Trong hoạt động của nền kinh tế, với tư cách là một trung gian tài chính, Ngân hàng
thương mại (NHTM) thực hiện chức năng điều hoà vốn thông qua nghiệp vụ huy động vốn
nhàn rỗi trong các bộ phận dân cư và thực hiện cho vay đối với các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế và các bộ phận dân cư khác. Với chức năng cơ bản này, NHTM đã cung cấp
vốn cho mọi hoạt động của nền kinh tế, đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho
quá trình tái sản xuất, là cầu nối giữa đầu tư và tiết kiệm, giữa doanh nghiệp với thị trường,
giúp nền kinh tế vận hành tốt. Bên cạnh đó, NHTM có chức năng vô cùng quan trọng
khác mà thiếu nó NHTM không còn là một trung gian tài chính của nền kinh tế, đó là chức
năng thanh toán. Thực hiện tốt chức năng này là điều kiện để NHTM hoạt động có hiệu
quả, thu lợi nhuận và hơn nữa, giúp cho NHTM hoàn thành tốt tất cả các chức năng khác.
Ngoài ra, NHTM còn cung cấp các dịch vụ tài chính và kinh doanh tiền tệ khác.
Đi ngược lại lịch sử phát triển của tiền tệ, từ thời xa xưa con người đã biết sử dụng
những công cụ thanh toán thô sơ đầu tiên như vỏ sò, vỏ hến ... đến các kim loại quý hiếm
như đồng, bạc, vàng ... làm vật ngang giá chung trong trao đổi, đặt nền tảng đầu tiên cho
sự ra đời của các công cụ thanh toán nói riêng và ngành ngân hàng nói chung... Cho đến
những năm giữa của thế kỷ XX, các công cụ thanh toán đã trở nên hoàn hảo hơn nhờ tính
chất phi tiền mặt của nó.Và đỉnh cao của sự phát triển các công cụ thanh toán không dùng
tiền mặt là sự ra đời của công cụ thanh toán mới: Tiền điện tử - Thẻ Ngân hàng.Trong bối
cảnh nền tài chính tiền tệ Việt Nam hiện nay, thẻ Ngân hàng - công cụ chính của dịch vụ
Ngân hàng bán lẻ đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam, có tác động lớn đến chính sách tiền tệ cũng như đến hiệu quả kinh
doanh của các NHTM. Việt Nam với dân số gần 80 triệu dân thực sự là một thị trường có
tiềm năng lớn trong lĩnh vực phát triển thẻ Ngân hàng.
Sau thời gian tìm hiểu một số lĩnh vực , những vấn đề về thẻ thanh toán đã cuốn hút
tôi bởi tính hấp dẫn của nó. Nhận thấy đây là khía cạnh khá mới mẻ , xuất hiện ở Việt nam
chưa được bao lâu, phần lớn dân cư còn chưa thông hiểu , nên tôi đã mạnh dạn đi sâu vào
nghiên cứu và quyết định chọn đề tài “ Một số giải pháp nhằm hoàn thiện dịch vụ thanh
toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Quận Hai Bà Trưng.” Cho
chuyên đề tốt nghiệp của mình.
67 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2147 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện dịch vụ thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Quận Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện dịch vụ
thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam - Chi nhánh Quận Hai Bà Trưng
Lời mở đầu
Trong hoạt động của nền kinh tế, với tư cách là một trung gian tài chính, Ngân hàng
thương mại (NHTM) thực hiện chức năng điều hoà vốn thông qua nghiệp vụ huy động vốn
nhàn rỗi trong các bộ phận dân cư và thực hiện cho vay đối với các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế và các bộ phận dân cư khác. Với chức năng cơ bản này, NHTM đã cung cấp
vốn cho mọi hoạt động của nền kinh tế, đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho
quá trình tái sản xuất, là cầu nối giữa đầu tư và tiết kiệm, giữa doanh nghiệp với thị trường,
giúp nền kinh tế vận hành tốt. Bên cạnh đó, NHTM có chức năng vô cùng quan trọng
khác mà thiếu nó NHTM không còn là một trung gian tài chính của nền kinh tế, đó là chức
năng thanh toán. Thực hiện tốt chức năng này là điều kiện để NHTM hoạt động có hiệu
quả, thu lợi nhuận và hơn nữa, giúp cho NHTM hoàn thành tốt tất cả các chức năng khác.
