Ngày nay kế hoạch là một trong những công cụ hữu hiệu, chủ yếu để điều hành
hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp. Cùng với sự biến động của thị trường, kế hoạch
cũng luôn có xu hướng đổi mới để bắt kịp với xu thế phát triển đó. Tuy nhiên sự đổi mới
đó cần được tiếp tục hoàn thiện trên nhiều phương diện, từ hình thức, nội dung đến phương
pháp.
Nhận biết được tầm quan trọng của công tác lập kế hoạch và xu thế phát triển,
Công ty CPĐTPT đô thị và khu công nghiệp Sông Đà đã không ngừng nâng cao chất
lượng quá trình lập kế hoạch. Trong bối cảnh sản xuất kinh doanh biến động như hiện nay,
Công ty cũng đang gặp khó khăn trong quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh của mình
cũng như việc tìm kiếm khách hàng. Để tiếp tục tồn tại và phát triển Công ty đã xác định
cần hoàn thiện hơn quá trình lập kế hoạch của mình. Xuất phát từ thực tiễn đó và được sự
giúp đỡ của tập thể phòng kinh tế kế hoạch tôi đã mạnh dạn lựa chọn cho mình đề tài “Một
số giải pháp nhằm hoàn thiện quá trình lập kế hoạch (5 năm) của Công ty cổ phần đầu
tư phát triển đô thị và khu công nghiệp Sông Đà”
Đề tài được chia làm 3 phần:
Chương I: Một số lý luận cơ bản về quá trình lập kế hoạch của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường.
Chương II: Thực trạng quá trình xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty
CPĐTPT đô thị và khu công nghiệp Sông Đà.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quá trình lập kế hoạch của Công ty
CPĐTPT đô thị và khu công nghiệp Sông Đà
99 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2006 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quá trình lập kế hoạch (5 năm) của Công ty cổ phần đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp Sông Đà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quá trình lập
kế hoạch (5 năm) của Công ty cổ phần đầu tư
phát triển đô thị và khu công nghiệp Sông Đà
LờI Mở Đầu
Ngày nay kế hoạch là một trong những công cụ hữu hiệu, chủ yếu để điều hành
hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp. Cùng với sự biến động của thị trường, kế hoạch
cũng luôn có xu hướng đổi mới để bắt kịp với xu thế phát triển đó. Tuy nhiên sự đổi mới
đó cần được tiếp tục hoàn thiện trên nhiều phương diện, từ hình thức, nội dung đến phương
pháp.
Nhận biết được tầm quan trọng của công tác lập kế hoạch và xu thế phát triển,
Công ty CPĐTPT đô thị và khu công nghiệp Sông Đà đã không ngừng nâng cao chất
lượng quá trình lập kế hoạch. Trong bối cảnh sản xuất kinh doanh biến động như hiện nay,
Công ty cũng đang gặp khó khăn trong quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh của mình
cũng như việc tìm kiếm khách hàng. Để tiếp tục tồn tại và phát triển Công ty đã xác định
cần hoàn thiện hơn quá trình lập kế hoạch của mình. Xuất phát từ thực tiễn đó và được sự
giúp đỡ của tập thể phòng kinh tế kế hoạch tôi đã mạnh dạn lựa chọn cho mình đề tài “Một
số giải pháp nhằm hoàn thiện quá trình lập kế hoạch (5 năm) của Công ty cổ phần đầu
tư phát triển đô thị và khu công nghiệp Sông Đà”
Đề tài được chia làm 3 phần:
Chương I: Một số lý luận cơ bản về quá trình lập kế hoạch của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường.
