Nhà nước.
- Tổ chức tín dụng làm nhiệm vụ và cho vay tín dụng ĐTPT là hệ thống những đơn
vị, cơ quan chuyên môn của Nhà nước, được thành lập theo quyết định của Chính phủ. Hiện
nay việc cho vay tín dụng ĐTPT do hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển đảm nhiệm.
- Đối tượng cho vay của tín dụng ĐTPT là những dự án đầu tư theo các chương
trình, mục tiêu, định hướng về chủ trương đầu tư của Nhà nước, theo chính sách kinh tế vĩ
mô, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng đã được quy định trong chiến
lược phát triển kinh tế – xã hội.
- Lãi suất cho vay của tín dụng ĐTPT là lãi suất ưu đãi, do Nhà nước điều tiết phù
hợp với yêu cầu, đặc điểm, điều kiện cụ thể của đất nước và chủ trương khuyến khích đầu
tư phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ.
1.1.2 – Vai trò của tín dụng ĐTPT của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh
tế.
1.1.2.1 - Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là một công cụ sắc bén trong việc lành
mạnh hoá nền tài chính – tiền tệ quốc gia.
Đối với lĩnh vực tài chính, tín dụng ĐTPT của nhà nước có tác dụng tích cực trong
việc tạo dựng và phân bổ nguồn vốn một cách hiệu quả cho các hoạt động đầu tư thuộc
trách nhiệm của tài chính quốc gia. Việc tập trung và phân bổ nguồn vốn luôn là hai mặt
của một vấn đề, có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Nếu việc sử dụng nguồn
vốn được thực hiện không có hiệu quả dưới hình thức cấp phát thì khả năng huy động
nguồn vốn và can thiệp vào nền kinh tế của Nhà nước rất hạn chế. Nếu huy động vốn bằng
các hình thức tăng thuế, phí, lệ phí ...thì không những mục đích huy động nguồn vốn khó có
thể đạt được, mà nền sản xuất có thể sẽ bị bóp méo. Trong cả hai trường hợp, sự phát triển
của nền tài chính quốc gia đều bị đe doạ.
Ngược lại, vấn đề lại được giải quyết một cách hiệu quả bằng cơ chế tín dụng. Tính
chất đòn bảy đi từ cơ chế sử dụng nguồn vốn hiệu quả tới hoạt động huy động vốn. Trên thị
trường, động cơ đầu tư vào tín dụng nhà nước cũng tăng lên do các nguy cơ về lạm phát
tiềm ẩn (hình thành do vấn đề chi tài chính quốc gia không hiệu quả, tiền tệ hoá thâm hụt
ngân sách ...) không còn nữa. Như vậy tính cưỡng chế trong hoạt động vay mượn của Nhà
nước trên thị trường không cần thiết nữa. Thực tế, với các công cụ nợ của Nhà nước hiện
nay như trái phiếu, tín phiếu... Nhà nước đã có thể tập trung một cách nhanh chóng một
khối lượng vốn theo nhu cầu với thời hạn dài và chi phí không cao. Khả năng này sẽ giúp
Nhà nước chủ động trong việc điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kéo theo sự cải
thiện tiềm lực tài chính quốc gia.
Việc ra đời của cơ chế tín dụng nhà nước còn là một tác nhân quan trọng trên thị
trường tài chính, đó là sự phát triển của thị trường chứng khoán và của khu vực các thể chế
tài chính phi ngân hàng ( công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư...) Trái phiếu
Chính phủ với quy mô lớn, tính thanh khoản cao đã trở thành một công cụ cơ bản trên thị
trường chứng khoán và lãi suất chứng khoán Chính phủ đã trở thành mức lãi suất chỉ đạo
trên thị trường tài chính. Hiệu quả hoạt động của của việc sử dụng vốn bằng cơ chế tín dụng
đã tạo ra tính an toàn cho chứng khoán Chính phủ, thúc đẩy phát triển của hoạt động huy
động vốn nói riêng và thị trường vốn nói chung. Chỉ có tính hiệu quả của các hoạt động đầu
tư bằng nguồn vốn tín dụng nhà nước mới tạo ra được nguồn thu để trang trải các nghĩa vụ
nợ, lúc đó việc huy động nguồn vốn dài hạn mới tồn tại và phát triển được.
Đối với lĩnh vực tiền tệ, vai trò của tín dụng đầu tư nhà nước cũng hết sức quan
trọng. Việc xoá bỏ cơ chế tiền tệ hoá thâm hụt ngân sách là nền tảng cho việc lành mạnh
hoá khu vực tiền tệ ngân hàng, góp phần duy trì sự ổn định giá trị đồng nội tệ. Không dừng
ở đó, cơ chế tín dụng đầu tư nhà nước ra đời còn là cơ sở để tách các hoạt động tín dụng
mang tính kinh tế – xã hội ra khỏi hoạt động có tính thương mại của khu vực trung gian tài
chính, chuyển hoạt động kinh doanh của các tổ chức trung gian tài chính sang cơ chế thị
trường hoàn toàn.
1.1.2.2 – Góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Mục tiêu đầu tiên được đặt ra đối với tín dụng đầu tư nhà nước là thực hiện chức
năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế, nó chính là vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế hỗn
hợp. Nếu như khủng khoảng thừa, khủng khoảng thiếu, suy thoái kinh tế theo chu kỳ, phân
hoá giàu nghèo... là hệ quả của cơ chế thị trường, thì đây chính là mục tiêu phải giải quyết
của tín dụng nhà nước. Để có thể giải quyết được những vấn đề này, tín dụng nhà nước một
mặt phải tập trung vào những lĩnh vực, ngành nghề cần thiết cho phát triển kinh tế bền
vững, nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp lôi kéo các tác nhân thị trường phát triển các lĩnh vực
ngành nghề, điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng mong muốn...mặt khác, tín dụng đầu tư
nhà nước sẽ tập trung vào những ngành nghề, lĩnh vực công nghệ mới, có tác dụng thúc đẩy
tăng năng suất lao động, tăng sản phẩm xã hội...nhằm cải thiện đời sống, rút ngắn khoảng
cách với các nước, cũng như không tụt hậu hoặc đi lệch xu hướng phát triển kinh tế thế
giới, khu vực.
1.1.2.3 – Nâng cao hiệu quả đầu tư, xoá bao cấp về đầu tư.
Nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư là vấn đề tiên quyết đối với tín dụng ĐTPT
của nhà nước. Như đã đề cập trên đây, chỉ có hiệu quả của các dự án đầu tư tín dụng nhà
nước mới tạo nền tảng cho sự phát triển của các hoạt động tín dụng đầu tư nhà nước nói
riêng, thị trường nợ của Chính phủ và thị trường tài chính nói chung. Để đảm bảo tính hiệu
quả của hoạt động đầu tư, các cơ chế, chính sách quản lý tín dụng đầu tư nhà nước được
đưa ra rất chặt chẽ nhằm kiểm tra, giám sát trước và trong khi cho vay một cách nghiêm
ngặt. Dưới các áp lực này, chủ đầu tư buộc phải tăng cường công tác hạch toán kế toán,
phải chứng minh và chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý nguồn vốn tín dụng
ĐTPT của Nhà nước về khả năng tạo ra nguồn thu nhập cao hơn chi phí đầu tư để không
chỉ bù đắp được các chi phí đã bỏ ra mà phải trả lãi của khoản vay tín dụng đầu tư. Tiếp đó,
việc quy định tài sản đảm bảo tiền vay và mức vốn tự có của chủ đầu tư cũng sẽ có tác dụng
tích cực đối với việc nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư và việc thực hiện nghĩa vụ trả
nợ của chủ đầu tư. Giá trị của tài sản đảm bảo tiền vay và tỷ lệ nguồn vốn tự có của chủ đầu
tư so với quy mô nguồn vốn vay càng lớn, thì trách nhiệm của chủ đầu tư càng cao và hiệu
quả sẽ càng được cải thiện. Ngoài ra, việc thực hiện cơ chế tín dụng còn có tác dụng nhất
định trong việc giảm mức độ thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế, hạn chế việc sử
dụng nguồn vốn tín dụng sai mục đích, giảm chi phí trong nền kinh tế.
Phát triển hoạt động tín dụng ĐTPT của nhà nước đi đôi với việc giảm các hoạt động
bao cấp về chi đầu tư. Nếu như không có cơ chế tín dụng, thì mọi khoản chi đầu tư từ
NSNN sẽ được thực hiện bằng cơ chế cấp phát và việc không ràng buộc nghĩa vụ phải trả
nợ sẽ không tạo ra các động cơ thực hiện việc đầu tư một cách hiệu quả đối với chủ đầu tư.
Bên cạnh đó với cơ chế tín dụng, khả năng điều tiết nền kinh tế của Nhà nước sẽ tăng lên vì
quy mô nguồn vốn dành cho đầu tư ngày càng được cải thiện khi các khoản cho vay được
truy hoàn thay vì việc cấp phát không hoàn lại trước đó. Đầu tư của Nhà nước vào các
ngành công nghiệp then chốt như cơ sở hạ tầng, cầu cống, bến cảng, đặc biệt là lĩnh vực
khoa học công nghệ ... tăng lên sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của toàn nền kinh tế.
1.1.2.4 – Giúp các doanh nghiệp mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất kinh
doanh.
