Nguồn nhân lực - nguồn lực quí giá nhất của các tổchức, đơn vịlà yếu tốquyết định 
sựthành bại của họtrong tương lai. Bởi vậy, các tổchức và đơn vịluôn tìm cách đểduy trì và 
phát triển nguồn nhân lục của mình. Một trong các biện pháp hữu hiệu nhất nhằm thực hiện 
mục tiêu trên là đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, liên quan đến vấn đềnày còn 
có ý kiến khác nhau. Bài báo này sẽgóp phần làm sáng tỏthêm nội dung đó.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2291 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số vấn đề về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 263
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN 
NGUỒN NHÂN LỰC 
A NUMBER OF ISSUES ON THE TRAINING AND DEVELOPMENT 
OF HUMAN RESOURCES 
Võ Xuân Tiến 
Đại học Đà Nẵng 
TÓM TẮT 
Nguồn nhân lực - nguồn lực quí giá nhất của các tổ chức, đơn vị là yếu tố quyết định 
sự thành bại của họ trong tương lai. Bởi vậy, các tổ chức và đơn vị luôn tìm cách để duy trì và 
phát triển nguồn nhân lục của mình. Một trong các biện pháp hữu hiệu nhất nhằm thực hiện 
mục tiêu trên là đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, liên quan đến vấn đề này còn 
có ý kiến khác nhau. Bài báo này sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm nội dung đó. 
ABSTRACT 
Human resources are valuable assets of many organizations and companies and 
decisive factors for their future successes. Because of this, companies and organizations 
usually find proper ways to maintain and develop the human resources of their own. One of the 
most effective measures to perform the objectives of an organization or a firm is to train and 
develop its staff resources. However, there remains a wide range of differrent views on this 
matter. This article is concerned with some contributions made to clarify such an issue. 
1. Nguồn nhân lực 
Có thể nói, khái niệm nguồn nhân lực hiện nay không còn xa lạ với nền kinh tế 
nước ta. Tuy nhiên, cho đến nay quan niệm về vấn đề này hầu như chưa thống nhất. Tuỳ 
theo mục tiêu cụ thể mà người ta có những nhận thức khác nhau về nguồn nhân lực 
(NNL). Có thể nêu lên một số quan niệm như sau: 
- Nguồn nhân lực là toàn bộ khả năng về sức lực, trí tuệ của mọi cá nhân trong 
tổ chức, bất kể vai trò của họ là gì. Theo ý kiến này, nói đến NNL là nói đến sức óc, sức 
bắp thịt, sức thần kinh và nhìn nhận các khả năng này ở trạng thái tĩnh. 
- Có ý kiến cho rằng, nguồn nhân lực là tổng hợp cá nhân những con người cụ 
thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được 
huy động vào quá trình lao động. Khác với quan niệm trên, ở đây đã xem xét vấn đề ở 
trạng thái động. 
- Lại có quan niệm, khi đề cập đến vấn đề này chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh 
trình độ chuyên môn và kỹ năng của NNL, ít đề cập một cách đầy đủ và rõ ràng đến 
những đặc trưng khác như thể lực, yếu tố tâm lý – tinh thần,... 
- Theo giáo sư Phạm Minh Hạc, nguồn nhân lực cần phải hiểu là tổng thể các 
tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 264 
nào đó. (Phạm Minh Hạc, Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá – 2001). 
Tuy nhiên, theo chúng tôi, cần phải hiểu: Nguồn nhân lực là tổng thể những tiềm 
năng của con người (trước hết & cơ bản nhất là tiềm năng lao động), gồm: thể lực, trí 
lực, nhân cách của con người nhằm đáp ứng yêu cầu của một tổ chức hoặc một cơ cấu 
kinh tế - xã hội nhất định. 
2. Đào tạo nguồn nhân lực 
Đào tạo nguồn nhân lực là một loại hoạt động có tổ chức, được thực hiện trong 
một thời gian nhất định và nhằm đem đến sự thay đổi nhân cách và nâng cao năng lực 
của con người. 
- Là quá trình học tập để chuẩn bị con người cho tương lai, để họ có thể chuyển 
tới công việc mới trong thời gian thích hợp. 
