Việt nam đã có những thành công nhất định trong quan hệ thương mại
với nhiều thị trường và khu vực thị trường trên thế giới. Hàng hoá của ta có
thể vào những thị trường mà việc thâm nhập không phải là đơn giản như
Nhật bản. Tây Âu và đã được hưởng MNF từ những thị trường này. riêng
đối với thị trường Hoa kỳ một thị trường được coi là vô cùng hấp dẫn với
bất kỳ một quốc gia xuất khẩu nào.
Trong những năm qua, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam và Hoa
kỳ vẫn còn quá thấp so với tiềm năng của thị trường là rất lớn. Bên cạnh đó,
hạn chế trong quan hệ hai nước trong những năm vừa qua còn do chúng ta
chưa nhận được MNF từ Hoa kỳ. Hiệp định thương mại giữa Việt nam và
Hoa kỳ mới được ký kết sẽ là một động lực to lớn cho cả hai nước thúc đẩy
quan hệ này.
Lợi ích của Việt nam khi ký kết hiệp định này là khá rõ ràng nhưng
chúng ta cũng cần phải nhìn nhận vấn đề ở cả hai mặt. Hiệp đinh thương
mại cũng sẽ đem đến cho chúng ta vấn đề phải tham gia cạnh tranh với
hàng hoá nhiều nước trên thị trường Hoa kỳ cũng như cạnh tranh với hàng
hoá trên thị trường nước ta.
Dô đó, ngay từ bây giờ các nhà hoạch định chính sách cũng các nhà
doanh nghiệp cũng cần phải có một kế hoạch chiến lược để đón chờ thị
trường Hoa kỳ . sự thành công hay thất bại trên thị trường Hoa kỳ sẽ vẫn sẽ
là câu hỏi cho các nhà hoạch định và đặc biệt là các doanh nghiệp.
64 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1825 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM THÚC ĐẨY
QUAN HỆ THƯƠNG
MẠI VIỆT NAM – HOA
KỲ
2
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM- HOA KỲ
I. Những xu hướng kinh tế thế giới trong giai đoạn hiện nay
1. Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới
Ngày nay, nền kinh tế thế giới là một chỉnh thể thống nhất, nó là một
thể hữu cơ của nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Sự thống nhất của
nền kinh tế quốc gia thành một nền kinh tế thế giới thống nhất đó cũng phù
hợp với sự phát triển của quá trình phân công lao động vượt ra khỏi biên
giới của các quốc gia. Cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ trên toàn thế giới đã thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc
tế diễn ra càng mạnh mẽ hơn. Quá trình phân công lao động quốc tế là
nguồn gốc của sự hình thành các mối quan hệ thương mại quốc tế và nguồn
gốc của toàn cầu hoá. Trong lịch sử kinh tế thế giới cho tới tận bây giờ đã
chứng minh rằng, không một quốc gia nào hiện đang có nền kinh tế hoàn
toàn không có quan hệ với bên ngoài. Các quốc gia muốn phát triển thì nhất
định phải tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Quá trình này
là một quy luật không thể phủ định nó được.
Dưới xu thế này, biên giới kinh tế của các quốc gia sẽ càng giảm do
hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ bị bãi bỏ dần, một nền kinh tế toàn
cầu không biên giới sẽ xuất hiện, các mối quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau giữa
các nền kinh tế quốc gia sẽ phát triển, các thể chế kinh tế toàn cầu sẽ hình
thành vv. Trong điều kiện đó , một nền kinh tế muốn không lệ thuộc vào bên
ngoài, muốn đảm bảo lấy các nhu cầu thiết yếu, chắc chắn là sẽ không có
chỗ đứng chân. Một nền kinh tế phát triển hiệu quả sẽ phải là một nền kinh
tế gồm những ngành có lợi thế cạnh tranh cao và đương nhiên là phải tuỳ
thuộc vào thị trường thế giới.
3
Trong điều kiên đó, mô hình phát triển kinh tế theo hướng hội nhập
nền kinh tế quốc tế đang xuất hiện. Mô hình này khác hẳn với mô hình kinh
tế hướng nội: một bên lấy thị trường toàn cầu trong đó thị trường quốc gia
làm căn cứ để phát triển các ngành kinh tếcó lợi thế tranh cạnh, một bên lấy
thị trường trong nước làm căn cứ để phát triển những ngành đáp ứng nhu
cầu chủ yếu của đất nước không tính tới các lợi thế cạnh tranh quốc tế.
