Công chức quản lý nhà nước (hay còn gọi là công chức hành chính nhà nước) là một
bộ phận công chức nhà nước và là nguồn nhân lực quan trọng của bộ máy hành chính nhà
nước từ trung ương đến địa phương. Nguồn nhân lực này quyết định việc hoàn thành
chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính. Hiệu lực của hệ thống chính trị nói chung
và của bộ máy hành chính Nhà nước nói riêng, xét cho cùng được quyết định bởi phẩm
chất, năng lực và hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức. Sự thành công hay thất bại của
một quốc gia, một ngành, một lĩnh vực, một địa phương hay một vùng lãnh thổ có một
phần quan trọng phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý nhà
nước. Do vậy việc nghiên cứu đánh giá khoa học về đội ngũ công chức quản lý nhà nước
và chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng, là cơ sở
góp phần giúp cho Đảng và Nhà nước có chiến lược trong việc xây dựng và phát triển đội
ngũ công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển của đất nước.
Đội ngũ công chức quản lý nhà nước Việt Nam đã được hình thành và phát triển
cùng với công cuộc giải phóng đất nước, bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước yêu cầu của thực tiễn cách mạng đó, công chức quản lý nhà nước Việt Nam đã có
bước phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, góp phần quan trọng vào thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ của đất nước trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, trong quá trình phát
triển trước những đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra nhanh
chóng, của thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước; đội ngũ công chức quản lý
nhà nước Việt Nam đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, chất lượng của đội ngũ công chức
quản lý nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc, chưa tạo ra tính chuyên
nghiệp trong thực thi công vụ của một nền hành chính hiện đại.
Thấy rõ tầm quan trọng của việc xây dựng và nâng cao chất lượng của đội ngũ công
chức Việt Nam trước yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước,
nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã xây dựng
chiến lược quan trọng phát triển đội ngũ cán bộ, công chức. Mục tiêu và nhiệm vụ xây
dựng đội ngũ công chức Nhà nước đã được Ban Chấp hành Trung Đảng xác định trong
Nghị quyết Đại hội VIII (6/1996), trong Chiến lược cán bộ tại Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 3 (Khoá VIII ngày 18/6/1997) và trong Văn kiện Nghị quyết Đại hội
IX (4/2001).
152 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 5010 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức quản
lý nhà nước đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công chức quản lý nhà nước (hay còn gọi là công chức hành chính nhà nước) là một
bộ phận công chức nhà nước và là nguồn nhân lực quan trọng của bộ máy hành chính nhà
nước từ trung ương đến địa phương. Nguồn nhân lực này quyết định việc hoàn thành
chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính. Hiệu lực của hệ thống chính trị nói chung
và của bộ máy hành chính Nhà nước nói riêng, xét cho cùng được quyết định bởi phẩm
chất, năng lực và hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức. Sự thành công hay thất bại của
một quốc gia, một ngành, một lĩnh vực, một địa phương hay một vùng lãnh thổ có một
phần quan trọng phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý nhà
nước. Do vậy việc nghiên cứu đánh giá khoa học về đội ngũ công chức quản lý nhà nước
và chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng, là cơ sở
góp phần giúp cho Đảng và Nhà nước có chiến lược trong việc xây dựng và phát triển đội
ngũ công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển của đất nước.
Đội ngũ công chức quản lý nhà nước Việt Nam đã được hình thành và phát triển
cùng với công cuộc giải phóng đất nước, bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước yêu cầu của thực tiễn cách mạng đó, công chức quản lý nhà nước Việt Nam đã có
bước phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, góp phần quan trọng vào thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ của đất nước trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, trong quá trình phát
triển trước những đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra nhanh
chóng, của thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước; đội ngũ công chức quản lý
nhà nước Việt Nam đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, chất lượng của đội ngũ công chức
quản lý nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc, chưa tạo ra tính chuyên
nghiệp trong thực thi công vụ của một nền hành chính hiện đại.