Ngoài ra, NHTM còn cung cấp các dịch vụ tài chính và kinh doanh tiền tệ khác.
Đi ngược lại lịch sử phát triển của tiền tệ, từ thời xa xưa con người đã biết sử dụng
những công cụ thanh toán thô sơ đầu tiên như vỏ sò, vỏ hến ... đến các kim loại quý hiếm
như đồng, bạc, vàng ... làm vật ngang giá chung trong trao đổi, đặt nền tảng đầu tiên cho
sự ra đời của các công cụ thanh toán nói riêng và ngành ngân hàng nói chung... Cho đến
những năm giữa của thế kỷ XX, các công cụ thanh toán đã trở nên hoàn hảo hơn nhờ tính
chất phi tiền mặt của nó.Và đỉnh cao của sự phát triển các công cụ thanh toán không dùng
tiền mặt là sự ra đời của công cụ thanh toán mới: Tiền điện tử - Thẻ Ngân hàng.Trong bối
cảnh nền tài chính tiền tệ Việt Nam hiện nay, thẻ Ngân hàng - công cụ chính của dịch vụ
Ngân hàng bán lẻ đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với mục tiêu phát triển kinh tế-
xã hội của Việt Nam, có tác động lớn đến chính sách tiền tệ cũng như đến hiệu quả kinh
doanh của các NHTM. Việt Nam với dân số gần 80 triệu dân thực sự là một thị trường có
tiềm năng lớn trong lĩnh vực phát triển thẻ Ngân hàng.
Sau thời gian tìm hiểu một số lĩnh vực , những vấn đề về thẻ thanh toán đã cuốn hút
tôi bởi tính hấp dẫn của nó. Nhận thấy đây là khía cạnh khá mới mẻ , xuất hiện ở Việt nam
chưa được bao lâu, phần lớn dân cư còn chưa thông hiểu , nên tôi đã mạnh dạn đi sâu vào
nghiên cứu và quyết định chọn đề tài “ Một số giải pháp nhằm hoàn thiện dịch vụ thanh
toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Quận Hai Bà Trưng.” Cho
chuyên đề tốt nghiệp của mình.
chương 1: lý luận cơ bản về
thanh toán không dùng tiền mặt và thẻ ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.1. tổng quan về thanh toán không dùng tiền mặt.
1.1.1 Sự cần thiết và vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong hoạt động
kinh tế.
1.1.1.1 Sự cần thiết của thanh toán không dùng tiền mặt.
Như chúng ta đã biết, sự ra đời và phát triển của lưu thông tiền tệ gắn liền với quá
trình ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sở dĩ như vậy là do yêu cầu
của quá trình trao đổi hàng hoá mà tiền tệ đã ra đời với vai trò làm trung gian trao đổi các
loại hàng hoá được thực hiện dễ dàng, nhanh chóng góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu
thông hàng hoá phát triển.
Quá trình tái sản xuất xã hội là một quá trình liên hoàn và không ngừng mở rộng,
trong đó tồn tại các quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá dịch vụ do đó không thể không có
hoạt động thanh toán.
Khi nền sản xuất còn ở trình độ thấp, thanh toán tiền tệ chỉ bó hẹp trong phạm vi và
khối lượng nhỏ, việc thanh toán được thực hiện bằng việc chi trả tiền mặt, sự vận động của
vật tư hàng hoá gắn liền với sự vận động của một khối lượng tiền mặt nhất định. Thanh
toán bằng tiền mặt lúc này tỏ ra là phương thức thanh toán hữu hiệu nhất, nó được thực
hiện rất linh hoạt tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên mua bán mà ít gặp trở ngại.
Tuy nhiên, khi sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao hơn, khối lượng sản phẩm
sản xuất nhiều hơn thì trao đổi hàng hoá không chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng mà mở
rộng ra cả nước và quốc tế.
