Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam,
là một trong những biện pháp quan trọng để tạo ra đột phá tăng trưởng cao, chuyển dịch
cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Xuất khẩu được
đẩy mạnh sẽ góp phần giải quyết công ăn việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ,
kích thích đầu tư, đáp ứng được yêu cầu của CNH, HĐH đất nước. Muốn đẩy mạnh xuất
khẩu thì việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu chủ lực và thị trường nhập khẩu tiềm năng lớn
là hết sức quan trọng.
Thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, trong
hơn một thập kỷ qua kim ngạch xuất khẩu (KNXK) của mặt hàng này đã gia tăng một
mức đáng kể. Năm 1995, KNXK thủy sản mới ở mức 550,5 triệu USD thì đến năm 2005,
KNXK thủy sản đã đạt 2,6 tỷ USD, tỷ lệ bình quân mỗi năm tăng 14,5%. Hiện nay thị
trường xuất khẩu thủy sản (XKTS) của Việt Nam đã được mở rộng tới trên 105 nước và
vùng lãnh thổ trên thế giới. Thủy sản Việt Nam ngày càng có chỗ đứng vững chắc trên thị
trường thế giới và hàng thủy sản của Việt Nam đã thâm nhập được một số thị trường lớn
như Mỹ, Nhật, EU…
Quan hệ thương mại Việt Nam - Mỹ bắt đầu phát triển từ sau khi Mỹ bỏ chính
sách cấm vận đối với nước ta. Hiệp định thương mại Việt Nam - Mỹ (BTA) được ký kết
và có hiệu lực vào ngày 10/12/2001, đã đánh dấu bước đột phá và cơ hội lớn để đẩy
mạnh và mở rộng quan hệ thương mại giữa hai quốc gia, đặc biệt tạo điều kiện cho việc
mở rộng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Thị trường Mỹ là một thị
trường lớn và nhiều tiềm năng, việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa nói chung và hàng
thủy sản nói riêng sang thị trường Mỹ là hết sức cần thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với
tiến trình CNH, HĐH của Việt Nam.
Trong bối cảnh khu vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế đang tác động mạnh mẽ đến
mọi quốc gia, tính chất cạnh tranh về kinh tế giữa các quốc gia ngày càng gay gắt thì hoạt
động xuất khẩu nói chung, xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ nói
riêng vừa có những cơ hội to lớn, đồng thời cũng có những thách thức không nhỏ. Hàng
thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ phải đáp ứng được những quy định rất
khắt khe của thị trường này, mặt khác phải cạnh tranh gay gắt với hàng thủy sản của
những nước khác như Trung Quốc, Thái Lan… Hàng thủy sản Việt Nam không thể thâm
nhập và đứng vững được trên thị trường Mỹ nếu không có năng lực cạnh tranh cao.
Qua các vụ kiện liên quan đến xuất khẩu cá tra, cá ba sa và tôm của Việt Nam ở
Mỹ vừa qua đã xuất hiện nhiều câu hỏi: phải chăng hàng thủy sản Việt Nam có sức cạnh
tranh cao trên thị trường Mỹ nên mới bị các chủ trang trại nuôi trồng thủy sản của Mỹ
kiện Việt Nam bán phá giá? Hàng thủy sản của Việt Nam đã đáp ứng được đầy đủ các
yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) (rào cản kỹ thuật) của thị trường Mỹ
hay chưa? Tại sao thị trường Mỹ rất rộng lớn nhưng hàng thủy sản của Việt Nam rất khó
vào?
Mặc dù đã có khá nhiều nghiên cứu tìm câu trả lời cho các vấn đề trên nhưng cho
tới nay vẫn chủ yếu là các bài viết dưới dạng báo có tính thông tin, ít nghiên cứu có tính
hệ thống. Một số nghiên cứu đã đề cập đến năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt
Nam trên thị trường Mỹ nhưng chưa sâu hoặc thiếu tính cập nhật. Do vậy, việc nghiên
cứu đề tài để làm rõ các cơ sở lý luận, thực tiễn và thực trạng của năng lực cạnh tranh
hàng thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ là rất cần thiết. Đây chính là lý do để tác
giả chọn đề tài " Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ
" làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình.