Chương II: Thực trạng quá trình xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty
CPĐTPT đô thị và khu công nghiệp Sông Đà.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quá trình lập kế hoạch của Công ty
CPĐTPT đô thị và khu công nghiệp Sông Đà.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong suốt thời gian học tập cũng như trong suốt
Chương I
NHữNG VấN Đề Lý LUậN CƠ BảN Về Kế HOạCH
TRONG DOANH NGHIệP
i.tổng quan về kế hoạch
1. Một số khái niệm về kế hoạch trong doanh nghiệp
Kế hoạch được tiếp cận theo nhiều cách hiểu khác nhau. Mỗi cách tiếp cận điều
xem xét kế hoạch theo một góc độ riêng và đều cố gắng biểu hiện đúng bản chất của phạm
trù quản lý
Với cách tiếp cận theo quá trình thì cho rằng: kế hoạch sản xuất kinh doanh là một
quá trình liên tục kiểu vòng xoáy hình ốc với chất lượng ngày càng tăng kể từ khi chuẩn bị
xây dựng cho tới lúc chuẩn bị tổ chức thực hiện kế hoạch nhằm đưa hoạt động của doanh
nghiệp theo các mục tiêu đã định.
Theo quan điểm của STEINER thì: “quá trình lập kế hoạch là một quá trình bắt
đàu từ việc thiết lập các mục tiêu vầ quyết định chiến lược, các chính sách, kế hoạch chi
tiết để đạt được mục tiêu. Nó cho phép thiết lập các quyết định khả thi và nó bao gồm chu
kỳ mới của việc thiết lập mục tiêu và quyết định chiến lược nhằm hoàn thiện hơn nữa”.
Trong cách tiếp cận này, khái niệm hiện tượng tương lai, tính liên tục của quá
trình, sự gắn bó của hàng loạt hành động và quyết định để đạt được mong muốn đều đã
được thể hiện.
Với cách tiếp cận theo nội dung và vai trò
Theo HERY FAYOL: Kế hoạch là môt trong những hoạt động cơ bản của
chu trình quản lý cấp công ty. Xét về mặt bản chất, hoạt động này là nhằm xét các
mục tiêu cảu phương án kinh doanh, bước đi trình tự và cách tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Theo RONNEY: Hoạt động kế hoạch là một trong các hoạt động nhằm tìm
ra con đường huy động và sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả để phục vụ
các mục tiêu kinh doanh.
Trong thời bao cấp, ở Việt nam quan niệm: Công tác lập kế hoạch là tổng thể các
hoạt động nhằm xác định các mục tiêu, các nhiệm cụ của sản xuất kinh doanh, về tổ chức
đời sống và tổ chức thực hiện để đạt được các mục tiêu đó, trên cơ sở vận dụng các quy
luật khách quan, các chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ.
Các khai niệm trên đay cho thấy khái niệm lập kế hoạch được đề cập chủ yếu
thông qua các nội dung của nó mà chưa làm nổi bật đặc tính về thời gian, mức độ những
nét hết sức đặc trơng của kế hoạch.
Theo cách tiếp cận hiện nay được nhiều người sử dụng ở Việt nam : Kế hoạch là
những chỉ tiêu, những con số dự kiến, ước tính trong việc thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể
nào đó để đạt được hiệu quả cao nhất .
Theo quan niệm này thì những chỉ tiêu, nhữn con số phải có cơ sở khoa học, cơ sở
thực tế và nó phải được thể hiện ở bảng biểu kế hoạch. Những con số chỉ tiêu mang tính
khả năng và muốn biến chúnh thành hiện thực thì phải áp dụng hệ thống các biện pháp.
Việc lập kế hoạch là quyết định trước xem trong tương lai phải làm gì? làm như
thế nào? làm bằng công cụ gì? khi nào làm? và ai làm?
Mặc dù ít tiên đoán được chính xác trong tương lai và những yếu tố nằm ngoài sự
kiểm soát có thể phá vở cả những kế hoạch tốt nhất đã có nhưng không có kế hoạch thì các
sự kiện xảy ra một cách ngẫu nhiên và ta sẽ mất đi khả năng hành động một cách chủ động.
2. Các loai kế hoạch trong doanh nghiệp
Hệ thống kế hoạch của một tổ chức là tổng thể của nhiều loại kế hoạch có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau theo một định hướng chung nhằm thực hiện mục tiêu tối cao của
hệ thống.
