Là một nước đang phát triển, xuất phát điểm với một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu.
Đảng và nhà nước ta đã đề ra những chính sách để từng bước cải thiện nền kinh tế nước
nhà và tiến tới một xã hội văn minh phồn thịnh hơn- xã hội XHCH. Hệ thống ngân hàng
giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc biến chủ trương đó thành hiện thực bởi ngân
hàng là nguồn chủ yếu huy động cung cấp vốn, khơi dậy tiềm năng và phát triển kinh tế.
Nhờ có hệ thống ngân hàng các nguồn vốn đầu tư được lưu chuyển đến những nơi cần
thiết để phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Đó chính
là hoạt động của tín dụng ngân hàng, một đòn bẩy quan trọng góp phần làm thúc đẩy sự
tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, mặt trái của nó luôn tồn tại song hành với hoạt
động tín dụng đó là “rủi ro”. Vâng đây là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất trong các hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Rủi ro tín dụng trong một số trường hợp không những
gây thiệt hại cho chính Ngân hàng đó mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho cả
hệ thống Ngân hàng và nền kinh tế.
Nhân thức được tầm quan trọng của vấn đề trên em đã chọn đề tài: “ Một số giải pháp
phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hải Dương”
để làm luận văn tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hải
Dương.
Chương III: Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi
nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hải Dương.
33 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1842 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế
rủi ro tín dụng tại chi nhánh
NHNo&PTNT tỉnh Hải Dương
Lời nói đầu
Là một nước đang phát triển, xuất phát điểm với một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu.
Đảng và nhà nước ta đã đề ra những chính sách để từng bước cải thiện nền kinh tế nước
nhà và tiến tới một xã hội văn minh phồn thịnh hơn- xã hội XHCH. Hệ thống ngân hàng
giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc biến chủ trương đó thành hiện thực bởi ngân
hàng là nguồn chủ yếu huy động cung cấp vốn, khơi dậy tiềm năng và phát triển kinh tế.
Nhờ có hệ thống ngân hàng các nguồn vốn đầu tư được lưu chuyển đến những nơi cần
thiết để phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Đó chính
là hoạt động của tín dụng ngân hàng, một đòn bẩy quan trọng góp phần làm thúc đẩy sự
tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, mặt trái của nó luôn tồn tại song hành với hoạt
động tín dụng đó là “rủi ro”. Vâng đây là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất trong các hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Rủi ro tín dụng trong một số trường hợp không những
gây thiệt hại cho chính Ngân hàng đó mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho cả
hệ thống Ngân hàng và nền kinh tế.
Nhân thức được tầm quan trọng của vấn đề trên em đã chọn đề tài: “ Một số giải pháp
phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hải Dương”
để làm luận văn tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hải
Dương.
Chương III: Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi
nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hải Dương.
Chương I
Ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng trong nền kinh tế thị trường
I- ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
1. Ngân hàng thương mại và vai trò của ngân hàng thương mại.
1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại.
Hệ thống NHTM hình thành và phát triển trong một quá trình lâu dài với nhiều hình
thái kinh tế xã hội, nó ra đời trên cơ sở nền sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Ngày nay, hoạt động của các tổ chức môi giới trên thị trường tài chính ngày càng phát
triển về số lượng, quy mô, hoạt động đa dạng phong phú và đan xen lẫn nhau. Trong mỗi
nước có một mô hình riêng về hệ thống trung gian tài chính nhưng phải nói các NHTM lớn
nhất cả về phạm vi, đối tượng cũng như khối lượng hoạt động giao dịch và dịch vụ. Tuy
khái niệm về NHTM còn có những điểm khác nhau nhưng nhìn chung đều thống nhất coi
NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt trên thị trường chuyên kinh doanh tiền tệ mà phần
lớn không phải bằng nguồn vốn tự có của mình, chủ yếu bằng nguồn vốn vay mượn trong
xã hội thông qua việc huy động tiền gửi, cho vay và làm trung gian cung cấp các dịch vụ
ngân hàng.
Tại Việt Nam, theo luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng được ban
hành ngày 26/12/1997, NHTM được định nghĩa như sau: “Ngân hàng thương mại là tổ
chức tín dụng kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư, thực
hiện nghĩa vụ chiết khấu và làm các phương tiện thanh toán”.