108 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2297 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam tại thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản
Việt Nam trên thị trường Mỹ
Mở đầu
1. Sự cần thiết của đề tài
Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam,
là một trong những biện pháp quan trọng để tạo ra đột phá tăng trưởng cao, chuyển dịch
cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Xuất khẩu được
đẩy mạnh sẽ góp phần giải quyết công ăn việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ,
kích thích đầu tư, đáp ứng được yêu cầu của CNH, HĐH đất nước. Muốn đẩy mạnh xuất
khẩu thì việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu chủ lực và thị trường nhập khẩu tiềm năng lớn
là hết sức quan trọng.
Thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, trong
hơn một thập kỷ qua kim ngạch xuất khẩu (KNXK) của mặt hàng này đã gia tăng một
mức đáng kể. Năm 1995, KNXK thủy sản mới ở mức 550,5 triệu USD thì đến năm 2005,
KNXK thủy sản đã đạt 2,6 tỷ USD, tỷ lệ bình quân mỗi năm tăng 14,5%. Hiện nay thị
trường xuất khẩu thủy sản (XKTS) của Việt Nam đã được mở rộng tới trên 105 nước và
vùng lãnh thổ trên thế giới. Thủy sản Việt Nam ngày càng có chỗ đứng vững chắc trên thị
trường thế giới và hàng thủy sản của Việt Nam đã thâm nhập được một số thị trường lớn
như Mỹ, Nhật, EU…
Quan hệ thương mại Việt Nam - Mỹ bắt đầu phát triển từ sau khi Mỹ bỏ chính
sách cấm vận đối với nước ta. Hiệp định thương mại Việt Nam - Mỹ (BTA) được ký kết
và có hiệu lực vào ngày 10/12/2001, đã đánh dấu bước đột phá và cơ hội lớn để đẩy
mạnh và mở rộng quan hệ thương mại giữa hai quốc gia, đặc biệt tạo điều kiện cho việc
mở rộng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Thị trường Mỹ là một thị
trường lớn và nhiều tiềm năng, việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa nói chung và hàng
thủy sản nói riêng sang thị trường Mỹ là hết sức cần thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với
tiến trình CNH, HĐH của Việt Nam.
Trong bối cảnh khu vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế đang tác động mạnh mẽ đến
mọi quốc gia, tính chất cạnh tranh về kinh tế giữa các quốc gia ngày càng gay gắt thì hoạt
động xuất khẩu nói chung, xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ nói
riêng vừa có những cơ hội to lớn, đồng thời cũng có những thách thức không nhỏ. Hàng
thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ phải đáp ứng được những quy định rất
khắt khe của thị trường này, mặt khác phải cạnh tranh gay gắt với hàng thủy sản của
những nước khác như Trung Quốc, Thái Lan… Hàng thủy sản Việt Nam không thể thâm
nhập và đứng vững được trên thị trường Mỹ nếu không có năng lực cạnh tranh cao.
Qua các vụ kiện liên quan đến xuất khẩu cá tra, cá ba sa và tôm của Việt Nam ở
Mỹ vừa qua đã xuất hiện nhiều câu hỏi: phải chăng hàng thủy sản Việt Nam có sức cạnh
tranh cao trên thị trường Mỹ nên mới bị các chủ trang trại nuôi trồng thủy sản của Mỹ
kiện Việt Nam bán phá giá? Hàng thủy sản của Việt Nam đã đáp ứng được đầy đủ các
yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) (rào cản kỹ thuật) của thị trường Mỹ
hay chưa? Tại sao thị trường Mỹ rất rộng lớn nhưng hàng thủy sản của Việt Nam rất khó
vào?
Mặc dù đã có khá nhiều nghiên cứu tìm câu trả lời cho các vấn đề trên nhưng cho
tới nay vẫn chủ yếu là các bài viết dưới dạng báo có tính thông tin, ít nghiên cứu có tính
hệ thống. Một số nghiên cứu đã đề cập đến năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt
Nam trên thị trường Mỹ nhưng chưa sâu hoặc thiếu tính cập nhật. Do vậy, việc nghiên
cứu đề tài để làm rõ các cơ sở lý luận, thực tiễn và thực trạng của năng lực cạnh tranh
hàng thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ là rất cần thiết. Đây chính là lý do để tác
giả chọn đề tài " Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ
" làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những chủ đề được nhiều người nghiên cứu ở
nước ta. Các nghiên cứu đã được xuất bản (sách) có một số nội dung liên quan đến đề tài
như: "Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế" (GS. Chu Văn Cấp chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003); "Đổi mới
chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế" (TS. Lê Thị Vân Anh, Nxb Lao động, Hà Nội, 2003); "Chiến lược thâm
nhập thị trường Mỹ", (GS. Võ Thanh Thu, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2003); "Đánh giá tác
động kinh tế của hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ" (Dự án STAR
Việt Nam và Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003).
"Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ" (Đề
tài Bộ Thương mại, năm 2000)... Các nghiên cứu này đã khái quát được khá đầy đủ thực
trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta hiện nay và nêu các giải pháp để nâng
cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, hàng xuất khẩu Việt Nam nói riêng
tới các thị trường trên thế giới, trong đó có thị trường Mỹ. Các nghiên cứu này cũng đã
nêu được các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của quốc gia, công ty và sản
phẩm. Một số tài liệu cũng đã nghiên cứu và đưa ra các giải pháp tổng quát nhằm đẩy
mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, những đánh giá năng lực
cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam nói chung và hàng thủy sản xuất khẩu vào
Mỹ nói riêng, còn khá mờ nhạt.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu đã nêu, cũng có khá nhiều các nghiên cứu
dưới dạng dự án (sản phẩm nghiên cứu chưa được xuất bản), có nội dung liên quan đến
đề tài, trong đó tiêu biểu như: "Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông lâm thủy
sản" (Dự án của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 4/2003); "Nâng cao năng lực
cạnh tranh hàng hóa và dịch vụ Việt Nam" (Đề án của ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế
quốc tế phối hợp với các Bộ/ngành, 10/2001), "Phát triển quan hệ thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ" (Đề tài của Trung tâm tư vấn và đào tạo kinh tế thương mại); "Chương trình
phát triển xuất khẩu thủy sản đến năm 2010 và tầm nhìn 2020" (Dự thảo lần 4 của Ban
chỉ đạo chương trình phát triển XKTS của Bộ Thủy sản, năm 2006). Các nghiên cứu này
đã phân tích khá kỹ và có tính hệ thống về lý thuyết và thực tiễn của thực trạng năng lực
cạnh tranh các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, trong đó đặc biệt là hàng nông, lâm, thủy sản
của Việt Nam hiện nay. Tuy vậy, các nội dung về năng lực cạnh tranh hàng thủy sản của
Việt Nam vào thị trường Mỹ còn ít được đề cập tới.
Ngoài các công trình nghiên cứu có tính học thuật như đã nêu, còn có khá nhiều
các bài báo, thông tin về xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Mỹ, trong đó
phần nhiều là các thông tin liên quan đến các vụ kiện về xuất khẩu cá tra, các basa và tôm
của Việt Nam vào thị trường này.
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu tiêu biểu có nội dung liên quan đến đề
tài cho thấy, việc làm rõ năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường
Mỹ vẫn còn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống và cập nhật. Do đó, luận văn sẽ
tiếp tục thực hiện nhiệm vụ này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích: Làm rõ năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản của Việt Nam trên thị
trường Mỹ, trên có sở đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của
hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường quan trọng này trong thời gian tới.
Nhiệm vụ của đề tài:
+ Hệ thống một số vấn đề lý luận về cạnh tranh, sức cạnh tranh của hàng hóa, các
nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường
Mỹ;
+ Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam
trên thị trường Mỹ;
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng
thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản của Việt Nam
trên thị trường Mỹ.
- Phạm vi nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản của Việt Nam trên
thị trường Mỹ từ giai đoạn hai bên bình thường hóa quan hệ ngoại giao đến nay và đề
xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam vào
thị trường Mỹ đến năm 2010. Do mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu, luận văn
không đi sâu nghiên cứu những vấn đề thuộc về kỹ thuật, nghiệp vụ của ngành thủy sản
mà định hướng nghiên cứu vào các vấn đề có tính vĩ mô.
5. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp nghiên cứu truyền thống được sử dụng trong nghiên cứu
kinh tế, luận văn sẽ sử dụng thêm hai phương pháp phân tích cạnh tranh hiện đại là
SWOT, GAP.
Lợi thế cạnh tranh hàng thủy sản xuất khẩu được phân tích theo từng phương
pháp riêng biệt hoặc kết hợp giữa các phương pháp phân tích cạnh tranh khác nhau.