Để đảm bảo hoạt động của một tổ chức cần phải xây dựng được một hệ thống kế
hoạch bao gồm nhiều loại kế hoạch khác nhau và được phân định thưo nhiều tiêu chí khác
nhau.
Bao gồm các loại kế hoạch sau:
sơ đồ 1
2.1.1. Sứ mệnh
Là bức thông điệp thể hiện lý do tồn tại của tổ chức, nó trả lời cho câu hỏi: Tổ
chức tồn tại vì mục đích nao ? Sứ mệnh bao gồm:
- Sứ mệnh được công bố: Thông báo cho mọi người một cách công khai, thông qua
thị trường để doanh nghiệp đạt được mục tiêu, nó được thể hiện thông qua các
khẩu hiệu, các triết lý kinh doanh ngắn gọn.
- Sứ mệnh không được công bố: Thể hiện lợi ích tối cao của doanh nghiệp.
Xu hướng chung ngày nay là : cố gắng làm cho 2 loại sứ mệnh này xích lại gần
nhau hơn.
Sứ mệnh là cơ sở đầu tiên để xác định mục tiêu chiến lược của hệ thống và nó
cũng là cơ sở để xác định phương thức hành động cơ bản của tổ chức.
ĐĐường lối – sứ
mệnh
Chiến lược
Các kế hoạch tác
nghiệp
Xây dựng một lần,
sử dụng một lần:
- Chương trình
- Dự án
- Ngân sách
Xây dựng một lần,
sử dụng nhiều lân:
- Chính sách
- Thủ tục
- Quy tắc
2.1.2 Chiến lược
Chiến lược là tổng thể tư tưởng, quan điểm , mục tiêu tổng quát và những phương
thức cơ bản để thực hiện mục tiêu của hệ thống.
Chiến lược là sự cụ thể hoá đường lối, khẳng địng lại sứ mệnh – quan điểm. Mục
tiêu trong chiến lược bao giờ cũng là mục tiêu tổng quát và và dài hạn, mỗi chiến lược của
hệ thống phải đảm bảo cho hệ thống sự phát triển vượt bậc với sự thay đổi về chất, các
chiến lược là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều loại, nhiều cấp khác nhau và hướng
vào thực hiện mục tiêu tối cao của tổ chức.
Chiến lược của một tổ chức là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều cấp chiến
lược khac nhau và nhiều loại chiến lược khác nhau.
Theo cấp chiến lược của một tổ chức thông thường có 3 cấp chiến lược. Được thể
hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2
Chiến lược chung của
tổ chức
Chiến lược của
đơn vị
Chiến lược của
đơn vị
Chiến lược của
đơn vị
Chiến lược thứ
…….
2.1.3. Các kế hoạch tác nghiệp
Đây là loại kế hoạch nhằm cụ thể hoá chiến lược và triển khai các chiến lược. Có 2
nhóm cơ bản sau:
Kế hoạch tác xây dựng một lần sử dụng nhiều lần:
- Chương trình: Bao gồm một số các mục đích, chính sách thủ tục, quy tắc các nhiệm vụ
được giao, các bước phải tiến hành, các nguồn lực có thể huy động và các yêu tố khác.
Chương trình được hộ trợ bằng ngân quỹ cần thiết. Một chương trình quan trọng thường ít
khi đứng một mình, thường là một bộ phận của một hệ thống phức tạp.
Chương trình thường có mục tiêu lơn quan trọng, mang tính độc lập tương đối trong quá
trình phân bổ các nguồn lực để thực hiện mục tiêu.
- Dự án: có mục tiêu thường cụ thể, quan trọng mang tính độc lập tương đối. Nguồn lực để
thực hiện mục tiêu thường phải rõ ràng đối với tất cả các hình thái nguồn lực theo thời gian
và không gian.