1.2 Vai trò của Ngân hàng thương mại.
Cùng với sự nghiệp đổi mới và đi lên của đất nước thì không thể phủ nhận vai trò đóng
góp to lớn của ngành Ngân hàng:
Thứ nhất: NHTM là nguồn chủ yếu huy động cung cấp vốn khơi dậy tiềm năng và
phát triển kinh tế.
Thứ hai: NHTM là thủ quỹ của các tổ chức kinh tế.
Thứ ba: NHTM là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường thông qua hoạt động
tín dụng của Ngân hàng đối với các doanh nghiệp.
Thứ tư: NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thứ năm: NHTM là cầu nối của nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế.
2. Các nghiệp vụ chính của ngân hàng thương mại ( hoạt động chủ yếu).
Cùng với thời gian các nhiệm vụ của NHTM càng được bổ sung và hoàn thiện hơn
nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng đa dạng của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên dù ở
mức độ thị trường nào NHTM vẫn duy trì ba nghiệp vụ kinh doanh chính ( Nghiệp vụ tài
sản nợ, Nghiệp vụ tài sản có, Nghiệp vụ trung gian) và nếu thiếu một trong ba yếu tố đó thì
Ngân hàng sẽ không còn tồn tại.
2.1 Hoạt động huy động vốn (Nghiệp vụ tài sản nợ).
Đây là một trong những nhiệm vụ cơ bản, đầu tiên, chủ yếu của NHTM và thông qua
nghiệp vụ này NHTM thực hiện chức năng tạo tiền. NHTM đã tiến hành thu gom, tiếp
nhận, quản lý lượng tiền tạm thời nhàn rỗi trong xã hội dưới các hình thức như: Nhận tiền
gửi tiếc kiệm, tiền gửi thanh toán,.....Trong đó tiền gửi bao gồm: Tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi có kỳ hạn. Ngoài ra NHTM còn phát hành thêm chứng chỉ tiền gửi, các trái phiếu
Ngân hàng hay đi vay từ các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
2.2 Hoạt động sử dụng vốn (nghiệp vụ tài sản có).
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM thực chất cũng là một doanh nghiệp. Vì vậy khi
kinh doanh phải coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu và cuối cùng, để tạo ra lợi nhuận và
thu nhập cho ngân hàng thì các NHTM phải biết sử dụng và khai thác nguồn vốn một cách
triệt để và hiệu quả nhất. Hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh sinh lời chủ yếu của
NHTM, các NHTM dùng phần lớn vốn huy động để cho vay nhằm thu lợi nhuận từ sự
chênh lệch giữa chi phí đầu vào (lãi xuất huy động) và chi phí đầu ra (lãi suất cho vay).
Thực hiện nghiệp vụ này các NHTM không những đã thực hiện được chức năng xã hội của
mình thông qua việc mở rộng vốn đầu tư gia tăng sản phẩm xã hội, cải thiện đời sống nhân
dân mà còn có ý nghĩa rất lớn đến toàn bộ đời sống kinh tế thông qua các hoạt động tài trợ
cho các ngành, các lĩnh vực phát triển công nghiệp, nông nghiệp và các ngành sản xuất
dịch vụ khác trong nền kinh tế. Ngoài hoạt động cho vay là chủ yếu, các NHTM còn thực
hiện các hoạt động đầu tư hùn vốn, liên doanh liên kết, kinh doanh chứng khoán trên thị
trường tài chính. Hoạt động này vừa mang lại lợi nhuận cho ngân hàng vừa góp phần điều
hoà lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế.