Phương pháp phân tích SWOT sẽ được áp dụng như là phương pháp cơ bản nhất trong
phân tích cạnh tranh của sản phẩm thủy sản xuất khẩu sang Mỹ. Phương pháp phân tích
này dựa vào thống kê các điểm mạnh, yếu, cơ hội, thách thức trong tất cả các khía cạnh
ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của sản phẩm thủy sản của Việt Nam sang thị trường
Mỹ ở từng thời điểm cụ thể. Các khía cạnh này thuộc về các yếu tố: điều kiện tự nhiên, vị
trí địa lý, nguồn nhân công, số lượng, chất lượng, chủng loại, giá cả, công nghệ chế biến,
bảo quản công tác xúc tiến thương mại, hệ thống phân phối, quan hệ thương mại Việt -
Mỹ, hệ thống cơ sở hạ tầng, hàng rào thuế quan và kỹ thuật của Mỹ...
Phương pháp phân tích GAP là so sánh mức độ cạnh tranh giữa các yếu tố đã nêu
của sản phẩm thủy sản tiêu thụ tại thị trường Mỹ (bao gồm tất cả các nguồn gốc xuất xứ -
trong và ngoài nước Mỹ)… So sánh tất cả các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh giữa các
sản phẩm thủy sản ở Mỹ là việc làm rất khó, do đó chỉ một số yếu tố cơ bản và nguồn cung
cấp chủ yếu được lựa chọn để phân tích so sánh. Các yếu tố này thường bao gồm các chỉ số
quan trọng là thị phần xuất khẩu, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu, điều kiện sản xuất chế
biến, phân phối sản phẩm, giá cả... Các nước được lựa chọn là Mỹ, Thái Lan, Trung Quốc.
Mỗi phương pháp phân tích có ưu điểm và hạn chế riêng, bởi vậy việc kết hợp
giữa các phương pháp phân tích đã nêu sẽ mang lại đánh giá chính xác hơn về lợi thế
cạnh tranh của hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống được cơ sở lý luận và thực tiễn của năng lực cạnh tranh hàng thủy sản
của Việt Nam vào thị trường Mỹ.
- Làm rõ thực trạng năng lực cạnh tranh hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường
Mỹ.
- Đưa ra được một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng
thủy sản của Việt Nam trên thị trường Mỹ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của phân tích năng lực cạnh tranh hàng
thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị
trường Mỹ.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt
Nam trên thị trường Mỹ.
Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn của phân tích năng lực cạnh tranh hàng thủy sản Việt Nam
trên thị trường Mỹ
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của hàng hóa
1.1.1.1. Khái niệm, vai trò của cạnh tranh
Khái niệm về cạnh tranh: ở mỗi thời kỳ lịch sử có quan niệm khác nhau về
khái niệm, phạm vi và các cấp độ của cạnh tranh. Từ lâu, lý luận về cạnh tranh đã được
nhiều nhà kinh tế nổi tiếng trên thế giới nghiên cứu. Adam Smith được coi là người có
công đầu trong việc đưa ra lý luận cạnh tranh một cách có hệ thống. Theo ông, thuộc tính
cơ bản của kinh tế thị trường là tự do cạnh tranh, không có cạnh tranh thì không có kinh
tế thị trường đích thực. Cạnh tranh được thực hiện thông qua thị trường và giá cả. Trong
tự do cạnh tranh các cá nhân phải ganh đua, thậm chí chèn ép nhau để đạt được mục đích
của mình và điều đó buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm việc của mình một cách chính
xác. Cạnh tranh khơi dậy sự nỗ lực chủ quan của con người trong sản xuất ra hàng hóa,
tìm kiếm lợi nhuận, từ đó làm tăng của cải cho nền kinh tế quốc dân.
