Nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó các qui luật kinh tế
đã phát huy tác dụng đặc biệt là qui luật cạnh tranh. Điều này đã dẫn đến việc không ít
các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Nguyên nhân
chủ yếu là do trình độ quản lý kinh doanh nói chung con non kém, bị động trước môi
trường kinh doanh, hoạt động kinh doanh mang tính tình thế ngắn hạn. Để khắc phục tình
trạng trên trước hết các doanh nghiệp cần nâng cao trình độ quản lý, tổ chức hoạt động
kinh doanh theo định hứơng chiến lược. Chiến lược giúp doanh nghiệp xác định đúng
mục tiêu của mình trong một thời gian xác định; nhận biết khai thác tối đa cơ hội thị
trường, né tránh và tối thiểu hóa những nguy cơ thị trường; phân tích vận dụng hữu hiệu
những tiềm lực hiên hưu cũng như tiêm năng của doanh nghiệp và khắc phục những điểm
yếu để đạt thành mục tiêu đã định. Như vậy chính chiến lược và quản trị chiến lược cạnh
tranh giúp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và đứng vững trên thị trường.
Nhận thức được vai trò quan trọng của việc quản trị chiến lược, qua quá trình thực
tập ở xí nghiệp kinh doanh thương mại, tôi chọn đề tài:"Một số giải pháp nhằm hoàn
thiện chiến lược cạnh tranh tại xí nghiệp kinh doanh thương mại-công ty vận tải ô tô
số 3" để viết chuyên đề tốt nghiệp.
82 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1887 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chiến lược cạnh tranh tại xí nghiệp kinh doanh thương mại-Công ty vận tải ô tô số 3, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chiến
lược cạnh tranh tại xí nghiệp kinh
doanh thương mại-công ty vận tải ô tô
số 3
mở đầu
Nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó các qui luật kinh tế
đã phát huy tác dụng đặc biệt là qui luật cạnh tranh. Điều này đã dẫn đến việc không ít
các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Nguyên nhân
chủ yếu là do trình độ quản lý kinh doanh nói chung con non kém, bị động trước môi
trường kinh doanh, hoạt động kinh doanh mang tính tình thế ngắn hạn. Để khắc phục tình
trạng trên trước hết các doanh nghiệp cần nâng cao trình độ quản lý, tổ chức hoạt động
kinh doanh theo định hứơng chiến lược. Chiến lược giúp doanh nghiệp xác định đúng
mục tiêu của mình trong một thời gian xác định; nhận biết khai thác tối đa cơ hội thị
trường, né tránh và tối thiểu hóa những nguy cơ thị trường; phân tích vận dụng hữu hiệu
những tiềm lực hiên hưu cũng như tiêm năng của doanh nghiệp và khắc phục những điểm
yếu để đạt thành mục tiêu đã định. Như vậy chính chiến lược và quản trị chiến lược cạnh
tranh giúp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và đứng vững trên thị trường.
Nhận thức được vai trò quan trọng của việc quản trị chiến lược, qua quá trình thực
tập ở xí nghiệp kinh doanh thương mại, tôi chọn đề tài:"Một số giải pháp nhằm hoàn
thiện chiến lược cạnh tranh tại xí nghiệp kinh doanh thương mại-công ty vận tải ô tô
số 3" để viết chuyên đề tốt nghiệp.
Phần I :
Những vấn đề cơ bản về chất lượng dịch vụ Và vai trò của nói với việc mở rộng thị trường
I. Chất lượng dịch vụ
1.Chất lượng dịch vụ và đặc điểm của chất lượng dịch vụ
+ Chất lượng là gì ? Vì sao phải quan tâm tới chất lượng ?
- Vì sao phải quan tâm đến chất lượng
Như chúng ta đã biết chất lượng và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, đó là một quan hệ thuận chiều, vậy muốn tăng trưởng kinh tế cao chúng ta phải cải
tiến, không ngừng nâng cao chất lượng của sản phẩm dịch vụ. Qua thời gian chúng ta thấy
chất lượng sản phẩm, dịch vụ càng trở lên quan trọng, lịch sử đã chứng minh điều đó :
Khi cuộc cách mạng công nghiệp mới bắt đầu thì cầu luôn vựơt cung, người sản
xuất không chú ý đến chất lượng sản phẩm dịch vụ mà họ chỉ quan tâm đến sản lượng cho
đến những năm 1970 của thế kỷ XX thì :
- Công nghệ đã phát triển rất mạnh
- Thông tin phát triển
- Nền văn minh đã phát triển đến mức cao
Từ đó hàng hoá sản xuất ra ngày càng nhiều, nhận thức của con người nâng cao lên
một cách rõ rệt. Cung hàng hoá lớn hơn cầu, nhu cầu ngày càng cao và yêu cầu đối với sản
phẩm đòi hỏi rất khắt khe trong xã hội, đồng thời tư do thông tin và thương mại toàn cầu
dẫn đến việc cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt và chất lượng là một yếu tố hàng đầu để
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển.