- Là quá trình học tập nhằm mở ra cho cá nhân một công việc mới dựa trên 
những định hướng tương lai của tổ chức. Theo quan niệm này, khi nói đến đào tạo 
nguồn nhân lực là nói đến việc trang bị cho người lao động: kiến thức phổ thông, kiến 
thức chuyên nghiệp, kiến thức quản lý... Từ đó cho thấy, 
- Đào tạo: Là hoạt động làm cho con người trở thành người có năng lực theo 
những tiêu chuẩn nhất định. Là quá trình học tập để làm cho người lao động có thể 
thực hiện chức năng, nhiệm vụ có hiệu quả hơn trong công tác của họ. 
Đào tạo nguồn nhân lực là cần thiết cho sự thành công của tổ chức và sự phát 
triển chức năng của con người. Việc đào tạo nguồn nhân lực không chỉ được thực hiện 
bên trong một tổ chức, mà còn bao gồm một loạt những hoạt động khác được thực hiện 
từ bên ngoài, như: học việc, học nghề và hành nghề. 
Kết quả của quá trình đào tạo nguồn nhân lực sẽ nâng cao chất lượng, phát triển 
NNL đó. 
3. Phát triển nguồn nhân lực 
Có người cho rằng: 
- Phát triển NNL là các hoạt động nhằm chuẩn bị cho nhân viên theo kịp với cơ 
cấu tổ chức khi nó thay đổi và phát triển. 
- Phát triển nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên 
môn nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể đảm nhiệm được một công việc nhất 
định. 
- Phát triển nguồn nhân lực là truyền đạt các kiến thức, thay đổi quan điểm, nâng 
cao kỹ năng thực hành cho người lao động trong tương lai... 
- Phát triển: Là quá trình biến đổi, hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, từ hẹp 
đến rộng, từ thấp đến cao. Là quá trình học tập, nhằm mở ra cho cá nhân những công 
việc mới dựa trên cơ sở những định hướng tương lai cho tổ chức. 
Trong khi đó, quan niệm của Tổ chức giáo dục - khoa học và văn hoá của LHQ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 265
(UNESCO): Phát triển nguồn nhân lực được đặc trưng bởi toàn bộ sự lành nghề của dân 
cư, trong mối quan hệ phát triển của đất nước. 
- Tổ chức phát triển công nghiệp LHQ (UNIDO): Phát triển con người một cách 
hệ thống vừa là mục tiêu vừa là đối tượng của sự phát triển của một quốc gia. Nó bao 
gồm mọi khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã hội. Như nâng cao khả năng cá nhân, tăng 
năng lực sản xuất và khả năng sáng tạo, bồi dưỡng chức năng chỉ đạo thông qua giáo 
dục, đào tạo nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. 
- Tổ chức Lương thực và nông nghiệp LHQ (FAO): Sự phát triển nguồn nhân 
lực như một quá trình mở rộng các khả năng tham gia hiệu quả vào phát triển nông 
thôn, bao gồm cả tăng năng lực sản xuất. 
- Quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Phát triển nguồn nhân lực, 
bao hàm một phạm vi rộng lớn hơn chứ không chỉ có sự chiếm lĩnh ngành nghề, hoặc 
ngay cả việc đào tạo nói chung. Quan niệm này dựa trên cơ sở nhận thức rằng, con 
người có nhu cầu sử dụng năng lực của mình để tiến tới có được việc làm hiệu quả, 
cũng như những thoả mãn về nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Sự lành nghề được 
hoàn thiện nhờ bổ sung nâng cao kiến thức trong quá trình sống, làm việc, nhằm đáp 
ứng kỳ vọng của con người. 
Từ những vấn đề trên, theo tôi, phát triển NNL là quá trình gia tăng, biến đổi 
đáng kể về chất lượng của nguồn nhân lực và sự biến đổi này được biểu hiện ở việc 
nâng cao năng lực và động cơ của người lao động. 
Như vậy, thực chất của việc phát triển nguồn nhân lực là tìm cách nâng cao 
chất lượng của nguồn nhân lực đó. Nói cách khác, nếu tăng quy mô quan tâm đến việc 
tăng số lượng nguồn nhân lực, thì phát triển nguồn nhân lực quan tâm đến chất lượng 
của nguồn nhân lực đó. 
