Trong các xã hội hiện đại, Nhà nước luôn có chức năng nhiệm vụ nhiều mặt như
chức năng quản lý hành chính, chức năng kinh tế, chức năng trấn át và các nhiệm vụ
chính trị, nhiệm vụ xã hội. Để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ đó thì Nhà nước
cần phải có một lượng của cải nhất định, đó chính là cơ sở vật chất cho Nhà nước tồn
tại và hoạt động; đó chính là Ngân sách Nhà nước(NSNN). Vì vậy, nhận thức đúng
đắn và đầy đủ bản chất, chức năng cũng như vai trò của NSNN sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của Nhà nước.
Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, từ cơ chế tập trung bao cấp
sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước kéo theo sự đổi mới căn bản trong
hoạt động tài chính nói chung, và hoạt động thu chi NSNN nói riêng. Vì thế, xây dựng
nền tài chính tự chủ, vững mạnh là yêu cầu cơ bản và cấp bách trong giai đoạn công
nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, trong đó NSNN giữ vai trò chủ đạo trong
nền tài chính quốc gia.
40 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2408 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngân sách Nhà nước trong hệ thống tài chính trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Ngân sách Nhà nước trong hệ thống tài
chính trong quá trình chuyển đổi cơ
chế kinh tế ở nước ta
Phần I: Phần mở đầu.
I. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong các xã hội hiện đại, Nhà nước luôn có chức năng nhiệm vụ nhiều mặt như
chức năng quản lý hành chính, chức năng kinh tế, chức năng trấn át và các nhiệm vụ
chính trị, nhiệm vụ xã hội. Để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ đó thì Nhà nước
cần phải có một lượng của cải nhất định, đó chính là cơ sở vật chất cho Nhà nước tồn
tại và hoạt động; đó chính là Ngân sách Nhà nước(NSNN). Vì vậy, nhận thức đúng
đắn và đầy đủ bản chất, chức năng cũng như vai trò của NSNN sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của Nhà nước.
Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, từ cơ chế tập trung bao cấp
sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước kéo theo sự đổi mới căn bản trong
hoạt động tài chính nói chung, và hoạt động thu chi NSNN nói riêng. Vì thế, xây dựng
nền tài chính tự chủ, vững mạnh là yêu cầu cơ bản và cấp bách trong giai đoạn công
nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, trong đó NSNN giữ vai trò chủ đạo trong
nền tài chính quốc gia.
II. Lí do chọn đề tài:
Chính sách tài chính với các công cụ của nó, trong đó có Ngân sách Nhà nước có vai
trò quan trọng trong bảo đảm cơ sở để thực hiện thành công chiến lược phát triên kinh
tế với tốc độ nhanh và bền vững trong điều kiện chủ đông hôi nhập và an toàn. Việc
tiếp tục đổi mới và hoàn thiện NSNN có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình đổi mới
nền kinh tế. Vói ý nghĩa đó trong bài viết vày tôi xin đề cập một số vấn đề cơ bản về
"Ngân sách Nhà nước trong hệ thống tài chính trong quá trình chuyển đổi cơ chế
kinh tế ở nước ta". Bài viết gồm 02 phần :
A. Bản chất và vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
B. Ngân sách Nhà nước trong quá trình chuyển đổi kinh tế ở nước ta.
Phần II: Phần nội dung.
A. Bản chất và vai trò của Ngân sách Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
I. Bản chất của Ngân sách Nhà nước:
1. Ngân sách Nhà nước với tư cách là một phạm trù kinh tế:
1.1. Khái niệm ngân sách Nhà nước:
Ngân sách Nhà nước là khâu tài chính được hình thành sớm nhất, nó ra đời, tồn tại
và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ thống quản lí Nhà nước và sự phát triển của
kinh tế hàng hoá, tiền tệ.
Thuật ngữ ngân sách bắt nguồn từ tiếng Anh "Budget" có nghĩa là cái ví, cái xắc.