+ Chất lượng là gì?
Theo quan điểm triết học, chất lượng là phần tồn tại cơ bản bên trong của sự vật hiện
tượng. Theo Mác thì chất lượng là mức độ, là thước đo giá trị của 1 thực thể.
Theo quan điểm của hệ thống XHCN trước đây thì chất lượng sản phẩm là tập hợp
các đặc điểm kinh tế kỹ thuật nội tạng, phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản
phẩm đó đáp ứng nhu cầu đã định trước cho nó trong những điều kiện về kinh tế kỹ thuật.
Theo quan điểm này thì chất lượng không gắn với hiệu quả của kinh doanh và điều kiện
sản xuất cuả từng doanh nghiệp. Hạn chế này do trong các nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy
giờ còn tồn tại cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Các doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm theo kế hoạch nên chất lượng hàng hoá không phù hợp với nhu cầu.
Chuyển sang cơ chế thị trường, nhu cầu thị trường được coi là xuất phát điểm của
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thì khái niệm chất lượng trên không còn phù hợp nữa.
Vì nó không gắn với nhu cầu chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp.
Theo Philip Crosby, một nhà quản lý chất lượng người Mỹ nổi tiếng cho rằng “
Chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu hay đặc tính nhất định chứ không phải là sự thanh
lịch tao nhã”. Điều này nó khác với các khái niệm truyền thống về chất lượng mà ở đó
không đề cập tới cách thức mà một hạng mục hàng hoá có thể tạo ra được, hoặc phương
pháp mà qua đó các dịch vụ được cung cấp. Hơn thế nữa định nghĩa này không có tính
chiến lược, ở đây nó tập trung vào việc cố gắng nắm được đầy đủ các kỳ vọng mà một
khách hàng có và hướng các tổ chức vào các việc đáp ứng các kỳ vọng này. Quan điểm
này đã hình thành nên các mục tiêu, các mục tiêu này có thể không gắn với nhu cầu và có
độ co giãn hơn khi so với với các mục tiêu hình thành bên trong nội tại. Định nghĩa này ý
nghĩa rất to lớn đối với những doanh nghiệp sản xuất hàng loạt và sử dụng lắp lẫn chi tiết.
Còn Geigenbum cho rằng “ chất lượng sản phẩm là tập hợp các đặc tính kỹ thuật
công nghệ và vận hàng của sản phẩm nhờ chúng mà sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của
người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm”.
Juran một nhà chất lượng hàng đầu khác đã nhận ra rằng các yêu cầu về quy phạm
có thể là những thứ mà ban quản lý và các nhà thiết kế cho là phù hợp nhưng nó không
phải là thứ mà khách hàng cần. Do đó theo ông “ Chất lượng là sự phù hợp công dụng”.
Định nghĩa này của Juran thừa nhận một số sản phẩm hoặc dịch vụ được tạo với ý đồ là để
thoả mãn được nhu cầu nào đó của khách hàng.
Nói như vậy thì khái niệm chất lượng không phải là một khái niệm trìu tượng đến
mức người ta không thể đi đến một diễn giải tương đối thống nhất. Tổ chức quốc tế về tiêu
chuẩn hoá ISO 9000 : 2000 trong tiêu chuẩn thuật ngữ đã đưa ra định nghĩa được các quốc
gia chấp nhận và thông qua.
“ Chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng những yêu
cầu” trong đó yêu cầu là nhu cầu hay mong đợi đã được công bố ngầm hiểu chung hay bắt
buộc.