2.3 Hoạt động trung gian thanh toán (Nghiệp vụ trung gian).
Ngân hàng làm trung gian thanh toán thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng
bằng cách cung cấp các công cụ thanh toán thuận lợi như: Séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi,
thẻ thanh toán, thư tín dụng,.... Hoạt động này góp phần làm tăng lợi nhuận thông qua việc thu
phí dịch vụ thanh toán và đồng thời làm tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng, thể hiện trên
số dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng. Ngoài ra còn có tác dụng bổ trợ cho hai nghiệp vụ
trên nhằm thu hút và thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
3- Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Rủi ro là những biến cố xảy ra ngoài ý muốn không dự tính trước được gây ra những
thiệt hại cho một công việc cụ thể nào đó. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thường
xảy ra những loại rủi ro sau:
Rủi ro nguồn vốn: Thường xảy ra một trong hai trường hợp sau:
- Trường hợp thừa vốn: Tức là vốn bị ứ đọng không cho vay và đầu tư được, vì vậy
không sinh lời; trong khi đó ngân hàng vẫn phải trả lãi hàng ngày cho người có tiền gửi
vào ngân hàng.
- Trường hợp thiếu vốn: Xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu cho vay
và đầu tư hoặc không đáp ứng được nhu cầu thanh toán của khách hàng.
Rủi ro tín dụng: Là những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu khi khách hàng
không trả, trả không đầy đủ hoặc không trả đúng hạn tiền gốc và tiền lãi.
Rủi ro lãi suất: Là những tổn thất cho Ngân hàng khi lãi suất thị trường có sự biến
đổi.
Rủi ro hối đoái: Là loại rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường.
Rủi ro này xuất hiện khi ngân hàng không có sự cân bằng về trạng thái ngoại hối tại thời
điểm tỷ giá biến đổi.
Rủi ro thanh toán: Đây là loại rủi ro trong quá trình thanh toán có thể do sai sót
nghiệp vụ hoặc bị lợi dụng trong thanh toán séc, thẻ, thanh toán điện tử.
Các rủi ro khác: Đó là những rủi ro do thiên tai mang lại như: Thiên tai, hoả hoạn,
động đất, hoặc bị lừa đảo, mất trộm,.... làm thiệt hại đến tài sản của ngân hàng. Tuy nhiên ta
có thể dễ dàng hạn chế nó bằng các biện pháp bảo hiểm.
II- rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1. Khái niệm rủi ro tín dụng.
Hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường là một hoạt động rất nhạy
cảm, mọi biến động trong nền kinh tế xã hội đều nhanh chóng tác động đến hoạt động của ngân
hàng, nó có thể gây xáo chộn bất ngờ và dẫn đến sự giảm sút trầm trọng về hiệu quả hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Do vậy hoạt động kinh doanh của NHTM luôn chứa đựng những rủi
ro “tiềm ẩn”, nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vậy rủi ro tín dụng là: Rủi ro về sự tổn thất tài
chính (trực tiếp hoặc gián tiếp) xuất phát từ người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng
hạn theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán (Giáo trình tín dụng của học viện ngân hàng)
2. Các hình thức rủi ro tín dụng.
2.1 Không thu được lãi đúng hạn
Cấp độ thấp nhất là khi người vay không trả được tiền lãi đúng kỳ hạn, khi đó ngân
hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh. Hình thức rủi ro này được xếp
vào mức rủi ro thấp vì ngoại trừ trường hợp khách hàng muốn quỵt nợ, chiếm dụng vốn thì
phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu cân đối vốn khi đến kỳ hạn trả lãi của khách hàng,
khách hàng phải tạm hoãn trả lãi cho ngân hàng.
2.2 Không thu được vốn (nợ gốc) đúng hạn.
Khi không thu được nợ gốc đúng hạn cũng có nghĩa là một lượng vốn cho vay có thể
gây khó khăn tạm thời. Khi đó ngân hàng sẽ chuyển số nợ gốc đó sang mục nợ quá hạn
phát sinh. Khoản mục này phát sinh vào thời gian đáo hạn của hợp đồng tín dụng.
2.3 Không thu được lãi hoặc thu không đủ tiền lãi.
Không thu đủ lãi làm lãi treo đóng băng và điều này làm ảnh hưởng đến kết quả kinh
doanh của ngân hàng.
2.4 Không thu đủ vốn cho vay
Không thu đủ vốn cho vay là nợ không có khả năng thu hồi, nếu tình trạng này phát
sinh thường xuyên thì ngân hàng sẽ mất vốn và kéo dài thì ngân hàng sẽ phá sản.