Đương nhiên là việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ trong mô hình
phát triển theo hướng hội nhập quốc tế cũng khác với cách hiểu độc lập tự
chủ trong mô hình kinh tế hướng nội.
Trong mô hình kinh tế có tính tới xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế,
các quốc gia không dại gì xây dựng ra một cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh và
ngày một hoàn chỉnh cũng không có. Ta có thể lấy ngành sản xuất ôtô là
vídụ: không một quốc gia Châu âu nào kể cả cộng hoà liên bang Đức có thể
sản xuất 100% các linh kiện của ôtô, vì làm như vậy là một dại dột không
có hiệu quả. Các quốc gia sản xuất ôtô chỉ sản xuất khoảng 30%- 40% các
linh kiện, những sản phẩm có lơị thế nhất, còn lại là họ nhập khẩu của các
nước khác. Ngay công ty Boing của Hoa kỳ cũng đã nhập khẩu hàng loạt
linh kiện từ hàng chục quốc gia khác hoặc ngay cả các quốc gia có nhiều
ngành công nghiệp nền tảng khá phát triển như Nhật Bản mà vẫn phụ thuộc
vào bên ngoài một cách đáng sợ. Nhật Bản phải nhập 100% dầu mỏ để có
ngành hoá dầu và năng lượng điện, nhập khẩu phần lớn quặng sắt để có
ngành luyện kim, nhập khẩu phần lớn bằng phát minh sáng chế để có ngành
công nghiệp chế tạo. Nếu có chiến tranh xâỷ ra, các hoạt động nhập khẩu
này chỉ ngừng trệ một vài tuần thôi thì những ngành công nghiệp trên sẽ
hoàn toàn tế liệt và nền kinh tế Nhật Bản làm sao tránh khỏi chấn động và
tổn thất. Nếu sợ sự phụ thuộc này, nước nhật sẽ không thể phát triển được.
Nhưng để bù lại Nhật Bản lại xuất khẩu ôtô, hàng điện tử và nhiều loại hàng
chất lượng cao khác, buộc các quốc gia khác lệ thuộc vào nhật về các mặt
hàng này. chính mối quan hệ lệ thuộc lẫn nhau này đã làm cho nền kinh tế
4
Nhật Bản có thể đứng vững ngay cả trong cuộc khủng hoảng dầu lửa đã xẩy
ra trong những năm 70.
Nói tóm lại, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đang trở lên phổ biến
và nó đem lại ích to lớn cho các quốc gia nếu biết phát huy những lợi thế
cạnh tranh của mình. Đối với nước ta, để phát triển được thì không có con
đường nào khác là phải tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, lợi
ích từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được chứng minh từ những thành
tựu mà nền kinh tế nước ta đạt được trong giai đoạn vừa qua- từ sau quá
trình đổi mới
2. Xu thế hoà bình hợp tác và phát triển.
Xu thế đã trở thành xu thế chính thay cho sự đối đầu giữa các siêu
cường quốc, sự xung đột, chạy đua vũ trang giữa hai hệ thống xã hội đối lập.
Các hình thức chủ nghĩa thực dân cũ và mới, các cuộc chiến tranh xâm lược
đã bị lên án khắp nơi. Trên toàn thế giới, các nước hiện giờ đang lỗ lực tập
trung để phát triển kinh tế. Đây là một điều kiện rất quan trọng để giúp cho
các quốc gia có thể mở cửa đất nước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế phát
triển trong xu thế hoà bình hợp tác đang thay thế cho mô hình kinh tế phát
triển trong tình trạng đối đầu và chiến tranh lạnh. Một nền kinh tế được xây
dựng trong điều kiện luôn phải ứng phó với các cuộc chiến tranh lạnh dù là
đã khác hoàn toàn với nền kinh tế phát triển trong xu thế hoà bình hợp tác.
một nền kinh tế có tính chất chiến tranh cho nên tính hiệu quả không cao,
chi phí cao, một bên thực thi chính sách hợp tác, hội nhập quốc tế sâu rộng,
lấy việc tăng hiệu quả kinh tế, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế là quốc
sách hàng đầu.