Trước đây khi nói tới chất lượng đa số người ta chỉ nói tới chất lượng chi phí và rất
ít đề cập tới chất lượng dịch vụ. Nhưng ngày nay cùng với hướng phát triển chung của xã
hội, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm hơn nữa đối với sự sống còn và phát triển của ngành
kinh doanh dịch vụ trong nền kinh tế thị trường. Theo bộ tiêu chuẩn ISO 9000 : 2000 thì
dịch vụ là 1 chủng loại sản phẩm, tức là sản phẩm bao gồm cả dịch vụ. Chất lượng dịch vụ
là thoả mãn của khách hàng khi họ cảm thấy đồng tiền mà họ bỏ ra xứng đáng với những
gì người cung cấp phục vụ họ.
+Đặc điểm của chất lượng dịch vụ
Do dịch vụ là một loại sản phẩm đặc biệt, thường là vô hình cho nên chất lượng dịch
vụ có đặc điểm riêng của nó khác chất lượng sản phẩm thông thường.
Một trong những đặc điểm nổi bật cần quan tâm đó là sự ổn định của chất lượng
dịch vụ, sự ổn định xác định mức độ lặp lại của việc cung cấp dịch vụ hay tại các địa điểm
khác nhau cùng cung cấp 1 loại dịch vụ. Nó bao hàm việc đạt được sự đồng bộ trong việc
cung cấp hay thực hiện của tất cả các khía cạnh về thời gian, địa điểm, tình huống và
người cung cấp dịch vụ.
Nhìn chung thì khách hàng quen biết thường được đối xử tốt hơn và nhanh hơn
những khách hàng mới và ít đến, những khách hàng lớn thì được đối xử, quan tâm phục vụ
tốt hơn những khách hàng nhỏ.Nhiều khi điều đó tưởng là hợp lý nhưng đó cũng là một
nguyên nhân dẫn đến hiện tượng mất khách hàng, đây cũng là điều mà các dịch vụ ở Việt
Nam nên quan tâm và sửa đổi.
2. Đặc điểm của ngành vận tải ( dịch vụ vận tải )
Ngành vận tải tham gia vào quá trình sản xuất nhưng không trực tiếp tạo ra sản
phẩm. Do vậy đặc điểm lớn nhất của vận tải là ngành dịch vụ, kết quả của hoạt động dịch
vụ vận tải là làm thay đổi chu chuyển lượng hàng hoá hay hành khách mà nó vận chuyển
trong thời gian và không gian xác định. Hoạt động vận tải tham gia vào quá trình lưu
chuyển hàng hoá, thúc đẩy quá trình giao lưu, phân phối hàng hoá giữa các vùng, các quốc
gia.
Hoạt động vận tải tác động đến quá trình sản xuất kinh doanh thông qua giá cước
vận chuyển hàng hoá.... Nếu giá cước vận chuyển tăng, dịch vụ vận tải sẽ làm tăng chi phí
sản xuất ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá mà nó vận chuyển. Trong hoạt động kinh doanh
dịch vụ vận tải, cước phí vận tải ( chi phí vận tải ) là chỉ tiêu quan trọng. Nó cho phép so
sánh lợi thế cạnh tranh, một doanh nghiệp vận có giá cước vận chuyển thấp sẽ thu hút
được nhiều khách hàng hơn so với cácdoanh nghiệp trong nội bộ ngành, giữa các doanh
nghiệp vận tải, doanh nghiệp nào tận dụng được lợi thế cạnh tranh tiếp cận thị trường tốt
thì hiệu quả sản xuất kinh doanh mang lại sẽ cao hơn các doanh nghiệp khác cùng ngành.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh chất lượng phục vụ của ngành vận tải được
đánh giá bằng lượng hàng hoá, tốc độ chu chuyển nhanh hay chậm. Cơ chế thị trường đòi
hỏi mức chính xác về thời gian và tiến độ cao.Một đặc điểm của hoạt động vận tải là tốc
độ vận chuyển phải được bảo đảm chính xác cho các doanh nghiệp sử dụng vận tải. Qua
đó đặt ra yêu cầu đối với doanh nghiệp vận tải trong quá trình cạnh tranh là chất lượng
phục vụ bảo đảm thời gian và tiến độ chu chuyển hàng hoá.