Lúc này, thanh toán bằng tiền mặt đã bộc lộ những hạn chế nhất định như chi phí tốn
kém trong việc in ấn, bảo quản, vận chuyển, kiểm đếm, không đáp ứng các nhu cầu thanh
toán lớn, ở xa và nó trở nên không an toàn. Chính vì vậy, đòi hỏi phải có một hình thức
thanh toán mới để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, thanh toán không dùng tiền
mặt ra đời.
Thanh toán không dùng tiền mặt ( TTKDTM ) là sự vận động của tiền tệ qua chức
năng phương tiện thanh toán nhằm phục vụ các quan hệ thanh toán giữa các tổ chức kinh
tế và cá nhân trong xã hội bằng cách trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản này sang tài
khoản khác, bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của Ngân hàng hoặc
các tổ chức tín dụng khác.
TTKDTM ra đời là kết quả tất yếu của quá trình phát triển ngày càng cao của quá
trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, nó nhanh chóng chiếm ưu thế và trở thành một phần
không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. TTKDTM ra đời đã khắc phục được
nhược điểm của thanh toán bằng tiền mặt. Có thể nói, TTKDTM mang lại hiệu quả cao,
thể hiện một nền kinh tế đã và đang phát triển, các mối quan hệ về kinh tế, tài chính đã mở
rộng, hoạt động của hệ thống Ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú. Việc phát triển
các hình thức TTKDTM và hiện đại hoá các nghiệp vụ Ngân hàng là minh chứng hiện
thực cho sự tồn tại và phát triển hợp logic cũng như vai trò, vị trí của hệ thống Ngân hàng
trong nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, có thể nói TTKDTM là phương tiện thanh toán không thể thiếu được, nó là
nấc thang phát triển tất yếu của các quan hệ thanh toán trong nền kinh tế thị trường và
chính nó đã, đang và sẽ đáp ứng tối đa yêu cầu của nền kinh tế hiện đại.
1.1.1.2 Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt.
Ngày nay, TTKDTM là một phần không thể tách rời các doanh nghiệp, các cá nhân
và các tổ chức đoàn thể. Trong nền kinh tế thị trường, TTKDTM được thực hiện trôi trảy
sẽ đem lại hiệu quả thiết thực cho tất cả các đối tác tham gia cũng như cho toàn xã hội.
- TTKDTM góp phần tăng nhanh tốc độ vận động của vật tư, hàng hoá và tiền vốn,
qua đó thúc đẩy quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Như chúng ta đã biết, bất kỳ
một chu kỳ sản xuất nào cũng đều bắt đầu và kết thúc bằng khâu thanh toán- từ việc mua
các yếu tố đầu vào đến việc tiêu thụ các yếu tố đầu ra. Việc đẩy nhanh tốc độ thanh toán
qua Ngân hàng giúp khách hàng rút ngắn được thời gian trong khâu lưu thông do đó rút
ngắn thời được thời gian qua một vòng chu chuyển vốn, tăng nhanh tốc độ của quá trình
sản xuất.
- Tăng tỷ trọng TTKDTM sẽ góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông
từ đó tiết kiệm được chi phí của xã hội và của Ngân hàng. Cụ thể đó là những chi phí trong
việc in ấn, vận chuyển, bảo quản, kiểm đếm tiền mặt… Nhờ vậy, có thể sử dụng các nguồn
vốn tiết kiệm được để đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm mục tiêu
tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, TTKDTM còn góp phần hạn chế đến mức thấp nhất các tệ
nạn xã hội như tham ô, hối lộ, trộm cắp…, ngăn chặn hoạt động "rửa tiền", làm tiền giả
hay đầu cơ, tích trữ…
-TTKDTM tạo điều kiện để Ngân hàng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi mở rộng tín dụng
và phát triển dịch vụ Ngân hàng.