Đây là một thuận lợi lớn cho nước ta, với xu thế này khi tham gia vào
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia sẽ dẹp vấn đề quan điểm
đường lối, hệ tưởng sang một bên trong một chừng mực nào đó và cùng
nhau quan tâm đến hợp tác về kinh tế. Nước ta là một nước đi lên con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, mặc dù chủ nghĩa xã hội là tốt đẹp tuy
5
nhiên trên thế giới những nước đi theo con đường này vẫn còn rất ít và trên
thế giới thì hầu hết các nước phát triển lại đi theo con đường tư bản chủ
nghĩa. Trong quá trình hợp tác với các nước này tuy nhiên do xu thế của thời
đại này các nước đều tập trung vào phát triển kinh tế cho nên vấn đề này có
thể được xoa dịu và đây là một điều kiện thuận lợi cho chúng ta có thể đẩy
mạnh quá trình hội nhập, tác dụng các hỗ trợ từ các nước lớn nhằm tạo động
lực cho sự phát triển kinh tế quốc gia
3.Xu thế phát triển công nghiệp chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức
Trong những thập kỷ vừa qua sự phát triển của công nghệ đã có
những bước tiến hết sức to lớn trên nhiều mặt, đặc biệt là công nghệ thông
tin đang chuyển nền kinh tế thế giới từ một nền kinh tế công nghệ sang nền
kinh tế tri thức với những đặc điểm nổi bật sau:
Các ngành công nghiệp truyền thống, sản xuất ra các hàng hoá vật
chất kể các các ngành công nghệ nặng đang ngày càng kém hiệu quả, mất
dần vai trò quan trọng của chúng đối sự phát triển kinh tế. Trong mấy năm
gân đây các sản phẩm không kể dầu mỏ liên tục bị giảm giá,đã giảm giá tới
trên 30% do vâỵ những ngành này lâm vào tình trạng khó khăn ở khắp nơi.
Sản phẩm của các ngành này dù phải hạ giá trên 30% mả vẫn gặp khó khăn
trong việc bán hàng, lợi thế về tài nguyên sẽ ngày càng giảm. Giá của các tài
nguyên trong thập kỷ 90 đã giảm 60% so với thập kỷ 70. lợi thế các nguồn
vốn cũng giảm, vì người ta thể hiện có thể dễ dàng vay được vốn, do thị
trường vốn đã được toàn cầu hoá. Trong điều kiện đo những quốc gia phát
triển đang muốn chuyển dần các ngành công nghiệp truyền thống tiêu hao
nhiều tài nguyên, sử dụng nhiều vốn đã mất lợi thế cạnh tranh sang các quốc
gia kém phát triển. Do vậy chính sách của các quốc gia kém phát triển phải
tính đến sự lựa chọn xây dựng các ngành này một cách thận trọng.
Các ngành kinh tế tri thức phát triển với tốc độ cao và hiệu quả. Trong
điều kiện hiện nay, các lợi thế về tài nguyên, nguồn vốn, lao động phổ thông
đang giảm dần và lợi thế về tri thức và kỹ năng đang tăng lên. Ở Mỹ tỷ lệ
6
đóng góp của ngành sản xuất điện tử tin học cho tăng trưởng kinh tế lên đến
45% trong 3 năm qua, còn mức đóng góp của ngành xây dựng và xe hơi vốn
là trụ cột của kinh tế Mỹ chỉ còn 14% và 4%. Thời kỳ tăng trưởng cao kéo
dài hơn 10 năm của nền kinh tế Mỹ chính là mở rộng của ngành sử dụng
nhiều tri thức, ở các nước OCED, sản lượng và việc làm đã được tăng lên ở
những công nghệ cao, những ngành kinh tế tri thức. Lợi nhuận từ các ngành
kinh tế tri thức là rất cao, lớn hơn nhiều so với các ngành công nghiệp nặng
trước kia. Ví dụ như lợi nhuận của hãng Itel, Mircosoft của Hoa kỳ đã đạt
được mức lợi nhuận 24% trên doanh thu kéo dài trong nhiều năm trong khi
đó lợi nhuận của những ngành công nghiệp nặng trước kia chỉ chiếm 10%
doanh thu .