3. Các yếu tố cấu thành chất lượng dịch vụ
Như chúng ta đã biết dịch vụ mang tính vô hình. Khách hàng là người duy nhất
đánh giá được chất lượng dịch vụ vì chất lượng giống như sắc đẹp nói phụ thuộc vào mức
độ cảm nhận của mỗi người, am hiểu về nó của mỗi người... Chất lượng dịch vụ không chỉ
tuân thủ những đặc tính đơn thuần còn là sự tuân thủ với các đặc tính do người tiêu dùng
đưa ra, yêu cầu giữa hai đặc điểm này có sự khác biệt, nó thể hiện qua sơ đồ sau :
Chất lượng
mong đợi
Toàn bộ
chất
lượng
nhận thức
Chất lượng
thực tế
- Danh tiếng
- Truyền
miệng
- Quảng cáo
- Thông tin
Danh tiếng
Chất lượng
chức năng
Chất
lượng
Chất lượng dịch vụ thể hiện cả tính hiện thực và tính nhận thức và toàn bộ chất lượng
dịch vụ sẽ được đánh giá bằng sự so sánh giữa chất lượng mong đợi và mức độ chất lượng
khách hàng nhận được trong thực tế. Một tổ chức cung cấp dịch vụ mà làm sai công việc
đối với khách hàng cho dù có làm tốt đến đâu đi chăng nữa không thể tạo ra một dịch vụ
có chất lượng.Chẳng hạn trong một chuyến giao hàng, khách hàng hẹn là ô tô phải đến
chính xác vào ngày nay để họ nhận hàng nhưng vì chủ quan của người lái xe, hoặc là nhân
viên đi giao hàng lại trễ 1 vài ngày từ đó gây ảnh hưởng lớn đến khách hàng thì dù cho
hàng vận chuyển có đảm bảo đến đâu hoặc có giảm chi phí chuyên chở thì khách hàng
cũng sẽ không vừa lòng. Hoặc trong nhà hàng nếu thực đơn kê khai các món ăn mà không
đủ khả năng phục vụ thì bản thân khách hàng cảm thấy khó chịu như thể mình bị lừa. Dịch
vụ cả hai trường hợp trên đều không thể có chất lượng cao được.
III. Vai trò của công tác nâng cao chất lượng dịch vụ đối với việc mở rộng thị trường
1.Khái niệm, nội dung và sự cần thiết mở rộng thị trường đối với doanh nghiệp
1.1 Khái niệm thị trường
Trong nền kinh tế hàng hoá người ta trao đổi với nhau theo phương thức ( H- T –
H). Chính sự trao đổi lấy tiền tự môi giới đã khắc phục được trao đổi của hiện vật.Lưu
thông hàng hoá mở rộng thời gian trao đổi, mua lúc này bán lúc khác và mở rộng các cá
nhân, các doanh nghiệp, các tập đoàn lớn tham gia trao đổi.Nhưng bản thân sự trao đổi
không phải không phải đương nhiên thực hiện được, giải quyết mâu thuẫn này không chỉ
trao đổi mà phải thông qua giao dịch mua bán với những quan hệ trên thị trường.
+ Thị trường là một phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hoá được biểu thị bằng các
hoạt động trao đổi, cùng với các quan hệ kinh tế do chúng sinh ra, được biểu hiện trong
thời gian và không gian xác định.
+ Theo quan điểm kinh doanh : Thị trường là tập hợp nhu cầu về một loại hàng hoá
dịch vụ cụ thể, là nơi diễn ra hành vi mua bán bằng tiền.Nói cách khác thị trường là nơi
gặp gỡ giữa cung và cầu của một loại sản phẩm. Các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm của
họ cho người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu của họ dưới dạng cầu. Các cá nhân và tổ
chức xuất hiện trên thị trường cùng lúc với tư cách người mua, với tư cách là người bán.
1.2 Nội dung của thị trường và phân loại thị trường
Thị trường là lĩnh vực huyền bí đối với các nhà doanh nghiệp, song nó cũng là một
thực thể có khả năng nhận thức được.