Như chúng ta đã biết, nghiệp vụ tín dụng và nghiệp vụ thanh toán luôn có mối quan hệ
ràng buộc hữu cơ với nhau, chỉ khi thực hiện tốt mối quan hệ này thì Ngân hàng mới có
điều kiện phát triển được. TTKDTM đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tài khoản tiền gửi
tại Ngân hàng và số dư trên tài khoản tiền gửi phải đảm bảo khả năng thanh toán khi cần
thiết. Các tổ chức kinh tế và cá nhân mở tài khoản tiền gửi thanh toán ở Ngân hàng có
quyền sử dụng toàn bộ số tiền đó vào bất cứ lúc nào và Ngân hàng phải có trách nhiệm
thoả mãn nhu cầu đó. Tuy nhiên, có sự không ăn khớp giữa những người có nhu cầu rút
tiền và gửi tiền vào, do đó hình thành một số dư tương đối lớn và ổn định về nguồn vốn
ngắn hạn cho Ngân hàng. Mặt khác, Ngân hàng hoàn toàn có kế hoạch một cách tương đối
chính xác nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng trong từng thời kỳ. Như vậy, ngoài phần dự
trữ tiền mặt để đảm bảo khả năng chi trả, thanh toán kịp thời cho khách hàng, số còn lại,
Ngân hàng có thể sử dụng để đầu tư, mở rộng tín dụng của mình. Thực tế, khối lượng tiền
gửi thanh toán chiếm tỷ trọng khá cao trong toàn bộ nguồn vốn của Ngân hàng, tạo thuận
lợi cho Ngân hàng trong việc giảm lãi suất cho vay. Bản chất của nguồn vốn này không
phải gửi vào Ngân hàng để lấy lãi mà để sử dụng một cách chủ động, kịp thời trong thanh
toán tiền hàng hoá, dịch vụ giữa các đơn vị và cá nhân. Làm tốt công tác thanh toán qua
Ngân hàng, thu hút nhiều khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng để thanh toán là điều kiện tốt
để mở rộng khối lượng tín dụng với lãi suất thấp.
- Thông qua TTKDTM, tạo điều kiện để NHTW xây dựng và điều hành CSTT một
cách thuận lợi. Sở dĩ như vậy là do yêu cầu bắt buộc chủ thể tham gia TTKDTM phải có
tài khoản tại NH, vì thế thông qua tình hình biến động số dư trên tài khoản của các khách
hàng, Ngân hàng sẽ thu thập những thông tin cần thiết về tình hình tài chính, tình hình
thanh toán của khách hàng cũng như những thông tin về dòng lưu chuyển tiền tệ… Từ đó,
Ngân hàng có thể thực hiện việc quản lý và điều hành CSTT một cách thuận lợi bằng việc
đưa ra những chính sách phù hợp trong từng thời kỳ.
Như vậy, TTKDTM là rất cần thiết trong nền kinh tế thị trường khi mà Ngân hàng
Thương mại và các doanh nghiệp thực sự kinh doanh tự chủ bởi khi đó tính năng động,
sáng tạo và yếu tố hiệu qủa luôn đặt đúng vị trí của nó.
1.1.2 Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đang áp dụng ở Việt Nam.
Hiện nay, trên thế giới đã nghiên cứu và áp dụng nhiều hình thức TTKDTM rất đa
dạng và phong phú. Nhưng ở mỗi nước tuỳ theo mô hình kinh tế, trình độ quản lý, tuỳ theo
mức độ hoàn thiện và hiệu năng của hệ thống Ngân hàng người ta lựa chọn một số hình
thức và cụ thể hoá cho phù hợp với điều kiện, đặc thù của mỗi nước.
ở nước ta hiện nay, nền kinh tế cơ bản đã chuyển sang nền kinh tế thị trường. Vị trí,
vai trò và chức năng của doanh nghiệp, của Ngân hàng thương mại, của Ngân hàng Nhà
nước đã thay đổi theo mô hình kinh tế thị trường. Chính vì vậy, chế độ TTKDTM cũng
được hoàn thiện hơn để phù hợp với thực tiễn.