Nhờ cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới, những nước nghèo
như nước ta có thể tìm được cơ hội để phát triển, nếu tạo được nhân lực chất
lượng cao, tiếp cận được trình độ khoa học công nghệ hiện đại. Bên cạnh đó
thời gian để tiến hành công nghiệp hoá được rút ngắn. nếu ở thế kỷ 18, một
nước muốn công nghiệp hoá phải mất khoảng 100 năm, cuối thế kỷ 19 đầu
thế kỷ 20 thì phải mất khoảng 50- 60 năm, trong những thập kỷ 70 là
khoảng 20-30 năm, đến cuối thế kỷ 20 thì quãng đường này còn có thể rút
ngắn hơn nưa. Do vậy, chúng ta phải có những chiến lược đi tắt đón đầu, có
những thay đổi nhìn nhận lại về xu hướng xuất hiện kinh tế tri thước trong
giai đoạn hiện nay. Những quan niệm về quan niệm về mục tiêu, phương
tiện, phạm vi của công nghiệp hoá cần phải có những thay đổi đòi hỏi cho
phù hợp. Quan điểm công nghiệp hoá hiện đại hoá của Đảng ta đó là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch
vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chuyển sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và
tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Quan
niệm này trong điều kiện của nền kinh tế tri thức cần có sự thay đổi bổ sung
hoặc làm rõ thêm, ít nhất là về mục tiêu của ngành công nghiệp hoá. Theo
7
cách hiểu của quan niệm trong điều kiện của nền kinh tế tri thức cần có sự
thay đổi bổ sung hoặc làm rõ thêm, theo cách hiểu của quan niệm trên thì
năng suất lao động cao có nghĩa là nhàn nhiều, tốt, rẻ hơn một cách định
lượng thì rõ ràng là không đủ, ở đây có vấn đề thay đổi về chất hoặc về
phương tiện để tiến hành công nghiệp hoá cũng cần bổ sung vấn đề coi trí
tuệ là nhân tố tăng trưởng kinh tế.
4. Xu hướng xuất hiện vòng cung châu á- thái bình dương
Khu vực Châu á - Thái bình dương là một khu vực gồm nhiều quốc
gia có tiềm lực kinh tế mạnh, có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Khu
vực này là một thị trường tiêu thụ rộng lớn bao gồm những thị trường lớn
mạnh như : Hoa kỳ, Canađa, Trung quốc, Nhật bản, Hàn quốc, Hồng Kông,
Nga và bên cạnh đó là thị trường cung cấp những nguôn công nghệ, vốn lớn
nhất nhì thế giới.
Nước ta có một thuận lợi lớn là nằm trong khu vực phát triển năng
động nhất thế giới. Do đó nó cũng tạo được sự hấp dẫn đối với các thi
trường trên khắp thế giới và bên cạnh đó, do thuận lợi về mặt địa lý, văn
hoá, chúng ta có thể tiếp cận dễ dàng một thị trường rất rộng lớn, ví dụ như
thị trường Mỹ.
Ngoài ra, trong khu vực có những nước có nền kinh tế mạnh như Hoa
kỳ, Nhật bản, trung quốc những quốc gia này như là đầu tầu kéo sự phát
triển kinh tế của khu vực. Mô hình đó được ví như là mô hình đàn sếu bay
hình chữ V.
Nói tóm lại, những xu hướng trên đây là những xu hướng phổ biến
trong điều kiện ngày nay. Những xu hướng đó đem lại những thời cơ và
thách thức cho bất kỳ quốc gia nào. Đối với nước ta, nghiên cứu xu hướng
trên cho thấy con đường hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta là đúng đăn.
tuy nhiên nó đặt ra nhiều thách thức cho chúng ta. Vấn đề đặt ra cho chúng
ta bây giờ là tìm ra được con đường ngắn nhất để hội nhập và rút ngắn và
8
khoảng cách tụt hậu. Muốn làm được như vậy thì cần phải cho một chiến
lược kinh tế dựa vào tri thức
II. Cơ sở lý luận của thương mại quốc tế
1. Khái niệm thương mại quốc tế
a. Khái niệm
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông
qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế tối đa. Trao đổi hàng hoá là một hình
thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc
gia. Thương mại quốc tế là lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các
nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm
giàu cho đất nước.
b.Vai trò và nhiệm vụ của thương mại quốc tế
Đảng và nhà nước ta chủ trương mở rộng và phát triển quan hệ đối ngoại
và kinh tế đối ngoại, trong đó một lĩnh vực cực kỳ quan trọng là thương mại
hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài. Đó là chủ trương hoàn toàn đúng đắn
và phù hợp với thời đại, với xu thế phát triển của nhiều nước trên thế giới
trong những năm gần đây. Thương mại hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài
không thể là quan hệ ban phát cho không, không phải chỉ có nhập mà phải
có xuất, phải cân đối được xuất nhập và tiến tới xuất siêu ngày càng lớn. Tất
cả các mối quan hệ đó muốn lâu bền phải dựa trên các quy luật kinh tế và
phải được giải quyết thông qua các quan hệ Thương mại buôn bán, trao đổi
và kinh doanh vì mục tiêu kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
vì dân giầu nước mạnh và công bằng văn minh..