- Các ngân sách (ngân quỹ): Là bản tường trình các kết quả mong muốn được biểu hiện
bằng các con số. Có thể coi đó là chương trình được “số hoá”. Ngân quỹ ở đây không đơn
thuần là ngân quỹ bằng tiền, mà còn có ngân quỹ bằng thời gian, ngân quỹ công nhân,
ngân quỹ máy móc thiết bị, ngân quỹ nguyên vật liệu…..
Kế hoạch tác nghiệp xây dựng một lần sử dụng nhiều lần:
- Chính sách: Là quan điểm phương hướng và cách thức chung để ra quyết định trong tổ
chức. Trong một tổ chức có thể có nhiều loại chính sách khác nhau cho những mảng hoạt
động trọng yếu của tổ chức mình.
Ví dụ : chính sách khuyến khích tài năng trẻ nhằm tạo động lực phấn đấu cho lớp
trẻ trong tổ chức. Chính sách đào tạo nhân viên để đáp ứng công việc hiện tại và tương lai.
Chính sách là là kế hoạch theo nghĩa nó là những quy định chung để hưỡng dẫn
hay khai thông cách suy nghĩ và hành động khi ra quyết định. Các chính sách giúp cho
công việc giải quyết các vấn đề trong các tình huống nhất định và giúp cho việc thống nhất
các kế hoạch khác nhau của tổ chức. Các chính sách là tài liệu chỉ dẫn cho việc ra quyết
định trong phạm vi co giãn nào đó, tuỳ thuộc vào các chức vụ và quyền hạn trong tổ chức.
- Thủ tục: Là các kế hoạch thiết lập một phương pháp cần thiết cho việc điều hành các hoạt
động trong tương lai. Đó là sự hướng dẫn hành động, là việc chỉ ra một cách chi tiết, biện
pháp chính xác cho một hoạt động nào đó cần phải thực hiện. Đó là chuỗi các hoạt động
cần thiết theo thứ tự, theo cấp bâc quản lý.
- Quy tắc: Giải thích rõ ràng những hành động nào đó có thể làm, những hành động nào
không được làm. đây là loại kế hoạch đơn giản nhất. Không nên nhầm lẫn giữa thủ tục và
quy tắc. các quy tắc gắn liền với hướng dẫn hành động mà không ấn định trình tự thời gian,
trong khi đó thủ tục cũng bao hàm sự hưỡng dẫn hành động mà không ấn định trình tự thời
giancho các hoạt động. Hơn nữa các chính sách hướng dẫn việc quyết định trong khi quy
tắc cũng là sự hướng dẫn nhưng không cho phép có sự lựa chọn trong khi áp dụng chún.
Như vậy, so với quy tắc và thủ tục, chính sách có độ linh hoạt cao hơn.
2.2. Phân loại theo cấp quản lý
- Kế hoạch cho toàn tổ chức
- Kế hoạch cho các phân hệ và bộ phận của tổ chức
- Kế hoạch cho các ca nhân trong tổ chức
2.3. Phân loại kế hoạch theo thời gian
- Kế hoạch dài hạn: Là kế hoạch 5 năm trở lên
- Kế hoạch trung hạn: Là loại kế hoạch có thời gian từ 1đến 5 năm
- Kế hoạch ngắn hạn: Là loại kế hoạch có thời gian dưới 1 năm
3. Vai trò của kế hoạch trong doanh nghiệp
Thông qua các kế hoạch mà đường lối, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế
được cụ thể hoá thành mục tiêu chương trình hành động cho từng giai đoạn nhất định. Lập
kế hoạch là chức năng quản lý mang tính cương lĩnh, là khâu quan trọng trong quá trình
biến đường lối thành hiện thực.
Lập kế hoạch là chức năng định hướng, liên kết cân đối và thống nhất mọi hành
động trong hệ thống quản lý. Kế hoạch là công cụ điều hành thống nhất hoạt động sản xuất
kinh doanh, đồng thời xác định mô hình phát triển của đối tượng trong tương lai.