Nếu chúng ta đứng trên quan điểm khác nhau thì chia thị trường thành các loại khác
nhau. Thông thường người ta căn cứ vào các tiêu thức sau đây:
+ Căn cứ vào hình thái vật chất của đối tượng trao đổi ta có :
- Thị trường dịch vụ
- Thị trường hàng hoá ( bao gồm các thị trường các yếu tố sản xuất và thị trường
hàng tiêu dùng )
+ Căn cứ vào quan hệ cung cầu ta có :
- Thị trường lý thuyết
- Thị trường thực tế
- Thị trường tiềm năng
+ Căn cứ vào vai trò, số lượng người mua và người bán trên thị trường người ta
chia :
- Thị trường độc quyền
- Thị trường cạnh tranh hoàn hảo
- Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo
1.3 Sự cần thiết phải mở rộng thị trường đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp
Doanh nghiệp là một hệ thống mở, có mục đích, có chỉ huy để đảm bảo chức năng
là một đơn vị sản xuất và phân phối, chúng ta thấy rõ sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bộ phận
sản xuất và phân phối. Hoạt động của doanh nghiệp được thể hiện trên thị trường nhờ trao
đổi sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Với sự mở cửa của đất nước trong nền kinh tế
thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải thích ứng với cuộc cạnh tranh trong nước
cũng như trên thế giới. Trên thị trường có nhiều sản phẩm của doanh nghiệp nhằm thoả
mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Ai sẽ chiến thắng ? Doanh nghiệp nào biết nghiên cứu
tốt nhu cầu thị trường để có sản phẩm dịch vụ đáp ứng được nhu cầu mong đợi của người
tiêu dùng, doanh nghiệp đó sẽ chiến thắng. Nhưng chỉ nghiên cứu những nhu cầu và đáp
ứng sản phẩm dịch vụ theo nhu cầu này chưa hẳn đã đủ.Mục tiêu của tiêu thụ của sản
phẩm dịch vụ là mục đích cuối cùng, là điều kiện cần, còn phải tăng lợi nhuận, tăng thị
phần là mục đích theo đuổi của bất kỳ một doanh nghiệp nào, như một thị trường nhất định
thì tiêu thụ khối lượng sản phẩm, dịch vụ sẽ dừng lại ở mức nhất định. Để đạt được mục
đích theo đuổi, doanh nghiệp nhất thiết phải mở rộng thị trường. Từ đó ta thấy rằng thị
trường và tiêu thụ sản phẩm dịch vụ luôn đi liền với nhau và chúng có vai trò quan trọng
với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông qua thị trường và tiêu thụ hàng hoá, doanh nghiệp có thể tăng hiệu quả sản
xuất kinh doanh. Thị trường và tieu thụ hàng hoá có ý nghĩa rất quan trọng nó là điểm khởi
đầu ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty vận tải ôtô số 3. Mỗi
doanh phải chiếm lĩnh một thị phần, thị trường nhất định và vấn đề đặt ra là phải cố gắng
duy trì được thị trường đó, mở rộng và nâng cao thị trường.
Trong cơ chế thị trường hiện nay không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng
duy trì được thị phần của mình và đi đến nâng cao thị phần, thậm chí thị phần đó còn bị
thu hẹp lại. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu lợi nhuận nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh,
doanh nghiệp phải cố gắng duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ, đồng thời giảm chi phí,
công ty vận tải ô tô số 3 cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thị trường giúp cho quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách bình thường. Nó chính là bộ phận
chủ yếu quan trọng của quá trình kinh doanh.Nếu 1 doanh nghiệp không có thị trường thì
việc tiêu thụ sản phẩm không được thực hiện công việc kinh doanh của mình. Vì vậy việc
mở rộng thị trường nâng cao vị thế của doanh nghiệp tạo thế cho doanh nghiệp thông qua
việc tiêu thụ sản phẩm cũng như mở rộng quan hệ với bạn hàng.
Cuối cùng, thị trường có vai trò điều tiết từ đó làm tiền đề cho việc đẩy mạnh tiêu
thụ sản phẩm, số lượng sản phẩm ngày càng tăng giúp cho quá trình sản xuất diễn ra được
liên tục thông suốt là mục đích cuối cùng vẫn là đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp
tạo hướng sản xuất và kinh doanh mới cho doanh nghiệp.
2.Vai trò của công tác nâng cao chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh mới cho
doanh nghiệp
Như đã trình bày ở trên, việc mở rộng thị trường nâng cao thị phần là hết sức cần
thiết và là mục đích vươn tới của tất cả các doanh nghiệp nói chung và công ty vận tải ô tô
số 3 nói riêng. Nhưng muốn đạt được điều đó thì đòi hỏi công ty phải có hướng đi kế
hoạch và phát triển hợp lý.
Chúng ta biết rằng duy trì, mở rộng thị trường thì phải thoả mãn được những đòi
hỏi yêu cầu của thị trường đó. Thoả mãn thông thường không chưa đủ mà phải thoả mãn
được nhu cầu thị trường tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Một yếu tố quyết định để thoả mãn
được thị trường là chất lượng hàng hoá dịch vụ mà công ty đưa ra thị trường. Cái thị
trường cần đó chính là chất lượng, chất lượng của sản phẩm vật chất thường bị giới hạn
trên khả năng cụ thể là lực của máy móc thiết bị. Đặc biệt là công ty vận tải ô tô số 3 hoạt
động trong lĩnh vực dịch vụ cung cấp những dịch vụ trung chuyển hàng hoá, dịch vụ bảo
hành sửa chữa và một số dịch vụ khác. Vì vậy cách chung nhất là nâng cao chất lượng hoạt
động dịch vụ.