TTKDTM được quy định trong Nghị định số 64/ 2001/ NĐ - CP ngày 20/09/2001 của
Chính phủ bao gồm những hình thức sau :
1. Hình thức thanh toán bằng séc
2. Hình thức thanh toán bằng UNC - chuyển tiền
3. Hình thức thanh toán bằng UNT
4. Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng
5. Hình thức thanh toán bằng thẻ thanh toán
1.1.2.1 Thanh toán bằng séc
Séc là một thể thức thanh toán quan trọng không thể thiếu được trong TTKDTM hiện
nay. Mặc dù đã ra đời từ rất sớm và ngày càng có nhiều công cụ thanh toán hiện đại nhưng
thanh toán bằng Séc vẫn giữ vị trí quan trọng trong các thể thức TTKDTM .
Theo Nghị định số 30/ CP : Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu
do Ngân hàng Nhà nước quy định yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trích tiền từ tài khoản
tiền gửi của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên tờ séc hay người cầm tờ séc đó.
Séc là loại chứng từ thanh toán được áp dụng rộng rãi ở tất cả các nước trên thế giới,
quy định sử dụng séc đã được chuẩn hoá trên Luật thương mại quốc gia và Công ước quốc
tế.
Theo Nghị định số 30/ CP quy định rõ ở Việt Nam được phép lưu hành các loại séc
vô danh vá séc ký danh được phép chuyển nhượng thông qua thủ tục ký hậu chuyển
nhượng. Nghị định số 30/ CP ra đời đã đánh dấu một bước chuyển biến có ý nghĩa kinh tế
lớn trong việc sử dụng séc ở Việt Nam. Theo quy định này, séc không còn là một công cụ
chuyển khoản đơn thuần mà còn phát huy được vai trò là một công cụ lưu thông.
Séc được dụng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ … hoặc được dùng
để rút tiền mặt tại các chi nhánh Ngân hàng. Tất cả các khách hàng mở tài khoản tại Ngân
hàng đều có quyền sử dụng séc để thanh toán. Thời hạn hiệu lực của séc là 15 ngày kể từ
ngày chủ tài khoản phát hành séc đến ngày người thụ hưởng nộp séc vào Ngân hàng ( gồm
cả ngày chủ nhật và ngày lễ ). Trường hợp nếu ngày kết thúc thời hạn hiệu lực của tờ séc là
ngày nghỉ, ngày lễ thì thời hạn đó được lùi vào ngày làm việc kế tiếp.
ở Việt Nam hiện nay có 2 loại séc thanh toán: Séc chuyển khoản và Séc bảo chi.
. Séc chuyển khoản
Séc chuyển khoản là lệnh trả tiền của người phát hành séc đối với Ngân hàng phục vụ
mình về việc trích một khoản tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho người được
hưởng có tên trong tờ séc.
Séc chuyển khoản chỉ được áp dụng trong phạm vi thanh toán giữa các khách hàng có
tài khoản ở cùng một chi nhánh nhưng các chi nhánh này có tham gia giao nhận chứng từ
trực tiếp cho nhau theo quy định hiện hành (thanh toán bù trừ ), thời gian hiệu lực của tờ
séc tối đa là 10 ngày làm việc. Khác với séc lĩnh tiền mặt, khi phát hành séc thanh toán
chuyển khoản, chủ tài khoản phải gạch hai đường song song chéo góc hoặc viết chữ
"chuyển khoản " ở góc phía trên bên trái mặt trước tờ séc trước khi giao người thụ hưởng.
Về nguyên tắc, séc chuyển khoản phải được phát hành trên cơ sở số dư tài khoản tiền
gửi hiện có tại Ngân hàng. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ để thanh toán, séc sẽ bị Ngân
hàng từ chối thanh toán, chủ tài khoản phải chịu trách nhiệm thanh toán tờ séc đó và những
khoản tiền phạt chi phí phát sinh liên quan đến việc khiếu nại và khởi kiện.
+ Thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản ở cùng một Ngân hàng
. Séc bảo chi
Séc bảo chi là một loại séc thanh toán được Ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả
bằng cách trích trước số tiền trên tờ séc từ tài khoản tiền gửi của người trả tiền sang tài
khoản " Đảm bảo thanh toán séc " nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của tờ séc đó.