Tuy nhiên, trong đời sống kinh tế, thuật ngữ này đã thoat ly ý nghĩa ban đầu và mang
nội dung hoàn toàn mới. Cho đến nay, thuật ngữ "ngân sách Nhà nước" được sử dụng
rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Song, quan niệm về ngân sách
Nhà nước thì lại chưa thống nhất. Trên thực tế, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa vè
ngân sách Nhà nước không giống nhau tuỳ theo quan điểm của người định nghĩa thuộc
các trường phái kinh tế khác nhau, hoặc tuỳ theo mục đích nghiên cứu khác nhau.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế cổ điển, ngân sách Nhà nước là một văn kiện tài
chính, mô tả các khoản thu và chi của chính phủ, được thiết lập hàng năm.
Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về ngân sách
Nhà nước. Các nhà kinh tes Nga cho rằng: Ngân sách Nhà nước là bảng liệt kê các
khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của Nhà nước.
Luật Ngân sách Nhà nước đã được nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá
IX, kì họp thứ 9 thông qua ngày 20-3-1996 cũng có ghi: Ngân sách Nhà nước là toàn
bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức
năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Chúng ta không xem xét các điểm khác biệt giữa các định nghĩa này mà tìm ra điểm
chung để thấy được một số điểm đặc trưng của ngân sách Nhà nước như sau:
Thứ nhất, ngan sách Nhà nước là một bảng liệt kê, trong đó dự kiến và cho phép
thực hiện các khoản thu chi bằng tiền của chủ thể kinh tế Nhà nước.
Thứ hai, ngân sách Nhà nước tồn tại trong một khoản thời gian nhất định thường là
một năm.
Song điểm khác biệt của các khoản thu chi ngân sách Nhà nước không giống như
các khoản thu chi của ngân sách doanh nhiệp, gia đình, cá nhân. . . Thu chi ngân sách
Nhà nước có tính chất bắt buộc, luôn được thực hiện bằng pháp luật và do luật quy
định ( về thu có các luật về thuế và các văn bản luật khác, về chi có các tiêu chuẩn
định mức ).
1.2. Bản chất ngân sách Nhà nước:
Về bản chất kinh tế:
Mọi hoạt động của ngân sách Nhà nước đều là hoạt động phân phối các nguồng tài
nguyên quốc gia ( phân phối lần đầu và tái phân phối ). Và vì vậy, về nội dung kinh tế
ngân sách Nhà nước thể hiện các mối quan hệ kinh tế trong phân phối. Đó là hệ thống
các quan hệ kinh tế giữa một bên là Nhà nước với một bên là các tổ chức kinh tế, xã
hội.
Ngân sách Nhà nước thực hiện các hoạt động phân phối thông qua các khoản đóng
góp theo nghĩa vụ hoặc tự nguyện của mỗi thành viên dưới các hình thức như thuế, phí
. . . ; hình thành nên quỹ ngân sách Nhà nước sau đó tái phân phối các khoản thu nay
thông qua các khoản cấp phát của Nhà nước cho các nhu cầu tiêu dùng, đầu tư phát
triển kinh tế.
Trong quá trình phân phối, vấn đề cần giải quyết giữa các đối tượng tham gia ( các
chủ thể kinh tế ) chính là vấn đề lợi ích kinh tế. Vì vậy, quan hệ giữa ngân sách Nhà
nước và các thành viên trong xã hội cũng chính là quan hệ kinh tế. Việc phân phối các
nguồn tài chính để hình thành nguồn thu của Nhà nước, dù thực hiện dưới hình thức
nào thực chất cũng chính là quá trình giải quyết quyền lợi kinh tế giữa Nhà nước và
các thành viên trong xã hội với kết quả là các nguồn tài chính được phân chia thành
hai phần: phần nộp vào ngân sách Nhà nước và phần để lại cho các thành viên của xã
hội. Tới lượt mình, phần đã nôp vào ngân sách Nhà nước sẽ tiếp tục được phân phối
lại, thể hiện qua các khoản cấp phát từ ngân sách Nhà nước cho các mục đích tiêu
dùng và đầu tư.