Kế hoạch là cơ sở căn cứ quan trọng bảo đảm tính đồng bộ, liên tục và thống nhất
của tất cả các công tụ chính sách.
Tất cả các tầm quan trọng đó được thể hiện cụ thể như sau:
3.1. ứng phó với những sự bất định và sự thay đổi
Sự bất định và thay đổi làm cho việc lập kế hoạch trở thành yếu tố tất yếu. Giống
như một nhà hàng hải không chỉ lập trình một lần rồi quên nó, một người kinh doanh
không thể lập một kế hoấchnr xuất kinh doanh và dừng lại ở đó. Tương lai rất ít khi chắc
chắn, tương lai càng xa thì kết quả của quyết định mà ta cần phải xem xét sẽ càng kém
chắc chắn, một uỷ viên quản trị kinh doanh có thể thấy hoàn toàn chắc chắn rằng: Trong
tháng tới các đơn vị đặt hàng, các chi phí sản xuất, năng suất lao động, sản lượng, dự trữ
tiền mặt có sẵn và các yếu tố khác của môi trường kinh doanh sẽ ở một mức độ xác định.
Song một đám cháy, một cuộc bãi công không biết trước, hoặc việc huỷ bỏ một đơn đặt
hàng của một khách hàng chủ yếu sẽ làm đảo lộn tất cả. Hơn nữa, nếu lập kế hoạch cho
một thời gian càng dài thì người quản lý càng ít nắm chắc về môi trường kinh doanh bên
trong, bên ngoài và tính đúng đắn của mọi quyết định. Thậm chí ngay khi tương lai có độ
chắc chắn cao, thì một số kế hoạch cần thiết:
Thứ nhất: Các nhà quản lý vẫn phải tìm cách tốt nhất để đạt được mục tiêu. Với
điều kiện chắc chắn, trước hết đây là vấn đề thuộc toán học tính toán, dựa trên các
sự kiện đã biết xem tiến trình nào sẽ đem lại kết quả mong muốn với chi phí thấp
nhất.
Thứ hai: Sau khi tiến trình đã được xác định, cần phải đưa ra các kế hoạch để sao
cho mỗi bộ phận của tổ chức sẽ biết cần phải đóng góp như thế nào vào công việc
phải làm.
Ngay sau khi có thể dễ dàng dự đoán được sự thay đổi thì vẫn nảy sinh những khó
khăn khi lập kế hoạch.Việc sản xuất ô tô loại nhỏ sử dụng ít nhiên liệu là một ví dụ. Không
thể ngay lập tức chuyển từ sản xuất ô tô loại lớnvà loại trung bình sang loại nhỏ, nhà sản
xuất phải quyết định tỷ lệ sản xuất giữa các loại ô tô và làm thế nào để trang bị máy móc
cho cả dây chuyền này sản xuất có hiệu quả. Tuy nhiên, nhà sản xuất có thể lựa chọn các
phương hướng rất khác nhau, khi đã nắm chắc về sự thay đổi công ty có thể phải cân nhắc
kỹ lưỡng để bán lỗ phần kinh doanh xe cơ lớn và cơ trung bình để tẩp trung vào việc thiết
kế và sản xuất loại xe cơ nhỏ, với hy vọng trở thành công ty hàng đầu trong ngành sản xuất
ô tô loại nhỏ. Thực tế, đó là cách mà các công ty Nhật Bản đã làm.
Khi các nhà quản lý không thể thấy được các xu thế một cách dễ dàng thì việc có
được một kế hoạch tốt có thể gặp nhiều khó khăn hơn nữa. Nhiều nhà quản trị đã đánh giá
thấp hoặc không đánh giá đủ sớm về tầm quan trọng của giá cả lạm phát, về sự tăng lãi
nhanh chóng và khủng hoảng năng lượng những năm 70, kết quản là họ đã đối phó không
kịp thời với những biến động của thị trường và vật liệu dẫn tới sự tăng chi phí sản xuất.