Séc bảo chi có phạm vi thanh toán rộng hơn séc chuyển khoản. Ngoài việc sử dụng
để thanh toán giữa các chủ thể mở tài khoản tại cùng một chi nhánh Ngân hàng hoặc hai
Ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ trên cùng địa bàn séc bảo chi còn được sử dụng
để thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản tại các chi nhánh trong cùng hệ thống trong
phạm vi cả nước.
+ Trường hợp hai chủ thể thanh toán mở tài khoản khác Ngân hàng có tham gia thanh
toán bù trừ
Về cơ bản, quy trình luân chuyển chứng từ trong trường hợp này giống như Séc
chuyển khoản, tuy nhiên có sự khác nhau về tài khoản hạch toán:
Nếu hai đơn vị mở tài khoản ở khác Ngân hàng, khác hệ thống có tham gia thanh toán
bù trừ thì tại Ngân hàng phục vụ, đơn vị thụ hưởng sau khi kiểm soát đủ điều kiện sẽ hạch
toán:
Nợ TK Thanh toán bù trừ Ngân hàng thành viên
Có TK Tiền gửi của người thụ hưởng
Trường hợp thanh toán khác Ngân hàng, cùng hệ thống và khác địa bàn hạch toán:
Nợ TK Liên hàng đi
Có TK Tiền gửi của người thụ hưởng
Tại Ngân hàng phục vụ đơn vị phát hành séc ( đơn vị mua) khi nhận được các chứng
từ kèm séc bảo chi từ Ngân hàng khác chuyển đến thì sẽ hạch toán
Nợ TK Tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi
Có TK Liên hàng đến (hoặc TK thanh toán bù trừ)
1.1.2.2 Thanh toán bằng UNC- chuyển tiền
UNC ra đời từ khá sớm, cùng với tiến bộ Khoa học kỹ thuật, nó được sử dụng ngày
một rộng rãi với các ưu thế nổi bật: an toàn, hiệu quả và đặc biệt thuận tiện dưới sự trợ
giúp của các thành tựu phát triển trong lĩnh vực Công nghệ tin học ( UNC có thể được xử
lý dưới dạng các chứng từ điện tử).
Đơn vị trả tiền sau khi nhận được hàng hoá, dịch vụ cung ứng, trong thời gian nhất
định phải lập các UNC gửi đến Ngân hàng để trích tài khoản chuyển trả cho đơn vị thụ
hưởng. Tuỳ theo phạm vi và tổ chức thanh toán, đơn vị phải lập từ 3-4 liên với đâỳ đủ nội
dung và các yếu tố cần thiết. Khi lập và nộp UNC vào Ngân hàng, đơn vị trả tiền phải đảm
bảo đủ số dư trên tài khoản để đảm bảo chi trả. Nếu chứng từ hợp lệ, tài khoản đủ tiền,
trong phạm vi một ngày làm việc, Ngân hàng phải hoàn tất UNC đó. Nếu chứng từ không
hợp lệ, hợp pháp, tài khoản không đủ số dư thì Ngân hàng không thanh toán.
Trường hợp bên thụ hưởng không có tài khoản tiền gửi thì Ngân hàng phục vụ bên
thụ hưởng ghi Có TK "Chuyển tiền phải trả" và báo cho bên thụ hưởng đến nhận tiền.
1.1.2.3 Uỷ nhiệm thu (UNT)
UNT là giấy uỷ nhiệm đòi tiền do người thụ hưởng lập và gửi vào Ngân hàng phục
vụ mình nhờ thu hộ tiền theo số lượng hàng hoá đã giao, dịch vụ đã cung ứng.
UNT được sử dụng rộng rãi trong việc thanh toán các hoá đơn định kỳ cho người
cung ứng dịch vụ công cộng như điện, nước, điện thoại … bởi nó thường được dùng cho
các giao dịch thanh toán có giá trị nhỏ nên các UNT chiếm tỷ lệ không đáng kể trong tổng
các giao dịch TTKDTM.