Nâng cao chất lượng NNL là quá trình tạo lập và phát triển năng lực toàn diện 
của con người vì sự tiến bộ kinh tế, xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người; 
nó là kết quả tổng hợp của cả 03 bộ phận cấu thành gồm: Giáo dục, Đào tạo và 
Phát triển. Ở đây, giáo dục được hiểu là các hoạt động học tập, để chuẩn bị cho con 
người bước vào một nghề nghiệp, hoặc chuyển sang nghề mới, thích hợp hơn trong 
tương lai. 
Cần chú ý rằng, năng lực của người lao động ở đây được thể hiện ở kiến thức, 
kỹ năng và hành vi thái độ của người lao động đó, và ứng với mỗi mục tiêu công việc, 
cần một loại năng lực nhất định. 
4. Năng lực người lao động 
Năng lực là sự tổng hòa của các yếu tố kiến thức, kỹ năng, hành vi và thái độ 
góp phần tạo ra tính hiệu quả trong công việc của mỗi người. 
Kiến thức là những điều hiểu biết có được hoặc do từng trải, hoặc nhờ học tập. 
Nó gồm 3 yếu tố: kiến thức tổng hợp (những hiểu biết chung về thế giới), kiến thức 
chuyên ngành (về một vài lĩnh vực đặc trưng như kế toán, tài chính,...) và kiến thức đặc 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 266 
thù (những kiến thức đặc trưng mà người lao động trực tiếp tham gia hoặc được đào 
tạo). 
Kỹ năng của người lao động là sự thành thạo, tinh thông về các thao tác, động 
tác, nghiệp vụ trong quá trình hoàn thành một công việc cụ thể nào đó. Những kỹ năng 
sẽ giúp cho người công nhân đó hoàn thành tốt công việc của mình, quy định tính hiệu 
quả của công việc. 
Thái độ của người lao động cho thấy cách nhìn nhận của người đó về vai trò, 
trách nhiệm, mức độ nhiệt tình đối với các công việc, điều này sẽ được thể hiện qua các 
hành vi của họ. Một người có kỹ năng tốt nhưng thái độ không đúng thì hiệu quả đóng 
góp sẽ không cao. 
Như vậy, nói đến năng lực của người lao động là nói đến cả 3 yếu tố: Thái độ, 
kỹ năng và kiến thức. Ở đây, thái độ là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công của 
người lao động với công việc cũng như với tổ chức. Một người có thể có kiến thức sâu 
rộng, kỹ năng chuyên nghiệp nhưng thái độ bàng quan với cuộc sống, vô trách nhiệm 
với xã hội thì chưa chắc đã làm tốt công việc. 
5. Động cơ thúc đẩy người lao động 
Con người sống và làm việc có những nhu cầu khác nhau. Đó là nhu cầu vật 
chất, nhu cầu tinh thần, nhu cầu xã hội và cũng có thể là nhu cầu hoạt động, làm việc. 
Đây là đòi hỏi khách quan của mọi con người để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của họ 
trong những điều kiện nhất định. Động cơ là cái có tác dụng chi phối, thúc đẩy người ta 
suy nghĩ và hành động. Đó chính là sức mạnh bên trong thúc đẩy con người hoạt động, 
chỉ đạo hành vi và làm gia tăng lòng quyết tâm bền bỉ giành lấy mục tiêu. Như vậy, 
động cơ làm việc là sự sẵn sàng dồn tâm trí, sức lực theo đuổi mục tiêu của tổ chức để 
đáp ứng, thỏa mãn những nhu cầu cá nhân. Những động cơ làm việc cá nhân phục vụ 
mục tiêu chung, có lợi cho tổ chức, cho xã hội, đem lại những điều tốt đẹp cho mọi 
người được xem là những động cơ trong sáng, tốt đẹp. 
Trong các cơ quan vốn đã có một đội ngũ lao động thì việc thiết kế công việc, bố 
trí đúng người, đúng việc là đòi hỏi quan trọng hàng đầu đối với các nhà quản lý. Việc 
chuyên môn hóa cao công việc sẽ giảm các thao tác của người thực hiện và tạo ra năng 
suất cao nhưng lại làm cho công việc đơn điệu, nhàm chán và mất tính sáng tạo. Do vậy, 
việc kết hợp một số công việc, họat động sẽ làm đa dạng hóa công việc, là cách làm cho 
công việc không bị nhàm chán do số thao tác và các hoạt động của người thực hiện tăng 
lên và như vậy sự hấp dẫn của công việc cũng tăng lên. 
