Hơn 20 năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân,
công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử, đất nước ta đã có sự thay đổi đến cơ bản và toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội lần thứ X của Đảng đã đề ra mục tiêu và
phương hướng tổng quát giai đoạn 2006 - 2010 là:
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, phát huy sức mạnh đoàn
kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn dân công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng
tốt nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá;
thực hiện tiến bộ công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh mở
rộng quan hệ đối ngoại; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định
chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại [20, tr.76].
Để thực hiện mục tiêu tổng quát của giai đoạn 2006 - 2010 cũng như mục tiêu
tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói chung (xây dựng xong về
cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị và
tư tưởng văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn
vinh), một trong những giải pháp quan trọng là nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, trình
độ lý luận cho đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt.
Thực tiễn cách mạng ở nước ta đã khẳng định, sau khi có đường lối đúng, nhân tố
quyết định sự thành công hay không thành công của sự nghiệp cách mạng phụ thuộc vào
vai trò, năng lực hoạt động lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ, đặc
biệt là đội ngũ cán bộ cán bộ chủ chốt - những người có vai trò trọng yếu trong các tổ
chức Đảng, Chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội Vì vậy, đội ngũ cán bộ này
phải là những người thật sự tiêu biểu, có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị kiên
định; có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ học vấn, năng lực công tác đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ chính trị được giao. Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp, trong đó công tác giáo dục, bồi dưỡng cán
bộ đang đứng trước những thách thức mới, đó là:
Trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với
bên ngoài, cán bộ, đảng viên hàng ngày hàng giờ chịu sự tác động của nhiều
nhân tố rất phức tạp, kể cả những hoạt động chống phá Đảng, vấn đề giữ vững
bản chất giai cấp công nhân của Đảng đứng trước những thử thách mới [13,
tr.137].
Trên thực tế chất lượng, hiệu quả:
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng,
đạo đức lối sống…chưa đúng mức, tính định hướng, tính chiến đấu, tính giáo
dục thuyết phục chưa cao… Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên nhạt
phai lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu… Tình thương yêu đồng chí bị giảm
sút. Tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên rất đáng lo ngại; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực còn xảy ra ở nhiều nơi, nhưng chậm được phát hiện, ngăn chặn, đẩy
lùi có hiệu quả… [19, tr 91- 92].
Vì vậy, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, và năng lực cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt theo yêu cầu giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng là một việc
làm có ý nghĩa cấp thiết.
94 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 3418 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hà Giang hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nâng cao trình độ lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
ở tỉnh hà giang hiện nay
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 20 năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân,
công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử, đất nước ta đã có sự thay đổi đến cơ bản và toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội lần thứ X của Đảng đã đề ra mục tiêu và
phương hướng tổng quát giai đoạn 2006 - 2010 là:
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, phát huy sức mạnh đoàn
kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn dân công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng
tốt nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá;
thực hiện tiến bộ công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh mở
rộng quan hệ đối ngoại; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định
chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại [20, tr.76].
Để thực hiện mục tiêu tổng quát của giai đoạn 2006 - 2010 cũng như mục tiêu
tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói chung (xây dựng xong về
cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị và
tư tưởng văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn
vinh), một trong những giải pháp quan trọng là nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, trình
độ lý luận cho đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt.
Thực tiễn cách mạng ở nước ta đã khẳng định, sau khi có đường lối đúng, nhân tố
quyết định sự thành công hay không thành công của sự nghiệp cách mạng phụ thuộc vào
vai trò, năng lực hoạt động lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ, đặc
biệt là đội ngũ cán bộ cán bộ chủ chốt - những người có vai trò trọng yếu trong các tổ
chức Đảng, Chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội Vì vậy, đội ngũ cán bộ này
phải là những người thật sự tiêu biểu, có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị kiên
định; có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ học vấn, năng lực công tác đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ chính trị được giao. Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp, trong đó công tác giáo dục, bồi dưỡng cán
bộ đang đứng trước những thách thức mới, đó là:
Trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với
bên ngoài, cán bộ, đảng viên hàng ngày hàng giờ chịu sự tác động của nhiều
nhân tố rất phức tạp, kể cả những hoạt động chống phá Đảng, vấn đề giữ vững
bản chất giai cấp công nhân của Đảng đứng trước những thử thách mới [13,
tr.137].