Thậm chí đến cuối những năm 1960 – 1970 sự cố ô nhiễm nước và không khí cũng không
được quan tâm đúng mức.
3.2. Tập trung vào sự chú ý các mục tiêu
Do toàn bộ công việc là phần đạt được các mục tiêu của cơ sở, cho nên chính hoạt
động lập kế hoạch tập trung sự chú ý vào các mục tiêu này. Nhưng kế hoạch được xem xét
đủ toàn diện sẽ thống nhất được những hoạt động tương tác giữa các bộ phận. Những
người quản lý mà họ thực sự đang gặp phải những vấn đề cấp bách, buộc phải thông qua
việc lập kế hoạch để xem xét tương lai, thậm chí cần phải định kỳ sửa đổi và mở rộng kế
hoạch để đạt được các mục tiêu đã định.
3.3. Tạo khả năng tác nghiệp kinh tế
Việc lập kế hoạch sẽ giảm tối thiểu hoá chi phí vì nó chú trọng vào các hoạt động
hiệu quả và phù hợp.
Kế hoạch thay thế cho sự hoạt động manh mún, kế hoạch không được phối hợp
bắngự nỗ lực có định hướng chung, thay thế những phán xét vội vàng bằng những quyết
định có cân nhắc kỹ lưỡng.
ở phạm vi cơ sở sản xuất tác dụng của việc lập kế hoạch càng rõ nét. Không một ai
đã từng ngắm nhìn bộ phận lắp ráp ô tô trong một nhà máy lớn mà lại không có ấn tượng
về cách thức mà các bộ phận và các dây chuyền phụ ghép nối với nhau. Từ hệ thống băng
tải chính hình thành ra thân xe, và các bộ phận khác nhau được hình thành từ các dây
chuyền khác. Động cơ, bộ truyền lực và các phụ kiện được đặt vào chỗ một cách chính xác
đúng thời điểm đã định. Quá trình này đòi hỏi phải có một kế hoạch sâu rộng và chi ly mà
nếu thiếu chúng việc sản xuất ô tô sẽ rối loạn và tốn kém qua mức. Làm dễ dàng cho việc
kiểm tra.
Người quản lý không thể kiểm tra công việc của các cấp dưới nếu không có được
mục tiêu đã định để đo lường. Như vậy một người lãnh đạo cấp cao đã từng nói: “Sau khi
tôi rời khỏi văn phòng lúc 5 giờ chiều, tôi không còn quan tâm tới những việc đã xảy ra
trong ngày hôm đó, tôi chẳng thẻ làm gì được nữa, tôi chỉ có thể xem xét những việc có thể
xảy ra vào ngày mai hoặc ngày kia, hoặc vào năm tới, bởi tôi vì tôi còn có thể làm được
một việc gì đó về những vấn đề này”, có thể đây là một quan niệm cức đoan, nhưng nó
cũng nhấn mạnh tới một điều quan trọng là sự kiểm tra có hiệu quả là sự kiểm tra hướng
tới tương lai.
II. Công tác lập kế hoạch 5 năm trong doanh nghiệp
1. Khái niệm lập kế hoạch
lập kế hoạch là một quá trình xem xét đánh giá tổng hợp các hoạt động nhằm xác
định mục tiêu, các nhiệm vụ, phương hướng phát triển sản xuất kinh doanh về tổ chức và
thực hiện để đạt được các mục tiêu đề ra. Trên cơ sở vận dụng các quy luật khách quan các
chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước.
2. Vai trò của lập kế hoạch
Lập kế hoạch có các vai trò sau:
2.1. Giúp cho việc lựa chọn được các phương thức hành động trong quá trình ra
quyết định
Thứ nhất: lựa chọn các mục tiêu ưu tiên bởi vì nguồn lực có hạn nên không thể
đáp ứng cùng một lúc tất cả các nhu cầu phát triển.
Thứ hai: Sự lựa chọn trong số các phương thức hành động khác nhau, giữa các
cách thức khác nhau để đạt được cùng một mục tiêu.