Thấy rõ tầm quan trọng của việc xây dựng và nâng cao chất lượng của đội ngũ công
chức Việt Nam trước yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước,
nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã xây dựng
chiến lược quan trọng phát triển đội ngũ cán bộ, công chức. Mục tiêu và nhiệm vụ xây
dựng đội ngũ công chức Nhà nước đã được Ban Chấp hành Trung Đảng xác định trong
Nghị quyết Đại hội VIII (6/1996), trong Chiến lược cán bộ tại Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 3 (Khoá VIII ngày 18/6/1997) và trong Văn kiện Nghị quyết Đại hội
IX (4/2001).
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công chức, chất lượng công chức là vấn đề được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu, là đề tài được hội thảo tại nhiều hội nghị trong nước và quốc tế.
Tác giả Tô Tử Hạ có nhiều công trình nghiên cứu về công chức nhà nước, nhiều tác
phẩm được sử dụng như là giáo trình giảng dạy về công chức hành chính nhà nước cho
đội ngũ công chức hiện nay. Trong các tác phẩm của mình, tác giả Tô Tử Hạ đã tập trung
phân tích, lý giải làm rõ khái niệm cán bộ, công chức nhà nước; vai trò của cán bộ, công
chức trong xây dựng nền hành chính quốc gia, định hướng trong xây dựng đội ngũ công
chức Nhà nước Việt Nam.
Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ đã có Báo cáo tổng hợp đề tài
“Năng lực, hiệu quả, hiệu lực quản lý hành chính Nhà nước: thực trạng, nguyên nhân và
giải pháp”. Đề tài này tập trung vào nghiên cứu về hiệu lực quản lý hành chính nhà nước,
trong đó đã đặt công chức hành chính nhà nước trong mối quan hệ với việc nâng cao hiệu
quả và hiệu lực quản lý hành chính nhà nước. Đề tài đã phân tích đánh giá về đội ngũ
công chức hành chính nhà nước xác định những ưu điểm và những yếu kém của công
chức hành chính nhà nước và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công
chức hành chính nhà nước.
Tháng 11-2003, Bộ Nội vụ đã có báo cáo về “Chương trình tổng thể cải cách hành
chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010 và các văn bản triển khai”, trong đó đã trình bày
những phương hướng và biện pháp cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và
chương trình, kế hoạch đào tạo, phát triển công chức hành chính Việt Nam trong giai
đoạn 2001-2010. Trong Chương trình này vấn đề chất lượng công chức hành chính nhà
nước và nâng cao chất lượng công chức nhà nước được đặc biệt nhấn mạnh.
Nhà xuất bản chính trị Quốc gia đã xuất bản cuốn sách “Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước”
(3-2001). Tác phẩm này đã phân tích, xây dựng luận cứ khoa học và nội dung của CNH-
HĐH đất nước, yêu cầu của CNH-HĐH với việc nâng cao chất lượng cán bộ, công chức
nói chung.
Trong năm 2004, được sự hỗ trợ của Tổ chức Hợp tác Phát triển Quốc tế Thuỵ Điển
(Sida), Bộ Nội vụ đã tiến hành cuộc hội thảo về “quản lý nguồn nhân lực công” nhằm tìm
ra được những vấn đề và xác lập mục tiêu để xây dựng dự án hỗ trợ của tổ chức Sida cho
Bộ Nội vụ giai đoạn mới trong khuôn khổ chương trình hỗ trợ cải cách hành chính của tổ
chức Sida Thuỵ Điển cho Việt Nam. Trong cuộc hội thảo này, các nhà khoa học và quản
lý đã đi đến nhất trí rằng công tác quản trị nguồn nhân lực trong các cơ quan hành chính
còn yếu kém và trong đó điểm mấu chốt là chưa tiến hành được nội dung phân tích công
việc trong các cơ quan hành chính nhà nước. Do chưa thực hiện tốt công tác phân tích
công việc nên các chính sách của quản trị nguồn nhân lực công chưa phát huy được hiệu
quả (như chính sách tuyển dụng, đào tạo và phát triển nhân lực, thù lao lao động…) và
làm cho hiệu lực của quản lý nguồn nhân lực chưa cao.