Các Mác không xây dựng lý luận riêng về cạnh tranh trong các nghiên cứu của
ông, nhưng lý luận về cạnh tranh cũng được ông đề cập đến nhiều khi nghiên cứu về lý
luận giá trị, lý luận về tư bản và giá trị thặng dư. Theo C. Mác, điều kiện dẫn đến sự ra đời
và tồn tại của cạnh tranh là phân công lao động xã hội và quyền sở hữu độc lập của chủ
thể. Phân công lao động xã hội theo nghĩa rộng tức là sự phân công lao động xã hội trong
một đơn vị kinh tế, giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành trong một nền kinh tế quốc
dân và giữa các nền kinh tế trong khu vực hay phạm vi thế giới. Trong nền kinh tế thị
trường, các chủ thể có quyền sở hữu độc lập đều theo đuổi lợi ích kinh tế riêng và chính
điều đó tạo nên động lực của cạnh tranh. Cạnh tranh có khả năng điều tiết sự phân phối tư
bản và các nguồn lực xã hội giữa các ngành sản xuất khác nhau. Cạnh tranh làm thúc đẩy
sự phát triển của kỹ thuật sản xuất, làm thay đổi kết cấu tổ chức kinh tế và thúc đẩy sự
tăng trưởng của nền kinh tế xã hội. Cạnh tranh diễn ra dưới ba hình thức: Một là, cạnh
tranh giữa các nhà tư bản nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch, ở hình thức này các nhà
tư bản cạnh tranh trực tiếp với nhau thông qua hạ giá thành bằng cách đua nhau áp dụng
công nghệ tiến bộ, kỹ thuật mới để nâng cao năng suất lao động cá biệt và hạ thấp chi phí
cá biệt của từng doanh nghiệp; hai là, cạnh tranh giữa các nhà tư bản với nhau để hút
được một số lượng người tiêu dùng lớn về phía mình, áp lực cạnh tranh buộc họ phải
thường xuyên nâng cao chất lượng của hàng hóa thông qua việc nâng cao giá trị sử dụng,
cải thiện độ bền, tính năng, tác dụng của sản phẩm hàng hóa; ba là, cạnh tranh giữa các
ngành nhằm phân chia nhau giá trị thặng dư, đây là hình thức có tác dụng nhằm gia tăng
tính lưu động của tư bản, làm cho các năng lực tư bản trong xã hội có thể điều tiết một
cách linh hoạt vào các ngành sản xuất khác nhau.
Như vậy, theo C.Mác cạnh tranh kinh tế là hệ quả tất yếu của nền sản xuất hàng
hóa, là sự đối chọi của những người sản xuất hàng hóa dựa trên cơ sở thực lực kinh tế của
họ.
Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đề cập đến cạnh tranh ở những khía cạnh khác
nhau. Theo Michael E. Porter:
Cạnh tranh là tăng trưởng bền vững của GDP và được quyết định bởi
hiệu quả sử dụng các yếu tố vốn, lao động, các nguồn lực tự nhiên, nhờ đó cải
thiện được điều kiện sống của mọi người dân trong xã hội. ở phạm vi ngành,
theo Markusen, một ngành công nghiệp là cạnh tranh nếu nó có một mức chi
phí đơn vị bằng hoặc thấp hơn mức chi phí so với các ngành tương tự trên
phạm vi toàn cầu. Theo E. Siggel và J. Cocburn, ở phạm vi doanh nghiệp thì
cạnh tranh được quan niệm là việc cung ứng hàng hóa hoặc dịch vụ chất lượng
tốt với giá rẻ [18, tr. 7].
Các khái niệm, định nghĩa khác về khả năng cạnh tranh của ngành, của doanh
nghiệp đều đề cập khả năng bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận cao, phát triển bền vững và
được đo bằng tỷ trọng thị phần của sản phẩm hoặc dịch vụ trên thị trường.
ở Việt Nam, đề cập đến "cạnh tranh" một số nhà khoa học cho rằng, cạnh tranh là
vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa - dịch vụ (mua và bán) Mục đích trực tiếp của
hoạt động cạnh tranh trên thị trường của các chủ thể kinh tế là giành lợi thế để hạ thấp giá
cả của các yếu tố "đầu vào" trong chu trình sản xuất - kinh doanh và nâng cao giá "đầu
ra", sao cho giành được mức lợi nhuận cao nhất với mức chi phí hợp lý nhất. Như vậy,
trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối
ưu và do đó nó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác,
đồng thời với tối đa hóa lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh cũng là yếu tố
thúc đẩy quá trình tích lũy và tập trung tư bản không đồng đều ở các doanh nghiệp. Cạnh
tranh còn là môi trường phát triển mạnh mẽ cho các chủ thể kinh doanh thích nghi được
với các điều kiện thị trường, đào thải các doanh nghiệp ít khả năng thích ứng, dẫn đến
quá trình tập trung hóa trong từng ngành, vùng, quốc gia...