UNT được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản trong cùng một chi
nhánh Ngân hàng hoặc các chi nhánh Ngân hàng cùng hệ thống hoặc khác hệ thống.
Khách hàng mua và bán phải thống nhất thoả thuận dùng hình thức UNT đối với những
điều kiện cụ thể đã ghi trong hợp đồng kinh tế, đồng thời phải thông báo bằng văn bản cho
Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng biết làm căn cứ để thực hiện các UNT. Sau khi giao
hàng hoặc hoàn tất dịch vụ cung ứng, bên thụ hưởng lập giấy UNT theo mẫu của Ngân
hàng, kèm theo hoá đơn gửi tới Ngân hàng phục vụ mình hoặc gửi trực tiếp đến Ngân hàng
phục vụ bên trả tiền yêu cầu thu hộ. Khi nhận được giấy UNT trong vòng một ngày làm
việc, Ngân hàng bên trả tiền trích tài khoản của khách hàng mình trả ngay cho bên thụ
hưởng để hoàn tất việc thanh toán.
1.1.2.4 Thư tín dụng (TTD)
TTD là hình thức thanh toán theo sự thoả thuận giữa hai bên bán và mua trong điều
kiện bên bán đòi hỏi bên mua phải có đủ tiền để chi trả phù hợp với giá trị hàng hoá mà
bên bán đã giao theo hợp đồng hay đơn đặt hàng đã ký.
TTD thường dùng để thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở hai Ngân hàng
khác nhau, có thể cùng hoặc khác hệ thống ( trường hợp khác hệ thống thì nơi Ngân hàng
bên bán đóng trụ sở phải có Ngân hàng cùng hệ thống với Ngân hàng mở TTD và tham gia
thanh toán bù trừ với Ngân hàng bên bán). Mỗi TTD chỉ được dùng để thanh toán cho một
người thụ hưởng. Thời hạn hiệu lực của một TTD là 3 tháng kể từ ngày Ngân hàng bên
mua nhận mở TTD. Mức tiền tối thiểu cuả một TTD là 10 triệu đồng.
1.1.2.5 Thẻ ngân hàng
Việc áp dụng hình thức thanh toán bằng thẻ được thực hiện theo quyết định số 371/
1999/QĐ- NHNN1 ngày 19.10.1999 của Thống đốc NHNN Việt Nam.
Thẻ ngân hàng là một công cụ thanh toán do Ngân hàng phát hành và bán cho khách
hàng của mình để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ hay lĩnh tiền mặt
tại các Ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động. ở một số nước, các
hãng hay các Công ty kinh doanh lớn cũng phát hành thẻ thanh toán để thu tiền bán hàng
của mình. Thẻ Ngân hàng có nhiều loại nhưng có một số loại thẻ sau được sử dụng phổ
biến:
- Thẻ ghi Nợ: Người sử dụng loại thẻ này không phải lưu ký tiền vào tài khoản " Đảm
bảo thanh toán thẻ". Căn cứ để thanh toán thẻ là số dư tài khoản tiền gửi của chủ sở hữu
thẻ tại Ngân hàng và hạn mức thanh toán tối đa do Ngân hàng phát hành thẻ quy định. Hạn
mức của thẻ được ghi vào bộ nhớ của thẻ nếu là thẻ điện tử hoặc được ghi vào dải băng từ
nếu là thẻ từ.
ở Việt Nam, thẻ ghi Nợ được quy định là thẻ loại A, loại thẻ này áp dụng cho những
khách hàng có quan hệ tốt, thường xuyên và có tín nhiệm với Ngân hàng.
- Thẻ tín dụng: áp dụng với những khách hàng có đủ điều kiện được Ngân hàng đồng
ý cho vay tiền để mua thẻ. Mức tiền cho vay được coi như hạn mức tín dụng và được ghi
vào bộ nhớ của thẻ, khách hàng chỉ được thanh toán số tiền trong phạm vi hạn mức tín
dụng đã được Ngân hàng chấp thuận.
Thẻ rút tiền tự động- thẻ ATM: Thẻ được phát hành trên cơ sở tài khoản tiền gửi của
khách hàng tại Ngân hàng