Trên thực tế chất lượng, hiệu quả:
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng,
đạo đức lối sống…chưa đúng mức, tính định hướng, tính chiến đấu, tính giáo
dục thuyết phục chưa cao… Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên nhạt
phai lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu… Tình thương yêu đồng chí bị giảm
sút. Tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên rất đáng lo ngại; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực còn xảy ra ở nhiều nơi, nhưng chậm được phát hiện, ngăn chặn, đẩy
lùi có hiệu quả… [19, tr 91- 92].
Vì vậy, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, và năng lực cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt theo yêu cầu giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng là một việc
làm có ý nghĩa cấp thiết.
Trình độ lý luận chính trị của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở là một trong những
tiêu chuẩn cơ bản, có quan hệ mật thiết đến sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh chính trị
và trật tự an toàn xã hội ở địa phương, thúc đẩy sự phát triển chung cho cả tỉnh, vùng và
cả nước. Điều đó đòi hỏi ở người cán bộ chủ chốt cấp xã phải có một trình độ lý luận
chính trị nhất định. Cán bộ chủ chốt cấp xã có nắm vững, hiểu biết lý luận chính trị thì
mới nắm chắc các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, từ đó mà vận dụng một cách sáng tạo vào tình cụ thể ở địa phương. Trình độ lý
luận chính trị còn giúp cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có cơ sở tổng kết một cách
có hiệu quả tình hình thực tiễn ở địa phương, qua đó rút ra những bài học kinh
nghiệm, những kết luận , góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung và phát triển lý luận,
đường lối, chính sách... của Đảng và Nhà nước. Do đó cán bộ chủ chốt nói chung và
cán bộ chủ chốt cấp xã nói riêng để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình thì cần phải có
trình độ, trong đó có trình độ lý luận chính trị.
Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn ở nước ta nói chung và ở tỉnh
Hà Giang nói riêng còn yếu và hạn chế nhiều mặt như: Bản lĩnh chính trị, trình độ nhận
thức chính trị, năng lực tổ chức quản lý, năng lực chỉ đạo hoạt động thực tiễn, phẩm chất
đạo đức cách mạng… Nhiều cán bộ được đề bạt, bổ sung vào những cương vị chủ chốt,
nhưng chưa qua đào tạo cơ bản về chuyên môn cũng như lý luận chính trị. Do đó, khi xử
lý công việc còn tuỳ tiện, kinh nghiệm, giáo điều, chưa vận dụng đúng với đường lối, chủ
trương, quan điểm của Đảng vào thực tiễn của địa phương, cơ sở. Để khắc phục tình
trạng trên cần phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, trong
đó vấn đề có ý nghĩ cấp bách là phải đổi mới, tăng cường hơn nữa công tác đào tạo nâng
cao trình độ lý luận chính trị nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách
mạng…cho họ trong quá trình chỉ đạo hoạt động thực tiễn ở địa phương. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng và đề ra các giải pháp cụ thể, thiết thực
nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có ý nghĩa
hết sức quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn, nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Nõng cao trỡnh độ lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xó ở tỉnh Hà Giang hiện nay”, làm đề tài luận văn tốt
nghiệp thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành
Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, vấn đề nâng cao trình độ lý luận chính trị được xác định là trọng tâm
trong công tác tư tưởng của Đảng. Đây cũng là vấn đề thu hút được sự quan tâm của rất
nhiều nhà nghiên cứu.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả đề
cập ở nhiều góc độ khác nhau với những hình thức thể hiện khác nhau được đăng tải trên
sách, báo, tạp chí cả Trung ương và địa phương, có nội dung liên quan đến đề tài này. Đó
là nguồn tư liệu quý báu giúp tác giả tham khảo, kế thừa trong quá trình nghiên cứu hoàn
thiện luận văn của
mình như:
"Quan hệ giữa lý luận và chính trị" của Nguyễn Thế Phấn, Tạp chí Cộng sản, số
8/1992; "Mấy vấn đề trong công tác lý luận" của Đỗ Nguyên Phương, Tạp chí Tư tưởng
văn hoá, số 7/1992; Hồ Bá Thâm “Phát triển năng lực tư duy của người lãnh đạo quản lý
hiện nay”, Tạp chí Cộng sản số 23/ 2002; Nguyễn Thái Sơn “Đổi mới công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt” Nhà xuất bản Lý luận chính trị, 2001; Trần Thành
“Tư duy lý luận đối với người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn”, Nhà xuất bản Lý luận
chính trị, 2001; Ngô Ngọc Thắng “Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở trong thời kỳ đổi mới”, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, 2004;Luận văn thạc
sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1995, "Nâng cao trình độ tư
duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã miền núi hiện nay" của Đỗ Cao Quang;
Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1998; "Nâng
cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện
nay" của Vũ Đình Chuyên; Luận văn thạc sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, năm 2001, “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp huyện ở tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay” của Nông Văn Tiềm; Luận văn thạc
sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006, “Nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp xã miền Tây Nam Bộ hiện
nay” của Tô Hoàng Hiệp.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu, đặt ra những vấn đề rất cơ bản cả về lý
luận lẫn thực tiễn, đề ra những phương hướng và giải pháp để nâng cao trình độ lý luận chính
trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cấp này, cấp khác. Tuy nhiên, do giới hạn về mục
tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, nên cho tới nay chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách chi tiết, đầy đủ, có hệ thống và chuyên sâu về thực trạng cũng như nêu
ra những giải pháp để nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh
Hà Giang. Vì vậy, nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh
Hà Giang, từng bước góp phần khắc phục tình trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở
vừa thiếu lại vừa yếu như hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn làm rõ vai trò của lý luận chính trị và thực trạng trình độ lý luận chính trị
đối với hoạt động lãnh đạo, quản lí của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hà Giang;
trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hà Giang hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ
chủ yếu sau đây:
- Phân tích làm rõ bản chất, vai trò của lý luận chính trị đối với việc nâng cao tư
duy lý luận, năng lực, trình độ lãnh đạo, quản lý, cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, yêu cầu và nguyên nhân về trình độ lý luận chính
trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hà Giang hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ
chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hà Giang hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh danh Giang hiện nay bao gồm các chức danh: Bí thư, Phó bí
thư Đảng uỷ; Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó chủ tịch Uỷ ban
nhân dân.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
- Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị cho cán bộ.
- Các nghị quyết, chương trình hành động, quyết định, chỉ thị, báo cáo tổng kết của
tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang.
- Kế thừa, vận dụng, phát triển các công trình của các tác giả đi trước đã nghiên cứu
những nội dung liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, kết hợp sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, thống
kê, điều tra xã hội học...
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ vai trò, tầm quan trọng của lý luận chính trị đối với
cán bộ chủ chốt cấp xã và tính tất yếu phải nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở Hà Giang.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao trình độ lý luận chính trị cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hà Giang qua nghiên cứu, đánh giá khái quát thực
trạng trình độ lý luận chính trị của cán bộ chủ chốt cấp xã ở Hà Giang.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Những giải pháp rút ra trong luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực
tiễn cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã của
tỉnh Hà Giang nói riêng, của các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung.
- Là tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý, giáo viên của Trường Chính trị trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng, lý luận cho cán bộ, đảng viên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 4 tiết.
Chương 1
lý luận chính trị và vai trò của lý luận chính trị
đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay
1.1. Lý luận chính trị và vai trò của lý luận chính trị
1.1.1. Bản chất của lý luận chính trị
Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã
hội. Thực tiễn đã chứng minh rằng: khi xã hội phân chia thành giai cấp thì bất kỳ một giai
cấp, một chính đảng nào muốn giữ được địa vị thống trị xã hội thì trước hết phải nâng
cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận cho giai cấp mình.