Có thể khái quát định nghĩa về cạnh tranh như sau:
Cạnh tranh là một quá trình tranh đấu mà trong đó, các chủ thể kinh tế
ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp (kể cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn kinh doanh)
để đạt được mục tiêu kinh tế chủ yếu của mình) như: chiếm lĩnh thị trường,
giành lấy khách hàng, cũng như đảm bảo tiêu thụ hàng hóa có lợi nhất, nhằm
nâng cao vị thế của mình. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong
quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích: đối với người kinh doanh là lợi
nhuận, còn đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng [44, tr. 7]
Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế: Trên bình diện nền kinh tế quốc gia,
cạnh tranh có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần phân bổ nguồn lực hiệu quả
nhất thông qua việc kích thích các doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực tối ưu, góp phần
phân phối lại thu nhập một cách hiệu quả hơn và đồng thời góp phần nâng cao phúc lợi
xã hội.
Trên bình diện doanh nghiệp, bằng sự hấp dẫn của lợi nhuận từ việc đi đầu về
chất lượng, mẫu mã cũng như áp lực phá sản, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải
luôn cải tiến, nâng cao công nghệ, phương pháp sản xuất, quản lý nhằm nâng cao uy tín
của mình. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải mở rộng, tìm kiếm thị trường với mục
đích tiêu thụ, đầu tư huy động nguồn vốn, lao động, công nghệ, trình độ quản lý trên thị
trường quốc tế. Thông qua cạnh tranh quốc tế, các doanh nghiệp thấy được lợi thế so
sánh, cũng như các điểm yếu kém của mình để hoàn thiện, xây dựng các chiến lược kinh
doanh trên thị trường quốc tế. Dưới góc độ lợi ích người tiêu dùng, cạnh tranh giúp cho
người tiêu dùng có được sự lựa chọn rộng rãi hơn, buộc người sản xuất không thể áp đặt
giá cả tùy tiện. Với khía cạnh đó, cạnh tranh là yếu tố điều tiết thị trường, giá cả, quan hệ
cung cầu.
Kinh tế thị trường là tiền đề cơ bản của cạnh tranh bởi một số đặc trưng cơ bản
của nó. Các quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế thị trường (KTTT) như quy luật cạnh tranh,
quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật giá cả tạo điều kiện để cạnh tranh hình thành,
vận hành và phát triển. Trong nền KTTT tồn tại nhiều thành phần kinh tế với các hình
thức sở hữu khác nhau cùng hoạt động sản xuất kinh doanh. Các chủ thể kinh tế với khả
năng về vốn, lao động, công nghệ, trình độ quản lý khác nhau đều có mục đích tiến tới tối
đa hóa lợi ích. Do vậy, để tối đa hóa lợi nhuận và không bị đào thải buộc các chủ thể kinh
tế chỉ có cách duy nhất là cạnh tranh.
Cạnh tranh trong cơ chế thị trường tự do ở nhiều trường hợp chưa thực sự vận
hành hiệu quả, thậm chí có thể bị tắc nghẽn do những thất bại của thị trường. Do vậy,
phải có sự can thiệp hợp lý của Nhà nước để đảm bảo cơ chế cạnh tranh vận hành một
cách hiệu quả, giảm thiểu thất bại của thị trường. Điều cốt lõi là Nhà nước phải thực hiện,
xây dựng chính sách cạnh tranh hiệu quả, môi trường cạnh tranh, bình đẳng, lành mạnh
nhằm tránh thất bại của thị trường gây tổn hại đến năng lực cạnh tranh doanh nghiệp nói
riêng và nền kinh tế nói chung.
1.1.1.2. Phân loại các loại hình cạnh tranh
Trong nền KTTT, đứng từ các góc độ khác nhau để xem xét, các nhà nghiên cứu
đã chia thành các loại cạnh tranh:
Xét theo chủ thể cạnh tranh có cạnh tranh giữa những người sản xuất với nhau,
cạnh tranh giữa những người bán với nhau; cạnh tranh giữa những người mua với nhau;
cạnh tranh giữa người bán và người mua.
Xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể thì có cạnh tranh trong nội bộ ngành và
cạnh tranh giữa các ngành mà các nhà kinh tế học chia thành hai hình thức là: "cạnh tranh
dọc" và "cạ