Với quyền lực tối cao Nhà nước có thể sử dụng các công cụ sẵn có ( kinh tế, hành
chính, vũ lực ) để bắt buộc các thành viên trong xã hội cung cấp cho mình các nguồn
tài chính cần thiết. Song, trên thực tế , quyền lực đó phải có giới hạn và giới hạn hợp
lý nhất chính là giải quyết hài hoà ích lợi kinh tế giữa nhà nước và xã hội.Khi tham gia
vào hoạt đọng tái phân phối này của ngân sách Nhà nước, mọi thành viên trong xã hội
đều có lợi; và mục tiêu kinh tế của ngân sách Nhà nước cũng là đem lại phúc lợi lớn
hơn cho các thành viên.
Tóm lại, ngân sách Nhà nước là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã
hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính
nhămg bảo đảm yêu cầu thực hiện các chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế xã
hội của mình.
Về phương diện pháp lý:
Ngân sách Nhà nước là một đạo luật dự trù các khoản thu, chi bằng tièn của Nhà
nước trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Đạo luật này được cơ quan lập
pháp của quốc gia đó ban hành.
Hoạt động của ngân sách Nhà nước không hề mang tính chất tự phát hoặc nằm ngoìa
sự kiểm soát của Nhà nước, mà luôn bị ràng buộc bởi những quy định bên trong hết
sức chặt chẽ, cụ thể. Các khoản thu ngân sách Nhà nước phàn lớn đều mang tính chất
cưỡng bức ( bắt buộc ), còn các khoản chi lại mang tính chất cấp phát ( không hoàn lại
trực tiếp ). Nội dung này xuất phát từ quyền lực của Nhà nước và nhu cầu về tài chính
để thực hiện các chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế xã hội.
Bất kỳ một Nhà nước nào cũng đều có quyền lập pháp. Do nhu cầu chi tiêu của
mình, Nhà nước đã sử dụng quyền để quy định hệ thống pháp luật tài chính và thuế
khoá, nắt mọi cá nhân và pháp nhân phải nộp một phần thu nhập của mình chi Nhà
nước với tư cách một chủ thẻ kinh tế thực hiện nghiã vụ với Nhà nước. Tính chất
cưỡng bức của các khoản thu ngân sách không hề mang ý nghĩa tiêu cực, bởi lẽ đây là
sự cần thiết. Mọi đối tượng nộp thuế đều ý thức được nghĩa vụ của mình trong việc
đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Nhà nước và quốc gia. Đồng thời, họ cũng ý thức
được vai trò quan trọng của Nhà nước trong quá trình sử dụng các nguồn tài chính
nhằm thực hiện các chức năng về kinh tế xã hội đã được giao phó.
Về tính chất xã hội:
Ngân sách Nhà nước luôn luôn là một công cụ kinh tế của Nhà nước, nhằm phục vụ
cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước gắn liền với các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước; đồng
thời là phương tiện vật chát cần thiết để hệ thông chính quyền Nhà nước thực hiện
được nhiệm vụ của mình.
2. Ngân sách Nhà nước với tư cách là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tài
chính quốc gia:
Hệ thống tài chính là tổng thể của các bộ phận khác nhau trong một cơ cấu tài chính,
mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau nhưng có mối
liên hệ tác động lẫn nhau theo những quy định nhất định. Các bộ phận trong hệ thống
tài chính hoạt động trên các lĩnh vực:
+ Tạo ra các nguồn lực tài chính.
+ Thu hút các nguồn tài chính.
+ Chu chuyển các nguồn tài chính ( dẫn vốn ).
Vai trò chung của hệ thống tài chính là bảo đảm nhu cầu về vốn cho phát triển kinh
tế-xã hội.
Cấu trúc của hệ thống tài chính bao gồm các tụ điểm vốn và các bộ phận dẫn vốn
được thể hiện theo sơ đồ. Trong đó :
+ Các tụ điểm vốn là bộ phận mà ở đó các nguồn tài chính được tạo ra, đồng thời
cũng là nơi thu hút trở lại các nguồn vốn tuy nhiên ở mức độ và phạm vi khác nhau.
Bao gồm:
Ngân sách Nhà nước.
Tài chính doanh nghiệp.
Tài chính dân cư và các tổ chức xã hội.