V.I.Lênin đã chỉ rõ: không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách
mạng, chỉ có chính đảng nào có được lý luận tiên phong dẫn đường thì đảng đó mới hoàn
thành vai trò cách mạng tiền phong. Do đó, khi nói đến Đảng chính trị là đồng thời nói
đến hệ thống lý luận - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ấy.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Lý luận là hệ thống những tư tưởng được khái quát từ
những kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lý luận là những kiến thức
được khái quát và hệ thống hoá trong một lĩnh vực nào đó” [38, tr.544-545].
Từ điển Triết học đã định nghĩa: “Lý luận là hệ thống những tri thức đã được khái
quát, tạo ra một quan niệm hoàn chỉnh về các quy luật và mối liên hệ cơ bản của hiện
thực” [50,tr.341].
Đọc diễn văn khai mạc tại lớp học lý luận khoá I Trường Nguyễn ái Quốc, ngày
7/9/1957, khi nói về lý luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lý luận là sự tổng kết
những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại
trong quá trình lịch sử” [36, tr.497].
Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau về lý luận nhưng tất cả các định nghĩa
trên đều có điểm thống nhất ở chỗ: lý luận là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn,
là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội được tích luỹ trong quá trình hoạt
động lịch sử của con người; phản ánh mối liên hệ bản chất, mang tính quy luật của sự vật,
hiện tượng trong một lĩnh vực nào đó của hiện thực khách quan và có vai trò hướng dẫn
hoạt động thực tiễn. Trong mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn thì thực tiễn chính là
yếu tố cơ sở, nền tảng, quyết định sự hình thành lý luận. Mỗi bước phát triển của hoạt
động thực tiễn lại làm nảy sinh yêu cầu mới đòi hỏi phải được nghiên cứu, khái quát và
do đó được bổ sung vào lý luận những nhận thức mới. Nhờ đó mà lý luận hoàn thiện và
phát triển hơn. Ngược lại, trong mỗi hoạt động thực tiễn, lý luận hướng dẫn, mở đường
cho thực tiễn phát triển bằng những tổng thể tri thức nhất định. Không có hoạt động thực
tiễn nào đơn thuần là kinh nghiệm cụ thể, cũng như không có hệ thống tri thức lý luận
nào không xuất phát từ sự tổng kết thực tiễn.
Quá trình nhận thức của con người có thể khái quát lại dưới hai cấp độ: tri thức
kinh nghiệm và tri thức lý luận. Tri thức kinh nghiệm là những tri thức do con người tiếp
nhận trực tiếp từ việc quan sát sự vật, hiện tượng cụ thể, khách quan; những tri thức này
còn mang tính rời rạc, bề ngoài, riêng lẻ, ngẫu nhiên chưa mang tính chặt chẽ, sâu sắc,
chưa đi sâu vào bản chất của sự vật hiện tượng. Do đó, phạm vi áp dụng cũng như tính
hướng dẫn, chỉ đạo của tri thức kinh nghiệm thường bị hạn chế trong phạm vi hẹp. Khẳng
định điều đó, Ph.Ăng ghen viết “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ
có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu” [30, tr.718]; cho nên, biện chứng của quá
trình nhận thức tất yếu vươn tới một tri thức sâu sắc hơn, bản chất hơn, đó là tri thức lý
luận.
Tri thức lý luận ở trình độ cao hơn so với tri thức kinh nghiệm. Bởi vì, tri thức lý
luận có được là dựa trên cơ sở khái quát từ những tri thức kinh nghiệm và được nâng nên
ở trình độ cao hơn, sâu sắc hơn về bản chất và quy luật của sự vật. Chính vì vậy, phạm vi
áp dụng cũng như tính hướng dẫn, cải tạo của tri thức lý luận rộng hơn so với tri thức
kinh nghiệm. Tri thức lý luận làm cho hoạt động của con người trở lên chủ động, tự giác
hơn, tránh được tình trạng mò mẫm, tự phát trong quá trình nhận thức, cũng như cải tạo
tự nhiên, cải tạo xã hội.
Mặc dù tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận có khác nhau về trình độ nhưng
giữa chúng lại có điểm chung là đều phản ánh hiện thực khách quan và có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Kinh nghiệm thực tiễn có vai trò quan trọng đối với lý luận, là cơ sở để
tổng kết khái quát thành lý luận. Kinh nghiệm còn là căn cứ để con người xem xét, bổ
sung, sửa đổi và không ngừng phát triển lý luận; lý luận càng chính xác, khoa học hơn
nếu được xây dựng trên nhiều kinh nghiệm thực tiễn.
Tri thức lý luận được hình thành từ sự tổng kết, khái quát kinh nghiệm nhưng lại
phải thông qua sự trừu tượng hoá, khái quát hoá của tư duy; cho nên bản thân nó chứa
đựng khả năng thiếu chính xác hoặc xa rời thực tế.
Để tri thức ấy trở thành khoa học thì nó luôn luôn phải được kiểm nghiệm qua
thực tiễn nhằm bổ sung và hoàn thiện phù hợp với thực tiễn. Mặc dù lý luận có nguồn
gốc từ thực tiễn, nhưng sau khi ra đời nó có tính độc lập tương đối và tác động tích cực
trở lại thực tiễn; chỉ đạo, dự báo tương lai phát triển của sự vật, định hướng hoạt động
thực tiễn của con người để đạt hiệu quả cao nhất.
Như vậy, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận là hai cấp độ khác nhau trong quá
trình nhận thức của con người, trong đó tri thức kinh nghiệm là căn cứ, là cơ sở để hình
thành và phát triển của tri thức lý luận. Do đó, nếu tri thức kinh nghiệm càng được tích
luỹ nhiều thì càng có cơ sở vững chắc, độ tin cậy càng cao cho sự khái quát về lý luận và
lý luận chỉ thực sự là lý luận khoa học khi nó được khái quát từ những kinh nghiệm của
thực tiễn.
Vì vậy, lý luận được hiểu theo nghĩa chung nhất là hệ thống những tri thức được khái
quát từ những kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, tính
quy luật của sự vật hiện tượng trong thế giới hiện thực.
Trên thực tế, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực khoa học cụ thể, khác nhau đều có lý luận
riêng và mỗi ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động cụ thể muốn phát triển được đều phải bắt đầu
bằng việc phát triển lý luận. Trong quá trình nghiên cứu của đề tài, tác giả luận văn tập
trung nghiên cứu vấn đề lý luận chính trị. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: chính
trị là một hiện tượng lịch sử xuất hiện và tồn tại khi xã hội phân chia giai cấp và hình thành nhà
nước.
Chính trị giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Chính trị là lĩnh
vực hoạt động phức tạp, luôn thu hút các nhà tư tưởng đi vào sâu nghiên cứu, khám phá,
cố gắng làm sáng tỏ bản chất đầy bí ẩn của chính trị.
Chính trị, theo tiếng Hylạp là “politics” có nghĩa là những công việc liên quan đến
thành bang, những công việc quốc gia. Trong đó việc cốt lõi nhất, quan trọng nhất, thực
chất nhất là tổ chức ra cơ quan cai trị (chính phủ) và sau này, từ thế kỷ XVI trở đi gọi là
nhà nước [4, tr.7].
Trong sự phát triển của lịch sử xã hội loài người từ thời kỳ cổ đại, trung đại và cận
đại các nhà tư tưởng phương Tây cũng như phương Đông đã cố gắng đi tìm một hình
thức nhà nước phù hợp để cai trị đất nước có hiệu quả nhất, hợp lý nhất. Do đó, “chính trị
theo nguyên nghĩa của nó là những công việc của nhà nước là phạm vi hoạt động gắn với
những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn
đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước” [1,tr.570]. Hơn nữa, chính trị là mối quan
hệ giữa các giai cấp là đấu tranh giai cấp trong giành, giữ, thực thi quyền lực nhà nước và
suy cho cùng