2.2. Tạo cơ sở phân bổ và sử dụng tốt nhất các nguồn lực hiện có
Nguồn lực ở đây không chỉ bao gồm các nguồn lực tự nhiên mà còn bao gồm cả
nhân lực, tài sản và tài chính. Việc phân biệt những gì không được coi là nguồn lực tuỳ
thuộc vào mục tiêu cần đạt đến của người sử dụng, cũng như nhận thức về gisias trị sử
dụng và khả năng sử dụng cụ thể trong từng trường hợp.
Lập kế hoạch góp phần giảm nhẹ những ảnh hưởng kìm hãm sự phát triển nguồn
lực bằng cách phối hợp những dự án đầu tư để có thể tập trung những yếu tố khan hiếm và
những lĩnh vực sản xuất có hiệu quả nhất.
Mặc khác thị trường cạnh tranh tự do có xu hướng hạn chế đầu tư và chuyển đầu
tư nhiều hơn sang những lĩnh vực mà xã hội ít mong muốn, đồng thời không tính đến
những lợi nhuận phụ thêm có được từ những chương trình đầu tư được phối hợp tương đối
dài hạn. Đó cũng là một khuyết điểm của thị trường mà người ta muốn sử dụng kế hoạch
để khắc phục.
2.3. Là một công cụ hưu hiệu để đạt tới mục tiêu
Lập kế hoạch không chỉ liên quan đến quyết định cần phải làm gì đẻ đạt tới mục
tiêu cụ thể mà còn liên quan đến quyết định trình tự thực hiện các hoạt động một cách logic
có thứ tự từng bước tiến tới đạt được mục tiêu.
3. Quá trình lập kế hoạch
Quá trình lập kế hoạch bao gồm các bước cơ bản sau
3.1. Nghiên cứu và dự báo
Nghiên cứu và dự báo là điểm bắt đầu của việc lập kế hoạch. Để nhận thức được
cơ hội cần phải có những hiểu biết về môi trường, thị trường, về sự cạnh tranh về điểm
mạnh và điểm yếu của mình so các đối thủ cạnh tranh. Chúng ta phải dự đoán được các
yếu tố không chắc chắn và đưa ra phương án đối phó. Việc lập kế hoạch đòi hỏi phải có
những dự đoán thực tế về cơ hội.
3.2. Thiết lập các mục tiêu
Các mục tiêu đưa ra cần phải xác định rão thời hạn thực hiện và được lưỡng hoá
đến mức cao nhất có thể. Mặc dù tổ chức thường có cả hai loại mục tiêu định tính và mục
tiêu định lượng, nhưng những loại mục tiêu định lượng có vẻ rõ ràng hơn và dễ thực hiện
hơn. Ngoài ra, mục tiêu cũng cần được phân nhóm theo các thứ tự ưu tiên khác nhau. Một
tổ chức có thể có hai loại mục tiêu là mục tiêu hàng đầu và mục tiêu hàng thứ hai. Những
mục tiêu hàng đầu liên quan đến sự sống còn và thành đạt của tổ chức. Đối với một công
ty, đó là những mục tiêu về lợi nhuận, doanh số hay thị phần. Không đạt được một mức lợi
nhuận, mức doanh số hya mức thị phần nhất định trong một thời kỳ nào đó, công ty có thể
bị phá sản. Mục tiêu hàng thứ hai có liên quan đến tính hiệu quả của tổ chức, nhưng không
phải lúc nào cũng ảnh hưởng đến sự sống còn. Các mục tiêu này có thể thể hiện mức độ
quan tâm của khách hàng đối với sản phẩm của tổ chức, sự phát triển sản phẩm mới hay
tính hiệu quả của công tác quản lý hành chính .... Trong những năm gần đây, các tổ chức ở
cả khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân dường như đều chú trọng tới các mục tiêu hàng
thứ hai để thu hét khách hàng thứ nhất với sự ảnh hưởng trực tiếp và trước mắt h