Tài chính đối ngoại.
+ Các bô phân dẫn vốn thực hiện chức năng truyền dẫn vốn giữa các tụ điểm vốn
trong hệ thống tài chính. Bao gồm :
Thị trường tài chính.
Các tổ chức trung gian tài chính.
Tài chính
doanh
nghiệp
Ngân sách
Nhà nước.
Tài chính dân
cư và các tổ
chức xã hội.
Tài chính đối
ngoại.
Trong đó , ngân sách Nhà nước là bộ phận được đánh giá là có vai trò đặc biệt quan
trọng trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội.
Thứ nhất, với một nguồn thu ổn định hàng năm thông qua thuế, tiếp nhận viện trợ
hoặc vay vốn nước ngoài, có thể nói tiềm lực kinh tế của ngân sách Nhà nước là rất
lớn. Việc cấp phát vốn ngan sách Nhà nước cho các bộ phận khác nhau của hệ thống
tài chính sẽ làm tăng nguồn vốn ở các tụ điểm nhận vốn, tăng khả năng đầu tư và phát
triển kinh tế của các bộ phận này.
Thứ hai, ngân sách Nhà nước là phương tiện vật chất cần thiết và quan trọng để hệ
thống chính quyền Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của mình, Nếu như
mục tiêu theo đuổi của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, của các hộ dân cư là
tối đa hoá lợi ích thì chính phủ lại mong muốn tối đa hoá phúc lợi xã hội . Chính điều
này đã tạo nen vai trò quan trọng của ngân sách Nhà nước khong chỉ trong lĩnh vực
kinh tế mà còn trong các lĩnh vực xã hội khác. Trong điều kiện kinh tế thị trường, ngân
sách Nhà nước có vai trò to lớn trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội sao cho
mang lại phúc lợi lớn nhất cho mọi người. Thông qua các hoạt động thu chi của mình,
Thị trường tài chính
và
các tổ chức tài chính
trung gian.
ngân sách Nhà nước đã điều tiết lợi ích giữa các tầng lớp dân cư, định hướng và thúc
đẩy phát triển kinh tế.
II. Vai trò của ngân sách Nhà nước:
Vai trò tất yếu của ngân sách Nhà nước ở mọi thời đại và trong mọi mô hình kinh tế,
là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội. Vai trò này, về mặt chi tiết có thẻ đề
cập ở nhiều nội dung và những biểu hiện đa dạng rất khác nhau, song trên góc độ tổng
hợp, có thể khái quát trên ba khía cạnh sau:
1.Vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế nhằm kích thích sự tăng trưởng kinh tế:
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cùng với việc Nhà nước can thiệp trực tiếp vào
hoạt động sản xuất kinh doanh, vai trò của ngân sách Nhà nước trong việc điều chỉnh
các hoạt động trở nên hết sức thụ động. Ngân sách Nhà nước gần như chỉ là một cái túi
đựng sổ thu để rồi thực hiện việc bao cấp tràn lan cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh thông qua cấp vốn cố định, vốn lưu động, cấp bù lỗ, bù giá, bù lương. Trong
điều kiện đó, hiệu quả của các khoản thu, chi ngân sách Nhà nước không được coi
trọng là tất yếu, tác động của ngân sách Nhà nước đến các hoạt động kinh tế nhằm
điều chỉnh các hoạt động đó và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế là hết sưc hạn chế.
Chuyển sang cơ chế thị trường, trong lĩnh vưc kinh tế, Nhà nước định hướng việc
hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc
quyền. Điều dó được thực hiện thông qua các chính sách thuế và chính sách chi tiêu
của ngân sách Nhà nước để vừa kích thích vừa gây sưc ép với các doanh nghiệp, nhằm
kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Với các ngành kinh tế ưu tiên phát triển, Nhà nước
có thể tạo điều kiện bằng cấchps dụng một chính sách thuế thu nhập công ty hợp lý.