Trên đây là bốn hình thức giúp cho NHTM nhận biết rủi ro tín dụng và có biện pháp xử
lý. Tuy nhiên, không phải lúc nào gặp rủi ro tín dụng thì ngân hàng đều phải trải qua bốn
trường hợp trên. Có trường hợp khách hàng trả lãi rất đầy đủ và đúng hạn nhưng cuối cùng
lại không thể trả được nợ gốc cho ngân hàng. Vì vậy, khi nghiên cứu về rủi ro tín dụng
người ta thường chú trọng vào các trường hợp có nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng như là lãi
treo phát sinh và đặc biệt là nợ quá hạn phát sinh còn ở các trường hợp khác có lãi treo
đóng băng hay nợ không có khả năng thu hồi được coi là rủi ro thực sự nên thường được
xem xét để giải quyết hậu quả và rút ra những bài học kinh nghiệm.
3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.
3.1 Nguyên nhân từ phía khách hàng.
Khách hàng là cá nhân: Sau khi vay vốn của ngân hàng thường có rủi ro do một
số nguyên nhân sau: Cá nhân thiếu năng lực pháp lý, thu không ổn định, bị mất việc làm ,
các sự kiện trong gia đình, trộm cắp hoặc sử dụng vốn sai mục đích, thậm chí do cá nhân
có mục đích lừa đảo ngân hàng. Việc quản lý quá trình sử dụng vốn vay ngân hàng đối với
các cá nhân thường là rất khó khăn khi xảy ra các biến cố sẽ làm cho các cá nhân không trả
nợ cho ngân hàng và việc thu hồi nợ đối với cá nhân thường kéo dài và phức tạp.
Khách hàng là các doanh nghiệp:
- Sự yếu kém về trình độ kỹ thuật, máy móc thiết bị lạc hậu làm cho năng suất lao động
thấp, chất lượng kém giá thành cao dẫn đến hàng hoá ứ đọng, thua lỗ trong kinh doanh.
- Khả năng tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh của lãnh đạo còn nhiều hạn chế, trong
nền kinh tế thị trường muốn thành công trong kinh doanh thì các doanh nghiệp cần phải có
kiến thức, kỹ năng quản trị kinh doanh chứ không thể thành đạt chỉ bởi lòng nhiệt tình và sự
chịu đựng gian khổ.
- Tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng là nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Tài
chính khó khăn, vốn tự có thấp trong khi tồn tại nhiều nợ nần có thể khiến doanh nghiệp sử
dụng vốn sai mục đích như: Doanh nghiệp dùng vốn vay ngắn hạn để mua sắm tài sản cố định
hoặc kinh doanh bất động sản nên khi đến hạn phải trả nợ vẫn chưa kịp chuyển đổi thành tiền.
Tất cả các nguyên nhân trên là từ phía khách hàng đối tác không thể thiếu trong các quan
hệ tín dụng. Họ là người mang lại thu nhập cho ngân hàng, đồng thời đưa lại cho ngân hàng
những nguy cơ rủi ro cho nên nếu hạn chế được những nguy cơ đó sẽ làm tăng đáng kể lợi
nhuận cho ngân hàng.
3.2 Nguyên nhân từ phía Ngân hàng.
Thường thì khi nhắc đến rủi ro tín dụng, người ta thường nghĩ đến đó là do khách hàng
không chấp hành đúng những thoả thuận với ngân hàng. Nhưng như thế thì chưa đủ, bởi vì
ngân hàng là người quyết định cho vay hay không cho vay. Do vậy ngân hàng không thể
không có những sai sót dẫn đến rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng có thể tổng hợp
thành những nguyên nhân như sau:
- Ngân hàng đưa ra chính sách tín dụng không phù hợp với nền kinh tế.
- Do cán bộ tín dụng chưa chấp hàng đúng quy trình cấp tín dụng, không đảm bảo đúng
các nguyên tắc tín dụng.
- Năng lực và trình độ quản lý của một bộ phận cán bộ tín dụng ngân hàng chưa đáp ứng
kịp với diễn biến rất nhanh của nền kinh tế thị trường.
- Do áp lực cạnh tranh với các ngân hàng khác.