Thứ hai, chế độ đãi ngộ, khen thưởng. Phần thưởng cho người lao động phải 
công bằng. Mọi người mong muốn sự công bằng trong đánh giá năng lực thực hiện 
công việc và phần thưởng họ được nhận. Sự công bằng không chỉ thể hiện ở phần 
thưởng mà người lao động được nhận mà người lao động nhận được phải phù hợp với 
những đóng góp, cống hiến của họ, mà còn phải phù hợp giữa phần thưởng của các cá 
nhân với nhau. Nếu không, phần thưởng sẽ không tạo ra được những động viên, khuyến 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 267
khích người lao động làm việc tốt hơn mà ngược lại còn làm mất giá trị của phần 
thưởng và làm mất đi sự hăng hái, nỗ lực của người lao động. 
Thứ ba, khuyến khích người lao động tham gia vào quá trình quản lý. Thông 
thường việc mở rộng quyền hạn cho người lao động thông qua việc cho phép họ tham 
gia vào quá trình xác định mục tiêu, đường hướng phát triển của cơ quan; tham gia vào 
quá trình ra quyết định và tham gia vào giải quyết các vấn đề của cơ quan; tham gia vào 
quá trình đổi mới tổ chức. Việc mở rộng quyền tham gia vào công việc quản lý tạo ra 
những động lực to lớn đối với người lao động thúc đẩy họ nỗ lực làm việc, tăng năng 
suất. 
Có điểm tương đồng giữa đào tạo và phát triển đó là chúng đều có các phương 
pháp tương tự, được sử dụng nhằm tác động lên quá trình học tập để nâng cao các 
kiến thức, kỹ năng thực hành. Tuy nhiên, đào tạo chủ yếu là hướng vào hiện tại, chú 
trọng vào công việc hiện thời của cá nhân, giúp các cá nhân có ngay những kỹ năng 
cần thiết để thực hiện tốt công việc hiện tại. Còn phát triển lại chú trọng đến các công 
việc tương lai trong tổ chức, doanh nghiệp. Khi một người thăng tiến lên những chức 
vụ mới, họ cần có những kiến thức, kỹ năng mới theo yêu cầu mới của công việc. 
Mục tiêu của đào tạo và phát triển: Mục đích chính là sử dụng tối đa và phát 
triển nguồn nhân lực. Mục tiêu cuối cùng là hiệu quả cao nhất về tổ chức. Mục tiêu 
của phát triển tổ chức là nâng cao thành tích của tổ chức, tăng sự thích nghi của tổ 
chức với mọi hoàn cảnh, hoàn thiện những hình thức đối xử trong nội bộ. 
6. Yêu cầu của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 
Việc đào tạo và phát triển NNL phải cố gắng đáp ứng các yêu cầu cụ thể như 
sau: 
- Cải tiến cơ cấu nguồn nhân lực 
Cơ cấu nguồn nhân lực là một khái niệm kinh tế, phản ánh thành phần, tỷ lệ các 
bộ phận hợp thành và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận ấy trong tổng thể. 
Cơ cấu nguồn nhân lực được xác định theo yêu cầu của chiến lược phát triển 
kinh tế, xã hội mà địa phương, tổ chức đã xây dựng. Nói cách khác phải xuất phát từ 
mục tiêu của tổ chức, từ yêu cầu công việc phải hoàn thành, từ yêu cầu nâng cao hiệu 
quả sử dụng các nguồn lực, từ quy trình công nghệ mà chuẩn bị cơ cấu nguồn nhân lực 
cho phù hợp. Từ đó vừa đạt đuợc hiệu quả, mục tiêu trong kinh doanh, vừa sử dụng có 
hiệu quả từng thành viên của tổ chức, vừa kích thích đuợc tính tích cực lao động của các 
thành viên đó. Điều này cũng có nghĩa là, khi chiến lược, mục tiêu, điều kiện kinh 
doanh của địa phương, tổ chức thay đổi, thì cơ cấu của nguồn nhân lực phải thay đổi 
tương ứng. 