Cơ chế thị trường luôn tạo ra sự lệch pha giữ nhu cầu và khả năng thanh toán của các
tổ chức, đơn vị kinh tế. Tín dụng ra đời như là một đòi hỏi tất yếu khách quan để giải quyết
sự lệch pha này và như vậy nó có tác dụng duy trì sự liên tục cũng như khả năng mở rộng
đầu tư, phát triển sản xuất của các đơn vị kinh tế. Đối với tín dụng ĐTPT của Nhà nước, tác
dụng mở rộng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thể hiện ở các khía cạnh.
- Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thuộc diện đầu tư tín dụng của Nhà
nước sẽ có động cơ mở rộng sản xuất kinh doanh dưới các hình thức đầu tư mới hoặc đổi
mới thiết bị công nghệ, tăng quy mô... thông qua việc trực tiếp nhận được các khoản tín
dụng của Nhà nước hoặc sự bảo lãnh, bảo hiểm tín dụng hay hỗ trợ lãi suất của Nhà nước.
- Hoạt động đầu tư của Nhà nước sẽ lôi kéo các thành phần kinh tế trong nền kinh tế
mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua việc tạo ra các cơ sở hạ tầng thiết yếu cho sản xuất,
hoặc phát triển một khâu nào đó của chu trình sản xuất.
Vấn đề có nghĩa sâu rộng hơn nữa là sự phát triển của cơ chế tín dụng nhà nước đã
tạo ra một thị trường tài chính năng động, thực hiện tốt chức năng chu chuyển, điều hoà các
nguồn tài chính trong nền kinh tế – vấn đề thiết yếu đối với việc duy trì liên tục và mở rộng
phát triển nền sản xuất hàng hoá.
1.1.3 – Hình thức hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
1.1.3.1 – Các hình thức tạo nguồn vốn.
+ Huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu chính phủ.
+ Nguồn vốn vay nợ viện trợ của nước ngoài.
+ Nguồn vốn NSNN.
+ Nguồn vốn thu hồi nợ hàng năm.
+ Vốn tự huy động trên thị trường.
+ Nguồn nhận uỷ thác của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.
1.1.3.2 – Các hình thức sử dụng nguồn vốn.
+ Cho vay đầu tư.
+ Bảo lãnh tín dụng đầu tư.
+ Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.
+ Bảo hiểm tín dụng.
1.2 – Thực trạng công tác thẩm định dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà
nước tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang.
1.2.1 – Dự án đầu tư.
1.2.1.1 – Khái niệm.
1.2.1.1.1 - Đầu tư.
- Hiểu đơn giản : Đầu tư là việc bỏ vốn ở thời điểm hiện tại để mong đạt được hiệu
quả lớn hơn ( hiệu quả kinh tế – xã hội ) trong tương lai.
- Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến
hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương
lai lớn hơn nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài
nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các
tài sản chính ( tiền vốn ), tài sản vật chất ( nhà máy, đường xá...) và nguồn nhân lực có đủ
điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Những kết quả này
không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế được thụ hưởng.
- Đầu tư theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện
tại nhằm đem lại cho nền kinh tế – xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn
lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
- Đứng trên góc độ nền kinh tế thì hoạt động đầu tư là một lĩnh vực hoạt động của
nền kinh tế nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền
kinh tế.
- Đứng trên góc độ các cơ sở sản xuất kinh doanh thì hoạt động đầu tư nhằm tăng
thêm cơ sở vật chất kỹ thuật mới, duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có,
là điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh.
Như vậy về mặt bản chất, hoạt động đầu tư là quá trình thực hiện sự chuyển hoá vốn
bằng tiền ( vốn đầu tư ) thành vốn hiện vật để tạo nên những yếu tố cơ bản của sản xuất
kinh doanh, dịch vụ và sinh hoạt.
Mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được những kết quả lớn hơn so với những
hy sinh mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
1.2.1.1.2 – Dự án đầu tư.
Để mọi công cuộc đầu tư đạt hiệu quả mong muốn thì phải thực hiện theo dự án đầu
tư. Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau.
- Về mặt hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết
và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và
thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
- Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư,
lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế – xã hội trong một thời gian dài.
- Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết
của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế – xã hội, làm tiền đề cho
các công cuộc đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất
trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung.
- Xét về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan với
nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được các mục tiêu đã khẳng định bằng việc tạo ra các kết
quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định.
Như vậy một dự án đầu tư bao gồm 4 thành phần chính :
+ Mục tiêu của dự án đầu tư thể hiện ở 2 mức :
- Mục tiêu phát triển : là những lợi ích kinh tế – xã hội do thực hiện dự án đem lại.
- Mục tiêu trước mắt : là các mục đích cụ thể cần đạt được của việc thực hiện dự án.
+ Các kết quả : đó là những kết quả cụ thể, có thể định lượng, được tạo ra từ các hoạt
động khác nhau của dự án.
+ Các hoạt động :