Với sự hỗ trợ của Cộng đồng Châu Âu trong khuôn khổ dự án Asian-link (mã số
ASI/B7-301/98/679-042), Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội đã phối hợp với Đại
học Tổng hợp tự trị Mardrid (Tây Ban Nha) và Đại học Insubria (Italia) tiến hành điều
tra, đánh giá chất lượng công chức quản lý nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam, để xác lập
chương trình đào tạo về kinh tế và quản lý công cho đội ngũ công chức cấp tỉnh. Kết quả
điều tra đánh giá đã được công bố tháng 7-2004 trong đó nêu rõ những yếu kém, thiếu hụt
về kiến thức và kỹ năng của đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh trong lĩnh vực quản lý
công và quản lý kinh tế. Báo cáo cho rằng một trong những thiếu hụt lớn nhất hiện nay
của công chức hành chính Việt Nam ở cấp tỉnh là sự thiếu hụt kiến thức và kỹ năng quản
lý trong nền kinh tế thị trường, sự thiếu hiểu biết về các kiến thức quản lý công. Điều này
không được giải quyết sẽ dẫn tới khó khăn cho việc phát triển vùng và lãnh thổ ở các tỉnh.
Báo cáo cũng đề xuất cần thiết phải xây dựng chương trình đào tạo về kinh tế và quản lý
công cho các công chức quản lý nhà nước cấp tỉnh.
Trong các hội thảo ở trong nước và quốc tế tại Việt Nam, các tạp chí chuyên ngành
có nhiều bài viết trao đổi về cán bộ, công chức, đã có những đánh giá về chất lượng và số
lượng công chức nói chung và công chức quản lý nhà nước nói riêng, đưa ra nhiều giải
pháp nâng cao chất lượng công chức trong đó chủ yếu bàn luận tới các biện pháp về tuyển
dụng và đào tạo công chức, về chế độ chính sách tiền lương đối với công chức. Cũng có
nhiều bài viết trao đổi về Pháp lệnh công chức, bàn luận về những điều chưa hợp lý trong
Pháp lệnh cán bộ công chức (1998 và sửa đổi bổ sung năm 2000, năm 2003) và kiến nghị
xây dựng Luật về công chức ở Việt Nam.
Từ các nghiên cứu trên cho thấy:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về công chức nhà nước và chất lượng công
chức nhà nước thường nghiêng về tiếp cận theo hướng từ nền hành chính nhà nước, dựa
trên quan điểm của Quản lý hành chính nhà nước hoặc theo cách tiếp cận của Luật hành
chính; ít hoặc không thấy công trình tiếp cận theo hướng khoa học về quản trị nguồn nhân
lực. Do đó, trong Luận án này tác giả nghiên cứu đánh giá về chất lượng công chức quản
lý nhà nước và đưa ra các giải pháp trên cơ sở của khoa học về quản trị nguồn nhân lực.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu chủ yếu bàn luận về khái niệm cán bộ, công
chức, công chức hành chính, viên chức… và thường tập trung phân tích đánh giá về công
chức nhà nước nói chung ít đi sâu vào một nhóm công chức cụ thể. Vì vậy, trong đề tài
này tác giả Luận án đi sâu nghiên cứu đánh giá về chất lượng công chức lãnh đạo - một
bộ phận nguồn nhân lực quan trọng trong đội ngũ công chức quản lý nhà nước.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu thường đánh giá chất lượng công chức dựa trên
yêu cầu của công vụ trong bộ máy hành chính nhà nước, các giải pháp thường quan tâm
tới nâng cao chất lượng công chức để đảm bảo nâng cao năng lực, hiệu quả, hiệu lực của
nền hành chính quốc gia; còn ít đề tài nghiên cứu tới những thay đổi của các yếu tố bên
ngoài ảnh hưởng tới chất lượng công chức cũng như bộ máy quản lý. Trong đề tài này,
tác giả Luận án nghiên cứu đánh giá chất lượng công chức trong trạng thái động dưới sự
tác động của các yếu tố bên ngoài, đặc biệt là những yêu cầu của quá trình CNH-HĐH đất
nước.
Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức
quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” làm đề tài
nghiên cứu của Luận án tiến sỹ của mình. Luận án tập trung đi sâu vào nghiên cứu đánh
giá, đề xuất những giải pháp nhằm góp phần nâng chất lượng công chức quản lý nhà nước
phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam hiện nay. Luận án này là kết quả nghiên
cứu của tác giả trên cơ sở vận dụng những kiến thức khoa học được học trong Nhà trường
kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn công tác của tác giả trong những năm vừa qua.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận án tập trung đưa ra các quan điểm, biện pháp nhằm nâng cao chất lượng công
chức quản lý nhà nước Việt Nam đáp ứng yêu cầu của CNH-HĐH đất nước.
- Về lý luận: Hệ thống hoá lý luận cơ bản về công chức, chất lượng của đội ngũ
công chức nói chung và chất lượng công chức quản lý nhà nói riêng trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH-HĐH đất nước.
- Về thực tiễn: Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam
hiện nay; đặc biệt đi sâu vào đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước. Phân tích tìm ra
nguyên nhân dẫn tới những hạn chế về chất lượng của đội ngũ công chức từ đó đề xuất
những quan điểm, phương hướng và một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội
ngũ công chức, mà trọng tâm là đội ngũ công chức quản lý nhà nước để đáp ứng những
đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Nội dung nghiên cứu cụ thể của luận
án là:
- Những yêu cầu chủ yếu của sự nghiệp CNH-HĐH đối với nâng cao chất lượng
công chức quản lý nhà nước Việt Nam;
- Thực trạng chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà nước Việt Nam;
- Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà nước Việt
Nam;
- Những quan điểm, phương hướng và giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
công chức quản lý nhà nước Việt Nam đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH đất nước.
4. Đối tượng và phạm vi nhiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận án này là chất lượng công chức quản lý nhà
nước Việt Nam (hay còn gọi là công chức hành chính nhà nước Việt Nam).
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu, đánh giá chất lượng công chức quản lý nhà nước đảm
nhận vai trò lãnh đạo trong bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương đến cơ sở.
Về phạm vi thời gian, đề tài phân tích đánh giá thực trạng đội ngũ công chức quản lý
nhà nước trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay).
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
- Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác cán bộ; quá trình nghiên cứu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử; phương pháp thống kê, nghiên cứu so sánh, phân tích, quy nạp, diễn dịch và
phương pháp thực chứng để phân tích làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
- Sử dụng điều tra qua bảng hỏi (Questionaires) và phỏng vấn (Interview) để thu
thập số liệu và phân tích. Để bổ sung thông tin, giúp cho nghiên cứu sâu về chất lượng
của công chức quản lý nhà nước, tác giả luận án đã tiến hành điều tra đánh giá bằng bảng
hỏi và tiến hành phỏng vấn một số cán bộ công chức ở các cơ quan trung ương và địa
phương (danh sách những người được phỏng vấn ở Phụ lục 1 của luận án).
Đối tượng điều tra qua bảng hỏi là các công chức nhà nước đang làm việc tại
cấp tỉnh, bao gồm những người có chức danh từ phó phòng (hoặc tương đương) trở
lên của các sở, ngành trực thuộc uỷ ban nhân dân 3 tỉnh Thái Nguyên, Quảng Trị và
Đồng Nai đại diện cho ba miền Bắc, Trung và Nam của Việt Nam. Tổng số phiếu
phát ra là 150 phiếu (mỗi tỉnh 50 phiếu), số phiếu thu về là 130, số phiếu hợp lệ là
124, trong đó 40 phiếu thuộc tỉnh Thái Nguyên, 45 phiếu thuộc tỉnh Đồng Nai và 39
phiếu thuộc tỉnh Quảng Trị. Mẫu phiếu điều tra và tổng hợp kết quả điều tra được thể
hiện ở Phụ lục 2 của Luận án.