Với các ngành kinh tế còn non trẻ, Nhà nước thực hiện bảo hộ sản xuất trong nước
bằng hàng rào thuế nhập khẩu để tao điều kiện cho các doanh nghiệp có thời gian cải
tiến, nâng cao trình độ tránh bị lấn át bởi hàng nhập khảu nước ngoài. Với nguồn lực
kinh tế to lớn, Nhà nước sẽ đầu tư vào những vùng kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng
xa, những vùng mà nếu chờ sự đầu tư của tư nhân thì sẽ rát khó khai thác. Xây dựng
cơ sở hạ tầng, đầu tư phát triển, định hướng sản xuất ở các vùng khác nhau phục vụ
cho chiến lược phát triển kinh tế chung của đất nước.
Ngân sách Nhà nứoc đóng một vai trò quan trọng trong việc phân bổ nguồn lực trong
xã hội. Trong một nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các nguồn lực
trong nền kinh tế được phân bổ bởi tác động của hai cơ chế: Cơ chế thị trường và cơ
chế điều tiết của Nhà nước. Việc phân bổ nguồn lực dưới tác động của cơ chế thị
trườngthông qua sự vận động của các quy luật kinh tế thị trường và các công cụ kinh
tế thị trường như giá cả, lãi suất. . . Nói chung, việc phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị
truờng là việc phân bổ mang tính kinh tế thường đạt được hiệu quả ở tầm vĩ mô. Tuy
nhiên, xét ở tầm vi mô không phải lúc nào việc phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị
trường đều đạt được hiẹu quả như mong muốn, thâm chí có thể làm lãng phí nguồn lực
xã hội. Để khắc phục những mặt hạn chế của việc phân bổ nguồn lực do cơ ché thị
trường tạo ra cần có sự can thiệp cảu nhà nước ở những mức độ nhất định. Khác với sự
can thiệp của Nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch hoa tập trung, sự can thiệp của Nhà
nước vào việc phân bổ nguồn lực trong nề kinh tế thị trường là sự can thiệp mang tính
gián tiếp bằng việc sử dụng các công cụ kinh tế tài chính là chủ yếu. Một trong những
công cụ đó là ngân sách Nhà nước. Thông qua các biện pháp thu chi ngân sách Nhà
nước, Nhà nước thực hiện việc bổ sung phân bổ nguồn lực củaơn chế thị trường ở
nhũng lĩnh vực mà việc phân bổ theo cơ chế thị trường tỏ ra không hiệu quả hoặc
không thể thực hiện được.
2.Vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã hội:
Trong thời kì kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tính chất bao cấp tràn lan trong mọi
lĩnh vực kinh tế xã hội đã hạn chế đáng kể vai trò của ngân sách Nhà nước trong việc
giải quyết các vấn đè xã hội. Trong thời kì này, mọi sự ưu tiên, ưu đãi của Nhà nước
đều dành cho khu vực Nhà nước. Những chế độ bao cấp về nhà ở, cung cấp lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùngvới giá thấp. . . đã gây tâm lý sùng bái biên chế Nhà
nước, tâm lý trông chờ, ỷ lạivà Nhà nước. Điều đó một phần làm giảm hiệu quả công
tác, hiệu quả tiển vốn, mặt khác vừa tác động ngược chiều tới việc đảm bảo công bằng
xã hội. Bên cạnh đó, sự bao cấp tràn lan cho các hạt động có tích chất xã hội, song lại
thiếu sự tính toán hợp lý về phạm vi, mức độ và hiệu quả của nó cũng dẫn tới những
hạn chế trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội.
Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, sự tồn tại và hoạt động có hiệu quả của bộ
máy Nhà nước, lực lượng quân đội, công an, sự phát triển các hoạt động xã hội, y tế,
văn hoá có ý nghĩa quyết định. Việc thực hiện các nhiệm vụ này, về cơ bản, thuộc về
nhà nước và không chỉ vì mục tiêu lợi nhuận. Việc sử dụng những dịch vụ kể trên
được phân chia giữa những người tiêu dùng, nhưng nguồn tài trợ để thực hiện các
nhiệm vụ đó lại được cấp phát từ ngân sách Nhà nước. Như vậy, trong việc thực hiện
các nhiệm vụ có tính chất chung toàn xã hội, ngân sách Nhà nước có vai trò quang
trọng hàng đầu. Bên cạnh đó, cùng với việc thực hiện các nhiệm vụ có tính chất chung
toàn xã hội, hàng năm chính phủ vẫn đực biệt quan tâm đến tầng lớp dân cư có thu
nhập thấp. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó thông qua các loại trợ giúp trực tiếp
được giành cho những người có thu nhập thấp hoặc co hoàn cảnh khó khăn như chi về
trợ cấp xã hội; các loại trợ giúp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết
yếu ( lương thực, điện, nước . . . ), các khoản chi phí để thực hiện các chính sách dân
số, chính sách việc làm, các chương trình quốc gialớn về chống mù chữ, chống dịch
bệnh, các chi phí cho việc cung cấp các hàng hoá khuyến dụng, hàng hoá công cộng. .
.
Bên cạnh các khonả chi ngân sách cho việc thực hiện các vấn đề xã hội, thuế cũng
được sử dụng để thực hiện vai trò tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
Việc kết hợp giữa thuế trực thu và thuế gián thu, một mặt vừ tăng cường các khoản thu
cho ngân sách Nhà nước, mặt khác vừa nhằm điều tiết thu nhập của tầng lớp có thu
nhập cao, điều tiết tiêu dùng, bảo đảm thu nhập hợp lý giữa các tầng lớp người lao
động. Như vậy ngân sách Nhà nước còn có chức năng tái phân phối thu nhập. Cũng
như việc phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trườngcó sự quản lý của Nhà nước,
việc phân phối thu nhập cũng được thực hiện bởi hai cơ ché là cơ chế thị trường và cơ
chế của Nhà nước. Phân phối thu nhập theo cơ chế thị trường người a thường gọi là
việc phân phối mang tính kinh tế. Nghĩa là việc phân phối chủ yếu dựa vào khả năng
cung cấp các yếu tố đầu vào cua các chủ thể trong nền kinh tế như lao động, tiền vốn,
khoa học công nghệ . . . Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan không phải
mọi thành viên trong xã hội đều có khả năng các yếu tố đầu vào như nhau, nên cũng
không có được cơ hội được hưởng thu nhập như nhau, tạo ra những hố ngăn cách giàu
nghèo càng lớn. Khi hố ngăn cách giàu nghèo càng sâu có thể dẫn đến nhũng bất lợi
cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, thậm chí có thể dẫn đến xung đột
chính trị làm mất ổn định quốc gia. Chính vì vậy, trong quá trình phát triển quốc gia,
Chính phủ của các nước đều quan tâm đến vấn đề tía phân phối thu nhập, mục đích là
hạn chế bớt sự ngăn cách giàu nghèo làm cho nguồn thu nhập của xã hội được sử dụng
hiệu quả hơn.
3. Vai trò điều tiết trong lĩnh vực thị trường góp phần ổn định thị trường giá cả ,
chống lạm phát:
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, sự đơn điệu về chế độ sở hữu với hai hình thức
quốc doanh và tập thể đã dẫn đến sự phát triẻn yếu ớt của các quan hệ thị trường. Bên
cạnh đó, cơ chế kinh tế chỉ huy ( bằng các mệnh lệnh hành chính ) với việc Nhà nước
quyết định gia cả của các hàng hoá và dịch vụ, chỉ định nơi cung cấp vật tư, tiêu thụ
sản phẩm. . . cũng đã làm các quan hệ thị truờng kém phát triển. Trong cơ chế đó, sự
vậm động của gia cả, chi phí thoát ly khỏi quan hệ cung cầu, của thị truờng, sự biến
động ấy được che đậy bởi sự bao cấp của Nhà nước. Trong điều kiện đó, vai trò của
ngân sách Nhà nước đối với các quan hệ thị truờng là điều tất yếu.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, giá cả chủ yếu dựa vào quan hệ cung cầu
hàng hoá trên thị trường. Do đó để ổn định giá cả, chính phủ có thể tác động vào cung
hoặc cầu hàng hoá trên thị trường. Sự tác động này không chỉ được thực hiên thôn