Những năm qua cùng với sự chuyển mình của đất nước bước sang nền kinh tế thị
trường. Công ty vận tải ô tô số 3 là đơn vị kinh doanh dịch vụ với nhiệm vụ chính là cung
cấp dịch vụ trung chuyển, bảo hành sửa chữa để vận chuyển các loại hàng hoá. Công ty
luôn quan tâm đến việc nâng cao hoạt động chất lượng dịch vụ và trên mọi cách khai thác
triệt để vai trò của việc nâng cao chất lượng dịch vụ.
II. hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp giai đoạn 2001- 2004
1. Sản phẩm dịch vụ vận tải
1.1 Đặc điểm về sản phẩm dịch vụ vận tải
Ngành vận tải ôtô cũng như vận tải đường sắt, đường thuỷ…tham gia vào quá trình
sản xuất nhưng không trực tiếp tạo ra sản phẩm. Do vậy đặc điểm lớn nhất của nó là ngành
dịch vụ, kết quả của hoạt động dịch vụ vận tải là làm thay đổi chu chuyển lợng hàng hoá
hay hành khách mà nó vận chuyển trong thời gian và không gian xác định. Hoạt động vận
tải tham gia vào quá trình luân chuyển hàng hoá, thúc đẩy quá trình giao lưu, phân phối
hàng hoá giữa các vùng, các quốc gia.
+Vận tải ôtô là một phương thức vận chuyển hàng hoá rất linh hoạt và đa dạng trong
đối tượng phục vụ.Hầu hết các loại hàng hoá đều có thể sử dụng phương thức này để vận
chuyển.Nó có thể vận chuyển trung chuyển hoạc vận chuyển từ ngời sản xuất đến người
tiêu dùng.
+Phương thức vận chuyển bằng đường bộ rất uyển chuyển về lộ trình và tiến độ. Khả
năng phục vụ và đáp ứng nhu cầu của khách hàng thờng nhanh hơn so với các phương
thức vận taỉ khác, nhưng giá thành thường cao hơn các loại vận tải khác trên cùng một
khoảng cách vận chuyển.
+Vận tải ôtô luôn chiếm tỷ trọng vận chuyển khối lượng lớn hàng hoá.Nó chiếm tuyệt
đại đa số trong vận chuyển nội bộ thị xã,thành phố và các tuyến trung bình.Vận chuyển ôtô
chiếm ưu thế tuyệt đối với những lô hàng có khối lượng ít và có giá trị cao. Hơn nữa phư-
ơng thức vận tải đường bộ có số lần xếp dỡ thấp nên tiết kiệm đợc thời gian và khả năng
bảo quản hàng hoá tốt hơn.
+Trong hoạt động sản xuất kinh doanh chất lượng phục vụ của vận tải ôtô đợc đánh giá
bằng nhiều chỉ tiêu quan trọng như:
.Tính kịp thời:thời gian chờ đợi để được phục vụ của khách hàng,thời gian vận
chuyển(thời gian hoàn thành các hợp đồng vận tảI).
.Tính chính xác:mức độ đáng tin cậy của dịch vụ,yêu cầu không có sai sót trong quá
trình vận chuyển.
.Tính sẵn có:số đIểm giao dịch,số nhân viên giao dịch,mức độ sẵn sàng đáp ứng nhu
cầu của khách hàng.
.Tính toàn diện:phạm vi phục vụ và khả năng cung cấp các dịch vụ bổ xung.
.Tính tiện lợi: vị trí, khả năng tiếp cận của khách hàng, khả năng cung cấp dịch vụ va
hình thức cung cấp.
.Tính hợp lý: khách hàng đánh giá tính hợp lý của chi phí phục vụ vận tảI tuỳ theo
nhận thức của họ về chất lượng.
.Ngoài ra còn có một số tiêu chí nữa để đánh giá chất lượng dịch vụ vận tải như: hình
ảnh của công ty, danh tiếng…Các yếu tố này được thiết lập thông qua nhận thức của khách
hàng về tất cả các khía cạnh của dịch vụ ,của công ty.
+Hoạt độ