5.2. Nguồn số liệu
- Số liệu thứ cấp: số liệu từ các báo cáo của các cơ quan Đảng và cơ quan quản lý
nhà nước Việt Nam (như Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ, Văn phòng Chính
phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê,...); các kết quả đã công bố
của các cuộc điều tra khảo sát và đề tài nghiên cứu khoa học do các cơ quan trong nước
và quốc tế thực hiện.
- Số liệu sơ cấp: thông tin và số liệu thu được qua điều tra bằng bảng hỏi do tác giả
luận án thực hiện tại 3 tỉnh Thái Nguyên, Quảng Trị, Đồng Nai và thông tin thu được từ
phỏng vấn sâu một số công chức quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương.
6. Những đóng góp của luận án:
Luận án có những đóng góp chính sau đây:
- Góp phần vào hệ thống hoá lý luận về đội ngũ công chức, công chức quản lý nhà
nước và chất lượng đội ngũ công chức, hệ thống hoá và xây dựng các tiêu chí đánh giá
chất lượng công chức quản lý nhà nước.
- Đưa ra những yêu cầu của CNH-HĐH đối với nâng cao chất lượng của đội ngũ
công chức nói chung và công chức quản lý nhà nước nói riêng.
- Góp phần vào đánh giá thực trạng chất lượng của đội ngũ công chức nhà nước Việt
Nam, trọng tâm là đội ngũ công chức quản lý nhà nước.
- Xây dựng quan điểm và hệ thống giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ công chức
quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH đất nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, nội dung, kết luận, các phụ lục và tài liệu tham khảo, Luận án
có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Công chức quản lý nhà nước và chất lượng đội ngũ công chức quản lý
nhà nước
Chương 2: Thực trạng chất lượng đội ngũ công chức quản lý Nhà nước Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà nước đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chương 1
Công chức quản lý nhà nước và chất lượng
đội ngũ công chức quản lý nhà nước
1.1. Công chức quản lý nhà nước và vai trò của công chức quản lý nhà nước
1.1.1. Một số khái niệm
1. Khái niệm công chức
Công chức là một bộ phận quan trọng trong bộ máy quản lý nhà nước, là lực lượng
lao động chủ yếu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước từ
trung ương đến địa phương. Hiệu lực của hệ thống chính trị nói chung và của bộ máy
hành chính Nhà nước nói riêng, xét cho cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và
hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức.
Công chức là danh từ dùng để chỉ những người thừa hành các quyền lực nhà nước,
chấp hành các công vụ của nhà nước. Sự ra đời của chế độ công chức là một bước phát
triển quan trọng trong lịch sử phát triển và hoàn thiện của các tổ chức nhà nước, là mốc
son đánh dấu của sự văn minh trong hoạt động quản lý nhà nước trên lĩnh vực kinh tế-xã
hội. Xã hội càng phát triển hiện đại, càng cần một chế độ công chức tiên tiến để bảo đảm
quản lý và thúc đẩy xã hội phát triển một cách đồng bộ.
Vào nửa cuối thế kỷ XVIII chế độ công chức đã ra đời ở các nước tư bản phương
Tây, phản ánh nhu cầu khách quan của lịch sử phát triển nhà nước.
Sau cuộc cách mạng công nghiệp, sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ở
các nước tư bản là động lực thúc đẩy sự hình thành và phát triển chế độ công chức. “Nhân
vật” trung tâm của chế độ công chức là người công chức nói riêng và đội ngũ công chức
nói chung với những tiêu chuẩn, số lượng và cơ cấu đáp ứng yêu cầu hoạt động của bộ
máy hành chính nhà nước.
Vậy công chức là gì ? Mỗi một quốc gia có quan niệm và định nghĩa khác nhau về
công chức, sau đây là một số quan niệm và định nghĩa công chức có tính đặc trưng.