- Do việc tăng dư nợ không đi kèm với việc quản lý của cán bộ tín dụng nên dẫn đến
tình trạng quá tải đối với cán bộ tín dụng, dư nợ bình quân quá lớn, số món vay nhiều, thuộc
mọi lĩnh vực kinh tế nên cán bộ chuyên trách khó kiểm soát thường xuyên liên tục để có biện
pháp hữu hiệu kịp thời ngăn chặn.
- Do đạo đức nghề nghiệp của cán bộ Ngân hàng còn yếu kém, bất cập.
- Công tác thanh tra kiểm soát nội bộ chưa theo kịp yêu cầu quản lý tín dụng.
3.3 Nguyên nhân khác
Môi trường kinh tế chưa ổn định do chính sách và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của nhà
nước đang trong quá trình điều chỉnh, các doanh nghiệp phải cạnh tranh gay gắt với nạn hàng
giả và hàng nhập lậu.
Môi trường pháp lý trong lĩnh vực tín dụng chưa thật sự hoàn thiện, các văn bản pháp
lý chưa đồng bộ khi thực hiện còn nhiều vướng mắc tạo ra các khe hở để kẻ xấu lợi dụng gây
rủi ro cho cả doanh nghiệp và ngân hàng .
Sự bất bình đẳng trong đối sử của một số cơ quan quản lý Nhà nước dành cho các
NHTM khác nhau.
Ngoài ra, các nguyên nhân rủi ro do điều kiện tự nhiên như thiên tai, hoả hoạn, dịch
bệnh..... là những rủi ro mang tính chất thuần tuý có thể xảy ra đối với mọi doanh nghiệp, mọi
lĩnh vực kinh doanh. Các nhân tố này khi đã xảy ra đều làm ngừng trệ sản xuất kinh doanh và
thiệt hại tiền của, của doanh nghiệp, đe doạ khả năng thu hồi nợ của ngân hàng. Như vậy,
ngân hàng đã gián tiếp phải gánh chịu những rủi ro do thiên tai gây ra.
III- Sự cần thiết phải phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Như chúng ta đã biết ngân hàng chiếm vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế, chỉ cần một
biến động nhỏ trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng tới hoạt động của các ngân hàng, và ngược
lại khi các ngân hàng có vấn đề nhỏ sẽ ngay lập tức tác động đến các chủ thể khác trong nền
kinh tế. Đặc biệt với vai trò quyết định sự sống còn của các NHTM, nếu rủi ro tín dụng xảy ra
thì nó sẽ để lại hậu quả khôn lường.
1. Đối với bản thân ngân hàng.
Trước tiên đó là thu nhập và lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị giảm sút, thậm trí thua lỗ. Sau
đó là đến vấn đề uy tín, khi một ngân hàng hoạt động không có hiệu quả, uy tín sẽ bị suy giảm
nghiêm trọng, khách hàng ồ ạt đến rút tiền, hoặc không đầu tư tiếp nữa. Ngân hàng sẽ không
có vốn để kinh doanh, hoặc thiếu vốn làm cho hoạt động bị gián đoạn, có khi bị ngừng lại dẫn
đến thua lỗ, thu nhập của nhân viên bị giảm sút, họ sẽ không có đủ điều kiện công tác tốt,
không thể cống hiến hết mình cho cơ quan được, đây lại càng là nguyên nhân làm cho hoạt
động của ngân hàng đi hết khó khăn này đến khó khăn khác. Nếu không có một quyết định
bình tĩnh, đúng đắn sẽ làm cho ngân hàng đi vào thế bế tắc, dẫn đến phá sản ngân hàng. Vì
vậy việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng là một việc làm cần thiết và cấp bách đối với
các NHTM.
2. Đối với nền kinh tế.
Có nhà kinh tế đã từng nói, nếu nền kinh tế là một cơ thể sống thì hệ thống ngân hàng
được coi là mạch máu. Khi rủi ro tín dụng xảy ra nó không chỉ thiệt hại cho bản thân, mà còn
để lại hậu quả vô cùng to lớn đối với nền kinh tế. Có thể chu kỳ kinh tế bị biến đổi, lạm phát
gia tăng, hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình trệ do không có đủ vốn,.... Ngoài ra do thu
nhập của chính những cán bộ ngân hàng bị giảm nên nhu cầu tiêu dùng cũng giảm theo làm
cho một phần hàng hoá bị ứ đọng chẳng hạn.