 - Phát triển trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực 
Trình độ chuyên môn kỹ thuật là kiến thức tổng hợp, kiến thức chuyên môn 
nghiệp vụ kỹ thuật, kiến thức đặc thù cần thiết để đảm đương các chức vụ trong quản lý, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 268 
kinh doanh và các hoạt động khác, là phát triển, nâng cao kiến thức về kỹ thuật, kinh tế, 
xã hội. Vì vậy, trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực chỉ có thể có được, 
thông qua đào tạo. Cho nên bất kỳ tổ chức, doanh nghiệp nào cũng phải coi trọng công 
tác đào tạo. Và, ngược lại, đào tạo phải đáp ứng cho được yêu cầu này. 
Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ yêu cầu người lao động phải 
có trình độ học vấn cơ bản, trình độ chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng lao động tốt, để có 
khả năng tiếp thu và áp dụng công nghệ mới. Người lao động làm việc một cách chủ 
động, linh hoạt và sáng tạo, sử dụng được các công cụ, phương tiện lao động hiện đại, 
tiên tiến. 
 - Phát triển kỹ năng nghề nghiệp 
Kỹ năng nghề nghiệp là sự hiểu biết về trình độ thành thạo tay nghề và những 
kinh nghiệm, mức độ tinh xảo trong việc thực hiện các công việc. Sự rèn luyện, tích luỹ 
kinh nghiệm thực tiễn, sẽ giúp con người nâng cao trình độ kỹ năng nghề . 
 - Nâng cao trình độ nhận thức cho người lao động 
 Trình độ nhận thức của người lao động là trình độ phản ánh mức độ sự hiểu biết 
về chính trị, xã hội và tính tự giác trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhận thức của 
người lao động được coi là tiêu chí đánh giá trình độ phát triển nguồn nhân lực, vì trình 
độ nhận thức của mỗi người khác nhau, dẫn đến kết quả cũng khác nhau. Cùng một vấn 
đề nghiên cứu, song người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có thể có kết quả thấp 
hơn người có trình độ nghiệp vụ chuyên môn thấp, nhưng lại có kết quả cao hơn. Là do 
nhận thức mỗi người khác nhau, do động cơ được giải quyết, hay không được giải quyết, 
do tầm quan trọng của việc phải làm Từ đó dẫn đến hành vi, thái độ làm việc của người 
này khác người kia. Vì vậy, phải có giải pháp nâng cao trình độ nhận thức cho người lao 
động, nhằm tạo cho họ có đủ trình độ thực hiện hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức. 
 - Nâng cao trình độ sức khỏe của người lao động 
Sức khoẻ vừa là mục đích của phát triển, đồng thời nó cũng là điều kiện của sự 
phát triển. Sức khoẻ là sự phát triển hài hoà của con người cả về vật chất và tinh thần, 
đó là sức khoẻ cơ thể và sức khoẻ tinh thần. 
Khi đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phải chú ý tất cả các yêu cầu nêu trên./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Giáo trình Quản trị nhân lực; Trường ĐH Kinh tế Quốc dân; GS.TS. Phạm Đức 
Thành 
[2] Giáo trình Quản trị nhân lực; Trường ĐH Kinh tế Quốc dân; ThS. Nguyễn Văn 
Điềm, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Quân; Năm 2007. 
[3] Giáo trình Quản trị nhân lực; TS. Trần Kim Dung; Nhà xuất bản Thống kê; 
Năm 2003. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 269
[4] Quản trị nguồn nhân lực; George T. Milkovich, John W. Boudreau; Nhà Xuất bản 
Thống kê; Năm 2002. 
[5] Quản lí nguồn nhân lực; Paul Hersey; TS. Trần Thị Hạnh và TS. Đặng Thành 
Hưng dịch; Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 
[6] Quản lí nguồn nhân lực trong khu vực Nhà nước; Christian Batal (Phạm Quỳnh 
Hoa dịch); Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia. 
[7] Quản trị Nhân sự; TS. Nguyễn Hữu Thân; NXB Thống kê. 
[8] Quản trị Nhân sự trong công ty Nhật Bản; Nguyễn Đình Hiển, Hải Minh; NXB TP 
Hồ Chí Minh. 
[9] Human Resource Management, Garry Dessler 10-ed 2002, Prentice Hall