Nói đến thương mại quốc tế không thể không nói đến kinh doanh xuất
nhập khẩu hàng hoá vì dịch vụ và đây là nội dung quan trọng và cốt lõi của
9
quá trình kinh doanh thương mại quốc tế. Kinh doanh xuất nhập khẩu hàng
hoá và dịch vụ với nước ngoài đòi hỏi phải đầu tư trí lực, sức lực, tiền của,
quan hệ và phương pháp quản lý để thu được kết quả kinh tế tối đa với chi
phí tối thiểu. Do đó, thương mại quốc tế trang bị những kiến thức cần thiết
và lý thuyết thương mại quốc tế, thị trường, hình thức giao dịch hợp đồng,
thanh toán, quản lý xuất nhập khẩu, hiệu quả kinh doanh… Thương mại
quốc tế là lĩnh vực và là ngành phân phối lưu thông hàng hoá và dịch vụ với
nước ngoài. Đây là lĩnh vực kinh doanh hàng hoá thuộc hai khâu của quá
trình tái sản xuất mở rộng, chắp nối sản xuất và tiêu dùng của nước ta với
sản xuất và tiêu dùng của nước ngoài, nếu làm tốt sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
sản xuất và đời sống. Nếu xem xét quá trình tái sản xuất theo nghĩa liên tục
không ngừng và theo ý nghĩa kinh tế mở thì hai khâu phối và lưu thông hàng
hoá dịch vụ là những khâu đột phá đầu tiên của tiến trình sản xuất. Nền sản
xuất phát triển cao hay thấp, nhanh hay chậm phụ thuộc một phần rất lớn
vào chúng.
Thương mại quốc tế giới thiệu, thúc đẩy khai thác tiềm năng và thế mạnh
của nước ta với nước ngoài một cách có lợi nhất. Trên cơ sở đó tiến hành
phân công lại lao động khai thác mọi tiềm năng để sản xuất nhiều sản phẩm
hàng hoá dịch vụ xuất khẩu.
Mặt khác, cũng không kém phần quan trọng là trang thủ khai thác được
mọi tiềm năng và thế mạnh về hàng hoá, công nghệ, vốn.. của các nước và
các khu vực trên thế giới phù hợp với hoàn cảnh của nước và các khu vực
trên thế giới phù hợp với hoàn cảnh của nước ta để thúc đẩy quá trình tái
sản xuất, tiêu dùng phát triển kịp thời với tiến trình tái sản xuất, tiều dùng
phát triển kịp thời với tiến trình chung của nhân loại. Trên cơ sở đó, nền
công nghệ của thế giới, sử dụng những hàng hoá và dịch vụ tốt, rẻ nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất, tiêu dùng.
Nền sản xuất nước ta hướng ra ngoài và được các nước bầu bạn quốc tế
hướng vào nước vào nước ta vừa làm kinh tế vừa hỗ trợ giúp ta thì sẽ có
10
điều kiện cân đối xuất nhập khẩu, tiến lên có xuất siêu và như vâỵ là có
được tích luỹ và tăng tích luỹ cho tái sản xuất mở rộng. Kinh tế quốc dân
vững mạnh thì uy tín chính trị cao và có điều kiện góp phần thúc đẩy sự tiến
bộ của nhân loại.
Thương mại quốc tế là cho quá trình liên kết kinh tế, xã hội nước ta với
nước ngoài chặt chẽ và mở rộng, góp phần vào sự ổn định kinh tế và chính
trị của đất nước.
Các quốc gia tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế với hai lý do
căn bản: mỗi lý do đều có liên quan đến các lợi ích thu được từ thương mại.
Thứ 1 : các nước tiến hành buôn bán với nhau vì lợi ích khác nhau.
Cũng như cá nhân con người, các quốc gia có thể thu được lợi ích từ những
sự khác biệt giữa họ bằng cách đạt tới các quốc gia qua có thể thu được lợi
ích từ những gì mà xét một cách tương đối nước đó là tốt hơn.
Thứ 2 các nước tiến hành buôn bán với nhau để đạt được lợi thế nhờ
chuyên môn hoá ở một số loại hàng hóa. Nó có thể sản xuất mỗi loại hàng
này ở quy mô lớn hơn và do đó hiệu quả là trong trường hợp nước đó sản
xuất tất cả mọi thứ. Hai động cơ trên chính là tiền đề cho các quan hệ giữa
các quốc gia
Quan hệ thương mại quốc tế nằm trong nội dung của quan hệ kinh tế
quốc tế rất rộng lớn và đa dạng gồm có: quan hệ trong lĩnh vực ngoại
thương( quan hệ thương mại quốc tế) quan hệ trong lĩnh vực dịch vụ như du
lịch quốc tế, giao thông vận tải quốc tế, bảo hiểm quốc tế, quan hệ trong lĩnh
vực tài chính, quan hệ trong lĩnh vực đầu tư quốc tế, quan hệ trong lĩnh vực
chuyển giao công nghệ. Có thể hiểu quan hệ thương mại quốc tế là quan hệ
kinh tế mua bán, trao đổi hàng hoá của một nước với nước các quốc gia
khác trên thế giới bao gồm cả hàng hoá hưu hình và hàng hoá vô hình.
Quan hệ thương mại quốc tế là các mối quan hệ thoả thuận, tự nguyện
giữa các quốc gia. Nó diễn ra theo yêu cầu của các quy luật kinh tế như :
11
Quy luật giá trị, Quy luật cạnh tranh, thêm vào đó, quan hệ thương mại quốc
tế còn chịu sự tác động của hệ thống quan lý khác nhau của các chính sách
pháp luật, thể chế của từng quốc gia cũng như các điều ước quốc tế.
Ở phần trên chúng ta nghiên cứu những xu hướng chung của nền kinh tế
thế giới, đến phần này, qua nghiên cứu những lý thuyết cơ bản về thương
mại quốc tế nhằm giải thích bản chất của các hoạt động thương mại quốc tế
cũng như giải thích bản chất của quan hệ thương mại Việt nam – Hoa kỳ.
Các lý thuyết thương mại quốc tế xuất hiện vào thế kỷ 15 và được
phát triển liên tục qua mấy năm nay. Theo tiến trình phát triển các lý thuyết
khác nhau về thương maị quốc tế đã phản ánh từng nấc thang vận động tư
duy loài người trong buôn bán quốc tế. Việc hiểu rõ các lý thuyết này sẽ tạo
điều kiện cho các công ty và các chính phủ xác định tốt hơn vị trí và quyền
lơị của mình trong buôn bán quốc tế, do đó các học thuyết có nhiệm vụ giải
đáp những vấn đề cơ bản.
2. Lý thuyết trọng thương
Chủ nghĩa trong thương xuất hiện từ giữa thế kỷ 15- 16 ở Châu Âu (
mạnh nhất là Anh và Pháp) và thịnh hành vào cuối thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ
18, các nhà học giả tiêu biểu của chủ nghĩa trọng thương là JeanBolin,
Colber người pháp và ThomasMun và Josias Child của Anh. Tư tưởng cơ
bản chủ nghĩa trong thương thể hiện ở quan điểm cho rằng mỗi nước muốn
phát triển thịnh vượng phải gia tăng khối lượng tiền tệ. Chính các chính phủ,
chứ không phải các cá nhân( những người không đáng tin cậy) nên tham gia
vào việc trao đổi hàng hoá giữa các nước để tăng số của cải của mỗi nước,
do vậy phải buôn bán với nước ngoài. Lợi nhuận buôn bán theo quan niệm
của trường phái này là kết quả của sự trao đổi không ngang giá và lường gạt
giữa các quốc gia. Thương mại quốc tế chỉ có lợi cho một bên và gây thiệt
hại cho bên kia, dân tộc này làm giầu bằng cách huy sinh lợi ích của các dân
tộc khác. Theo đó, các chính phủ phải tạo điều kiện và trợ giúp cho mọi hoạt
động xuất khẩu đồng thời hạn chế nhập khẩu thông qua việc điều chỉnh
12
buôn bán dựa vào độc quyền chính phủ để can thiệt vào thị trường bằng
cách trợ cấp cho các ngành công nghiệp nội địa xuất khẩu và phân bổ các