Trên đây chỉ là nêu điển hình một số thiệt hại do rủi ro tín dụng gây ra, còn muôn vàn
những vấn đề mà chúng ta không thể liệt kê được, như ảnh hưởng đến sự an nguy của nền
chính trị xã hội, nền giáo dục, y tế quốc phòng...Vậy nên các NHTM, các chủ thể của nền kinh
tế, tất cả hãy nâng cao tinh thần trách nhiệm, chấp hành đúng các quy định của pháp luật để
hạn chế tối đa nhất những rủi ro nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng. Góp phần vào sự ổn
định và phát triển của toàn xã hội.
Chương II
Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn tỉnh hải dương
I- khái quát chung về chi nhánh NHNo&ptnt tỉnh hải dương
1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hải
Dương
Chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hải Dương tiền thân là Ngân hàng nông nghiệp tỉnh Hải
Hưng, được thành lập theo quyết định số 57/NH-QĐ ngày 1/7/1988, và là một đơn vị trực
thuộc NHNoVN
Trải qua 4 lần đổi tên và chia tách nhằm đáp ứng các nhiệm vụ kinh tế- chính trị của mỗi
giai đoạn từ 01/06/1998 đến nay Ngân hàng chính thức được gọi là NHNo&PTNT tỉnh Hải
Dương theo quyết định số 595/ QĐ- NHNo- 02 ngày 16/12/1996 của tổng giám đốc
NHNo&PTNTVN, hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của
NHNo&PTNTVN thực hiện cơ bản những nhiệm vụ kinh tế, chính trị tại địa phương: đáp ứng
nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế nói chung, phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng
nông thôn mới nói riêng, với các chức năng chủ yếu như: Huy động vốn, hoạt động tín dụng,
cung ứng các dịch vụ thanh toán ngân quỹ, và kinh doanh các dịch vụ Ngân hàng khác,.......
Hệ thống NHNo&PTNTVN nói chung khi mới thành lập gặp muôn vàn khó khăn tưởng
như không trụ nổi, lúc bấy giờ NHNo được gọi là Ngân hàng 10 nhất: Thiếu vốn nhất, đông
người nhất, chi phí kinh doanh cao nhất, dư nợ thấp nhất, tổn thất rủi ro cao nhất, cơ sở vật
chất lạc hậu nhất, trình độ nghiệp vụ non kém nhất, kinh doanh thua lỗ nhất, đời sống cán bộ
khó khăn nhất, tín nhiệm khách hàng thấp nhất. NHNo Hải Dương cũng năm trong tình trạng
chung đó. Song với đường lối và chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước, với sự quan tâm
giúp đỡ của các cấp uỷ, chính quyền địa phương, sự phối hợp hỗ trợ của các ngành, các đoàn
thể trong tỉnh, sự tín nhiệm của khách hàng và nhân dân, đặc biệt là các thể lệ chế độ nghiệp
vụ và sự chỉ đạo có bài bản phù hợp với thực tế của NHNo&PTNTVN cùng với ý chí tự lực,
tự cường của Ngân hàng. Cho đến nay, Ngân hàng đã cơ bản vượt qua khó khăn, liên tục đổi
mới công nghệ, đào tạo lại cán bộ, sắp xếp lại mô hình tổ chức với 33 chi nhánh, 1 hội sở, 12
ngân hàng nông nghiệp huyện, 1 NHNo Thành Phố, 14 chi nhánh NHNo cấp III trực thuộc
các chi nhánh huyện và hội sở, 5 phòng giao dịch được phân bổ rộng khắp trên toàn tỉnh, nhờ
hoạt động ngày càng có hiệu quả và với phương châm gần gũi với khách hàng, Ngân hàng đã
trở thành người bạn đồng hành không thể thiếu được của bà con nông dân và các tổ chức kinh
tế.
2- Cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hải Dương.
Hiện nay Chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hải Dương có tổng số cán bộ công nhân viên
là 95 người (trong tổng số CB có 58 nữ, 37