Theo luật Công chức của Cộng hoà Pháp, công chức nhà nước được định nghĩa như
sau:
Công chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc trong các công
sở gồm các cơ quan hành chính công quyền và các tổ chức dịch vụ công cộng do nhà
nước tổ chức, bao gồm cả trung ương và địa phương nhưng không kể đến các công chức
địa phương thuộc các hội đồng địa phương quản lý. [13, tr 15].
Luật công chức của Vương quốc Anh, ngay từ năm 1859, đã quy định công chức
nhà nước bao gồm hai bộ phận, cụ thể như sau:
Bộ phận thứ nhất là những người do nhà Vua Anh trực tiếp bổ nhiệm hoặc được Uỷ
ban dân sự cấp giấy chứng nhận hợp lệ cho phép tham gia công tác ở cơ quan dân sự. Bộ
phận thứ hai là những người mà toàn bộ tiền lương được cấp từ ngân sách thống nhất của
Vương quốc liên hiệp hoặc từ các khoản được Quốc hội thông qua. [13, tr 16]
Luật công chức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cho rằng: “Những nhân viên trong ngành
hành chính của chính phủ được gọi chung là công chức” [13, tr 16].
Luật công chức Liên bang của Cộng hoà Liên bang Đức quy định cụ thể về công
chức nhà nước như sau:
Những người chịu sự chỉ huy, kiểm tra trực tiếp của Liên bang là công chức Liên
bang, những người phục vụ ở các đoàn thể xã hội, đoàn thể xây dựng vật chất và tài chính
theo luật chung, trực tiếp lệ thuộc Chính phủ Liên bang là công chức gián tiếp. Tất cả các
thành phần trên đây đều gọi là công chức. Ngoài các thành phần thuộc phạm vi trên, công
chức trong quốc hội Liên bang, Thượng viện Liên bang, Toà án Liên bang cũng thuộc
phạm vi điều chỉnh của luật công chức. [13, tr 17]
Theo luật công chức của Nhật Bản, công chức được phân thành hai loại chính gồm
công chức nhà nước và công chức địa phương quy định như sau:
Công chức nhà nước gồm những người được nhậm chức trong bộ máy của chính
phủ Trung ương, ngành tư pháp, quốc hội, quân đội, trường công và bệnh viện quốc lập,
xí nghiệp và đơn vị sự nghiệp quốc doanh, được lĩnh lương của ngân sách nhà nước.
Công chức địa phương gồm những người làm việc và lĩnh lương từ tài chính địa phương.
[13, tr 17]
Theo Luật công chức của Trung Quốc, công chức được định nghĩa:
Công chức nhà nước là những người công tác trong cơ quan hành chính nhà nước
các cấp, trừ nhân viên phục vụ. Công chức nhà nước gồm hai loại:
Công chức lãnh đạo là những người thừa hành quyền lực hành chính nhà nước. Các
công chức này bổ nhiệm theo các trình tự luật định, chịu sự điều chỉnh của Hiến pháp, Điều
lệ công chức và Luật tổ chức của chính quyền các cấp.
Công chức nghiệp vụ, là những người thi hành chế độ thường nhiệm, do cơ quan
hành chính các cấp bổ nhiệm và quản lý căn cứ vào Điều lệ công chức. Họ chiếm tuyệt
đại đa số trong công chức nhà nước, chịu trách nhiệm quán triệt, chấp hành các chính
sách và pháp luật” [20, tr 23].
Theo Luật của Vương quốc Thái Lan: “Công chức là những người được phân công
và được bổ nhiệm một công việc của Chính phủ và nhận lương phù hợp ở một bộ, cơ
quan nhà nước hay cơ quan thuộc Chính phủ” [20, tr 83].
Từ những cách quan niệm về công chức của một số quốc gia nêu trên, chúng ta có
thể thấy rằng công chức thường được hiểu một cách chung là những công dân, được
tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của nhà nước
ở trung ương hay địa phương, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước