Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta đã xác định phát 
triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm đó đã 
được thể hiện rất rõ qua nhiều kỳ đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam. Tại đại hội đại 
biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục "khẳng định" thực hiện nhất quán chính sách kinh tế 
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh 
tế vận hành theo định hướng kinh tế nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo và cùng với 
kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước là hai phạm trù khác nhau. 
Khi nói tới kinh tế nhà nước là nối đến những của cải tài sản thuộc sở hữu nhà nước, 
còn khi nói tới thành phần kinh tế nhà nước là muốn nói đến quan hệ sản xuất tiêu biểu 
cho chế độ đương thời. Trong điều kiện hiện nay thì đó là hệ thống doanh nghiệp nhà 
nước. Thành phần kinh tế nhà nước, thực chất là hệ thống các doanh nghiệp nhà nước 
với quy mô, cấu trúc sức mạnh riêng.
Trong hơn mười năm qua, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, 
biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước. Trong 
bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp và nền kinh tế, còn nhiều khó khăn gay 
gắt, doanh nghiệp Nhà nước đã vượt qua nhiều thử thách, đứng vững, không ngừng 
phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát 
triển đất nước, đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, chuyển sang thời kỳ đẩy 
mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN.
Nhưng bên cạnh đó, DNNN cũng còn những mặt hạn chế yếu kém, có mặt rất 
nghiêm trọng như: quy mô còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý chưa tập trung vào 
những ngành, lĩnh vực then chốt, nhìn chung trình độ công nghệ còn lạc hậu, quản lý 
còn yếu kém, kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với các nguồn lực: tài 
nguyên thiên nhiên, nguồn lao động cũng như chưa tương xứng với sự hỗ trợ của nhà 
nước. 
Những hạn chế yếu kém của doanh nghiệp Nhà nước có những nguyên nhân 
khách quan. Nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan; chưa có sự thống nhất 
trong nhận thức về vai trò vị trí của kinh tế nhà nước và DNNN, về cơ chế chính sách 
còn chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã 
hội chủ nghĩa. Công tác cải cách hành chính chậm, công tác quản lý, công tác đào tạo 
cán bộ và đội ngũ người lao động trong các DNNN vẫn còn nhiều bất cập, lãng phí.
Từ thực tại trên đòi hỏi không ngừng đổi mới, nâng cao vai trò chủ đạo của 
thành phần kinh tế nhà nước - cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế 
quốc dân, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 44 trang
44 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2026 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần 
kinh tế nhà nước - cụ thể là các doanh nghiệp 
nhà nước trong nền kinh tế quốc dân 
Lời mở đầu 
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta đã xác định phát 
triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm đó đã 
được thể hiện rất rõ qua nhiều kỳ đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam. Tại đại hội đại 
biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục "khẳng định" thực hiện nhất quán chính sách kinh tế 
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh 
tế vận hành theo định hướng kinh tế nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo và cùng với 
kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước là hai phạm trù khác nhau. 
Khi nói tới kinh tế nhà nước là nối đến những của cải tài sản thuộc sở hữu nhà nước, 
còn khi nói tới thành phần kinh tế nhà nước là muốn nói đến quan hệ sản xuất tiêu biểu 
cho chế độ đương thời. Trong điều kiện hiện nay thì đó là hệ thống doanh nghiệp nhà 
nước. Thành phần kinh tế nhà nước, thực chất là hệ thống các doanh nghiệp nhà nước 
với quy mô, cấu trúc sức mạnh riêng. 
Trong hơn mười năm qua, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, 
biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước. Trong 
bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp và nền kinh tế, còn nhiều khó khăn gay 
gắt, doanh nghiệp Nhà nước đã vượt qua nhiều thử thách, đứng vững, không ngừng 
phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát 
triển đất nước, đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, chuyển sang thời kỳ đẩy 
mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN. 
Nhưng bên cạnh đó, DNNN cũng còn những mặt hạn chế yếu kém, có mặt rất 
nghiêm trọng như: quy mô còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý chưa tập trung vào 
những ngành, lĩnh vực then chốt, nhìn chung trình độ công nghệ còn lạc hậu, quản lý 
còn yếu kém, kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với các nguồn lực: tài 
nguyên thiên nhiên, nguồn lao động cũng như chưa tương xứng với sự hỗ trợ của nhà 
nước. 
Những hạn chế yếu kém của doanh nghiệp Nhà nước có những nguyên nhân 
khách quan. Nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan; chưa có sự thống nhất 
trong nhận thức về vai trò vị trí của kinh tế nhà nước và DNNN, về cơ chế chính sách 
còn chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã 
hội chủ nghĩa. Công tác cải cách hành chính chậm, công tác quản lý, công tác đào tạo 
cán bộ và đội ngũ người lao động trong các DNNN vẫn còn nhiều bất cập, lãng phí... 
Từ thực tại trên đòi hỏi không ngừng đổi mới, nâng cao vai trò chủ đạo của 
thành phần kinh tế nhà nước - cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế 
quốc dân, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. 
Phần nội dung 
I. Cơ sở lý luận của vấn đề nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà 
nước. 
I.1. Các thành phần kinh tế - Tính tất yếu khách quan tồn tại nhiều thành phần 
kinh tế 
Trong tác phẩm " Bàn về thuế lương thực", Lê Nin đã viết " Danh từ quá độ có 
nghĩa là gì ? vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có 
những thành phần, những bộ phận, những mảng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã 
hội không ? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có". 
Luận điểm trên của Lê Nin cho thấy rằng: trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã 
hội tất yếu phải tồn tại nhiều thành phần kinh tế. 
*Cơ sở lý luận 
Sự tồn tại của các thành phần kinh tế hay của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần 
trong thời kỳ quá độ ở nước ta, trước hết bắt nguồn từ quy luật quan hệ sản xuất phải 
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sản xuất muốn 
phát triển thì nhất định phải có sự phù hợp đó. Nếu như tồn tại lực lượng sản xuất khác 
nhau về tư liệu sản xuất và do đó tồn tại nhiều quan hệ sản xuất khác nhau về tư liệu 
sản xuất và do đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Trong đó luôn có những 
quan hệ sở hữu, thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế thống nhất. ở 
nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, điểm xuất phát về lực lượng 
sản xuất, phân công lao động xã hội.... còn thấp và không đều giữa các xí nghiệp, giữa 
các ngành, vùng, trình độ lao động, năng suất cũng khác nhau. Do đó tất yếu tồn tại 
nhiều cách thức kết hợp lực lượng sản xuất với sức lao động, nhưng quy mô, trình độ 
sản xuất khác nhau, nhiều quan hệ sản xuất khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác 
nhau. 
Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn được bắt nguồn từ yêu cầu 
của các quy luật kinh tế của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Để thúc đẩy sản xuất hàng 
hoá phát triển, trước hết phải khôi phục cơ sở tồn tại của nó. Đó là các hình thức sở 
hữu khác nhau về TLSX. Điều đó có nghĩa là phải khuyến khích, duy trì, phát triển các 
thành phần kinh tế 
*Cơ sở thực tiễn 
Khi tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế nước ta có 
thêm những thành phần kinh tế mới như kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Các 
thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại đan xen nhau, tạo nên đặc điểm của nền kinh tế 
trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Thực tiễn lịch sử cho thấy, hầu như không một nước 
nào có một nền kinh tế thuần nhất, tức chỉ tồn tại duy nhất một kiểu quan hệ sản xuất 
về tư liệu sản xuất và do đó có một thành phần kinh tế. 
 ở nước ta trong thời gian qua việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh 
tế đã đem lại những kết quả đáng kể nó góp phần khai thác được mọi tiềm năng của 
từng thành phần kinh tế. Đó là những tiềm năng về vốn, kỹ thuật, sức lao động, kinh 
nghiệm tổ chức, quản lý.... Ngoài ra nó còn góp phần tận dụng được sức mạnh kinh tế 
quốc tế, khắc phục tình trạng biệt lập của nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới 
bằng cách thông qua đầu tư nước ta với nền kinh tế thế giới bằng cách thông qua đầu 
tư và hợp tác quốc tế. Đó là một trong những yếu tố quan trọng để nước ta có thể tiếp 
cận được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của thế giới. 
Tóm lại, trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều thành phần là tất 
yếu khách quan xét cả mặt lý luận và thực tiễn chính vì vậy. Đại hội Đảng toàn quốc 
lần thứ VI đã chỉ ra phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã 
hội chủ nghĩa trên cơ sở củng cố và giữ vững vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế 
nhà nước với sự điều tiết và quản lý của Nhà nước là đường lối chiến lược lâu dài ở 
nước ta. 
Đại hội Đảng lần IX tháng 4 - 2001, đã khẳng định thêm nữa tư tưởng trên. 
Hiện nay nền kinh tế nước ta gồm 6 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập 
thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế ta bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có 
vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ qua lại lẫn 
nhau, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. 
I.2. Khái niệm về thành phần kinh tế Nhà nước 
I.2.1. Kinh tế Nhà nước - Thành phần kinh tế Nhà nước 
Kinh tế Nhà nước là thuật ngữ bao hàm nội dung khá rộng, được xác định theo 
ý nghĩa khác nhau tuỳ góc độ nghiên cứu theo cách hiểu chung nhất thì kinh tế Nhà 
nước là phần tài sản do nhà nước làm chủ sở hữu. Hay nói cách khác, kinh tế Nhà 
nước là bộ phận của nền kinh tế quốc dân thuộc sở hữu Nhà nước. 
Với cách hiểu đó, ở nhiều nước cũng như ở Việt Nam ta bao gồm: Tài nguyên 
khoáng sản và phần đất đai thuộc sở hữu nhà nước; Ngân hàng nhà nước, kho bạc nhà 
nước, ngân sách nhà nước, Tài chính nhà nước, hệ thống dự trữ quốc gia bảo hiểm 
quốc gia. Các dịch vụ công cộng do Nhà nước đảm nhiệm. Các doanh nghiệp Nhà 
nước. Ngày nay cũng có quan điểm cho rằng kinh tế nhà nước còn bao gồm cả nguồn 
nhân lực, hệ thống các chính sách, công cụ, quản lý nhà nước. 
Kinh tế nhà nước hình thành và phát triển từ khi Nhà nước xuất hiện. Trong quá 
trình phát triển lịch sử, khu vực kinh tế này ngày càng được củng cố và phát triển 
nhằm thực hiện chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên quy 
mô chức năng vai trò của kinh tế nhà nước có sự khác nhau ở từng quốc gia và từng 
thời điểm nhất định. 
Kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước là hai phạm trù khác nhau. 
Khi nói tới kinh tế nhà nước là nói tới những của cải, tài sản thuộc sở hữu Nhà nước; 
còn nói tới thành phần kinh tế nhà nước là muốn nói tới quan hệ sản xuất tiêu biểu cho 
chế độ Lê Nin đã viết: " Vô luận thế nào chúng ta cũng không được quên cái mà chúng 
ta thường nhìn thấy: quan hệ xã hội chủ nghĩa của công nhân trong các công xưởng 
quốc doanh, nơi mà công nhân cố gắng phân phối đúng đắn các sản phẩm công nghiệp 
cho nông dân,chuyển vận các thứ ấy đến tận nơi bằng các phương tiện giao thông. Đó 
chính là chủ nghĩa xã hội"1 từ đó, thành phần kinh tế nhà nước chỉ bao hàm các nguồn 
lực do Nhà nước sở hữu, đưa vào và biến thành tài sản được dùng trong quá trình sản 
xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Cũng giống như các 
thành phần kinh tế khác chúng chỉ phản ánh quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất ở các 
1 I.V Lênin toàn tập. NXB Tiến Bộ Matxcơva - 1978 trang 188 - Tập 43 
chủ thể sản xuất chứ không phải toàn bộ nguồn lực của chúng. Như vậy, thành phần 
kinh tế nhà nước về thực chất là không phải toàn bộ nguồn nhân lực của chúng. Như 
vậy, thành phần kinh tế nhà nước về thực chất là phản ánh quy mô, cấu trúc sức mạnh 
của hệ thống doanh nghiệp nhà nước. 
Kinh tế nhà nước rộng và mạnh hơn bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Phân biệt 
được hai phạm trù này và nhận thức đầy đủ hơn về vai trò kinh tế nhà nước là một 
bước phát triển về nhận thức thực tiễn nền kinh tế nước ta trong quá trình đổi mới. 
I.2.2. Quan niệm mới về doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo 
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 
Như ta đã biết, thành phần kinh tế nhà nước thực chất là phản ánh quy mô, cấu 
trúc, sức mạnh của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước đã đạt được những kết quả khả 
quan. Tuy nhiên cho đến nay, trong sự phát triển phong phú và đa dạng của kinh tế thị 
trường, xung quanh khái niệm DNNN, xác định phạm vi DNNN vẫn còn những ý kiến 
khác nhau. Hiểu được quan niệm mới về DNNN sẽ góp phần vào nhận thức thực tiễn, 
đưa ra những giải pháp để ngày càng nâng cao vai trò chủ đạo của hệ thống DNNN. 
Tại điều 1, luận Doanh nghiệp Nhà nước (ký ngày - 20 - 4 - 1995) quy định: 
"DNNN là một tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý 
hoạt động kinh doanh hoặc hoật động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - 
xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, 
tự chịu trách nhiệm và toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh 
nghiệp quản lý ". Tuy nhiên có đến nay khái niệm DNNN do luật doanh nghiệp Nhà 
nước hiện hành quy định đã tỏ ra không phù hợp với nền kinh tế nước ta đang trong 
quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường và từng bước hội nhập vào nền kinh tế 
khu vực và thế giới. Sự không phù hợp đó thể hiện ở những điểm sau. 
Một trong những khuyết tật của DNNN là không xác định chủ sở hữu đích thực. 
Dù luật DNNN đã xác định chủ sở hữu DNNN là thủ trưởng các tổ, cá nhân được 
Chính phủ uỷ quyền, nhưng trên thực tế không có một cơ chế nào cho phép xác định 
chủ sở hữu đích thực của các DNNN. Thực tế đó dẫn đến tình trạng DNNN. Hiện nay 
dưới thủ tướng Chính phủ có nhiều chủ, ai cũng có quyền điều hành, nhưng chẳng ai 
có quyền lực để giải quyết những khó khăn, vướng mắc, trắc chở của doanh nghiệp. 
Hậu quả là doanh nghiệp kém năng động, khả năng cạnh tranh yếu. 
Luật DNNN quy định DNNN làm tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, 
thành lập và tổ chức quản lý. Điều này mặc nhiên dẫn tới được hiểu rằng DNNN là tổ 
chức đơn (sở hữu Nhà nước). Nó cũng đồng nghĩa với việc Nhà nước phải đầu tư 
100% để thành lập DNNN. Đây thực sự là ngánh nặng cho ngân sách Nhà nước. 
* Quan điểm mới về DNNN trong kinh tế thị trường 
Tiêu trí để xác định DNNN không chỉ dựa vào mức độ khống chế chi phối chủ 
Nhà nước đối với doanh nghiệp. Vì vậy DNNN không chỉ bao gồm loại doanh nghiệp 
100% vốn Nhà nước mà còn bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước chi phối, quản lý 
và kiểm soát. Quan niệm như thế là vừa phù hợp với thông lệ quốc tế vừa đáp ứng 
được xu thế đẩy mạnh cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu hiện nay. Mặt khác, lâu dài 
DNNN có 100% vốn Nhà nước sẽ thu hẹp dần. Những DNNN sẽ tham gia liên kết với 
các thành phần kinh tế khác sẽ tăng lên và trở thành phổ biến. Đây là xu hướng khách 
quan, quy luật phát triển của kinh tế thị trường. 
Vì vậy khái niệm DNNN phải được hiểu như sau: DNNN là tổ chức kinh tế do 
Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc giữ cổ phần chi phối hoạt động kinh doanh hoặc hoạt 
động công ích, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình trong số tài sản 
của doanh nghiệp. 
 Tuy nhiên cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước ta và xu hướng phát 
triển của kinh tế thế giới, về lâu dài, khái niệm này cũng cần tiếp tục nghiên cứu hoàn 
thiện. 
I.3. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước và tính tất yếu khách quan 
nâng cao vai trò chủ đạo đó trong nền kinh tế thị trường. 
I.3.1. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước 
Qua hơn 40 năm hình thành và phát triển, thành phần kinh tế Nhà nước 
(DNNN) đã chi phối được các ngành lĩnh vực then chốt là sản phẩm thiết yếu của nền 
kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định 
và phát triển kinh tế -xã hội tăng thế và lực của đất nước. Kinh tế Nhà nước mà chủ 
yếu là các DNNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thể hiện chủ yếu trên 
các mặt: đi đầu và nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, nhờ đó mà thúc đẩy 
tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế quốc dân. Bằng nhiều hình thức hỗ trợ 
các thành phần kinh tế khác nhau cùng phát triển theo định hướng XHCN tăng cường 
sức mạnh vật chất tinh thần làm chỗ dựa để Nhà nước thực hiện có hiệu lực chức năng 
điều tiết, quản lỹ vĩ mô nền kinh tế theo định hướng XHCN, cùng với kinh tế tập thể 
(mà lòng cốt là các hợp tác xã) dẫn trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân và chế 
độ xã hội mới. 
Tuy nhiên hiện nay, DNNN vẫn chưa phát huy đầy đủ tính ưu việt và sự chỉ đạo 
của nó đối với nền kinh tế quốc dân. Cùng với việc đổi mới các nền kinh tế ngoài quốc 
doanh, việc cải tạo đổi mới DNNN phải hết sức coi trọng đầu tư và thường xuyên tổng 
kết để rút ra những bài học kinh nghiệm, bổ sung những chi thức "cập nhất" nhằm thực 
hiện cho kỳ được vai trò chủ đạo và mục tiêu định hướng XHCN của thành phần kinh 
tế này. 
I.3.2. Tính tất yếu khách quan nâng cao vai trò chủ đạo thành phần kinh tế Nhà 
nước (DNNN) trong nền kinh tế thị trường 
Đại hội Đảng lần IX tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách nhiều thành phần 
vận động theo cơ chế thị trường có định hướng xã hội. Mô hình kinh tế thị trường khá 
ưu việt về nhiều mặt đặc biệt trong việc giải phóng sức sản xuất xã hội, phát huy tiền 
năng sức sáng tạo của các cá nhân, không ngừng nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa 
học kỹ thuật tăng năng suất lao động, sản xuất hàng hoá với khối lượng lớn, chất lượng 
ngày càng tốt, giá thành ngày càng hạ. Tuy nhiên bên cạnh những mặt mạnh những ưu 
thế vốn có, nền kinh tế thị trường bộc lộ những khuyết tật cố hữu như tính tự phát, mù 
quáng vì lợi nhuận, phân hoá giàu nghèo, tàn phá các nguồn tài nguyên thiên nhiên, 
huỷ hoại môi trường. Làm phát sinh các tệ nạn xã hội... Chính sự phát triển của nền 
kinh tế thị trường là do các tổ chức cá nhân hành động về lợi ích riêng của mình dẫn 
đến việc đi không đúng hướng của kế hoạch Nhà nước, mục tiêu phát triển kinh tế vĩ 
mô của nền kinh tế. 
Trước tình hình đó, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có thể vì lợi 
nhuận, mục đích riêng của thành phần kinh tế mình mà phát triển lệch lạc ảnh hưởng 
tới kinh tế - xã hội của đất nước ta, tới con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà nhân dân 
ta đã lựa chọn. Do đó vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước và vấn đề này 
càng nâng cao vai trò chủ đạo của nó đang là một vấn để cấp bách tất yếu trong thời kỳ 
hiện nay. 
Mặt khác để thành phần kinh tế Nhà nước (DNNN) đã phát huy vai trò chủ đạo 
trong hơn 15 năm đổi mới Nhà nước đã thực hiện đổi mới sắp xếp lại các doanh 
nghiệp để tăng cường sức mạnh nội lực của nó. Đó cũng tất yếu khách quan. 
 Hiện nay, DNNN nước ta đang đứng trước thực trạng yếu kém về nhiều mặt: 
số doanh nghiệp Nhà nước thực sự có hiện quả chỉ có 40%, số DNNN bị lỗ liên tục 
chiếm khoảng 20% còn 40% DNNN không có hiệu quả khi lỗ khi lãi; số nợ DNNN 
phải trả quá lớn thường xuyên vượt mức vốn hiện có của doanh nghiệp (116% - 1997; 
113% - 1998; 130% - 1999)2; hệ thống DNNN vốn qua manh mún chồng chéo quy mô 
nhỏ: số doanh nghiệp vốn dưới 5 tỷ chiếm 65,45%, trình độ công nghệ lao động thấp. 
Từ thực trạng trên đây để tiếp tục tồn tại và phát triển có hiệu quả, nâng cao vai trò chủ 
đạo, DNNN không có con đường nào khác là phải đổi mới một cách triệt để và toàn 
diện. Tuy nhiên, đổi mới DNNN không đơn thuần tích nhật doanh nghiệp hoặc tăng 
giảm số lượng các doanh nghiệp mà là đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế quản lý 
doanh nghiệp Nhà nước kết hợp với điều chỉnh cơ cấu hợp với trong quan hệ ngành, 
vùng, lãnh thổ và các thành phần kinh tế. Vì vậy đối với DNNN phải nhằm tăng cường 
hệ thống doanh nghiệp Nhà nước làm cho DNNN thực sự lớn mạnh về quy mô, hiệu 
quả và phát huy được vai trò nòng cốt góp phần dẫn dắt các thành phần kinh tế khác 
cùng phát triển theo định hướng XHCN là trách nhiệm lịch sử của DNNN ở nước ta. 
2 Tạp chí Tài chính tháng 7 /2001 
II- Thực trạng thành phần kinh tế nhà nước và quá trình nâng cao vai trò chủ 
đạo của thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay 
II.1. Thực trạng phát triển doanh nghiệp nhà nước (thành phần kinh tế Nhà nước 
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 
Trong hơn 10 năm qua, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, 
biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Trong 
bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi phức tạp và nền kinh tế còn nhiều khó khăn gay 
gắt, DNNN đã vượt nhiều thử thách, đứng vững và không ngừng phát triển, góp phần 
quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, đưa 
nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo đinh hướng XHCN. 
Mặc dầu đạt được những kết quả nhất định nhưng hiện nay DNNN đang đứng 
trức thực trạng yếu kém về nhiều mặt, sức cạnh tranh còn quá yếu kém, quy mô quá 
nhỏ, thiếu vốn nghiêm trọng, lãi suất kinh doanh bình quân thấp hơn lãi vay ngân 
hàng, hiệu quả sút kém. 
* Hiệu quả hoạt động kinh doanh 
Những năm 1991 - 1995, tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN là 11,7% 
gấp 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế. Năm 1997 tốc độ tăng 
trưởng của DNNN là 9,67% (nền kinh tế: 8,15%). Tuy nhiên đến năm 1998 tì ngược 
lại thấp hơn. tốc độ tăng trưởng của DNNN là 5,48% trong đó tốc độ tăng trưởng nền 
kinh tế nói chung là 5,80%. 
Mức đóng góp cho ngân sách còn thấp so với nguồn lực bỏ ra, mức nộp của 
từng doanh nghiệp chênh lệch lớn, thậm chí có nhiều DNNN mức nộp ngân sách thấp 
nhiều so với mức được ngân sách hỗ trợ. Ta lấy DNNN của Hà Nội làm ví dụ. Năm 
1997 so với năm 1995 doanh thu của DNNN tăng 12,56% nhưng tổng lãi thực hiện 
bằng 78% của năm 1995, tổng nộp ngân sách bằng 92,76% của năm 1995, trong 3 năm 
(1995 - 1997) mức vốn ngân sách cấp cho doanh nghiệp địa phương tăng 43,64% 
nhưng mức đóng góp của DNNN có lỗ kỹ kế đến 01/01/2000 chiếm 30,8% số doanh 
nghiệp (5.079 tỷ đồng). Ngoài ra, nếu hạch toán đủ chi phí như chi phí khấu hao tài 
sản cố định, nợ khó đòi, vật tư thành phần ứ đọng, kém, mất phẩm chất.. thì số lỗ thật 
còn cao hơn. Số các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ tập trung ở các doanh