Dân tộc Việt Nam có một kho tàng ca dao vô cùng phong phú, đa dạng. 
Ca dao là một bộ phận của văn học dân gian. Là dòng sữa ngọt nuôi dưỡng tâm 
hồn Việt Nam qua bao thế  hệ. Từ  cái thủa vẫn còn nằm nôi, chúng ta đã được 
nghe những làn điệu dân ca ngọt ngào đằm thắm qua lời ru của bà, của mẹ. Có 
thể  nói ca dao có một sức lôi cuốn hết sức mạnh mẽ  đối với con người Việt 
Nam, bởi nó rất gần gũi với suy nghĩ, tâm hồn của nhân dân, gần với lời ăn 
tiếng nói hàng ngày của người lao động. Trong kho tàng văn học dân gian, ca 
dao trữ tình người Việt là nơi thể hiện rõ nhất "điệu tâm hồn dân tộc" (Tố Hữu), 
bởi cảm hứng cội nguồn, chức năng chủ  đạo và nội dung căn bản của ca dao là 
sự  phô diễn trực tiếp thế  giới tâm hồn của con người, biểu đạt những tình cảm, 
cảm xúc đa dạng của nhân dân. Do đó một trong những nét chủ  đạo của ca dao 
truyền thống là sự  thể  hiện hết sức phong phú tư tưởng tình cảm của con người 
nói chung, người phụ  nữ  nói riêng. Ca dao viết về  người phụ  nữ  là một vấn đề
hết sức hấp dẫn và lôi cuốn, bởi qua đó phần nào ta hiểu được đời sống tâm hồn, 
tình cảm của họ trong xã hội xưa và nay.
Ca dao viết về  người phụ  nữ, từ  trước cho tới nay, đã có nhiều nhà 
nghiên cứu quan tâm và có những bài viết có giá trị  đặc sắc. Tuy nhiên các nhà 
nghiên cứu mới chỉ  tập trung vào phản ánh từng khía cạnh,  yếu tố  riêng lẻ  về
hình  ảnh người phụ  nữ  trong ca dao và hầu như mới chỉ  tập trung làm rõ nỗi 
khổ của thân phận người phụ nữ trong xã hội xư
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 119 trang
119 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2861 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghệ thuật tiểu thuyết của ma văn kháng thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM 
---------    --------- 
DƢƠNG THỊ HỒNG LIÊN 
NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT 
CỦA MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN 
THÁI NGUYÊN - 2008 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM 
---------    --------- 
DƢƠNG THỊ HỒNG LIÊN 
NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT 
CỦA MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM 
MÃ SỐ: 60.22.34 
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN 
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: T.S. MAI THỊ NHUNG 
THÁI NGUYÊN - 2008 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
LỜI CẢM ƠN 
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới TS. Mai Thị Nhung - người đã 
tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu khoa học và hoàn thành 
luận văn. 
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo 
khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, 
Viện Văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã giảng dạy và giúp đỡ tôi 
hoàn thành khoá học. 
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp 
đã quan tâm động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và 
nghiên cứu. 
Mặc dù đã nỗ lực cố gắng, song do thời gian thực hiện không nhiều, 
năng lực bản thân có hạn nên luận văn chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Kính 
mong nhận được sự lượng thứ và góp ý chân thành của các thầy, cô giáo cùng 
bạn bè đồng nghiệp để được học hỏi, rút kinh nghiệm cho các công trình sau. 
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2008 
 Dương Thị Hồng Liên 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
MỤC LỤC 
 Trang 
MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1 
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................... 2 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 7 
4. Mục đích nghiên cứu........................................................................................... 7 
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 7 
6. Đóng góp của luận văn ....................................................................................... 8 
7. Cấu trúc luận văn ................................................................................................. 8 
NỘI DUNG 
Chƣơng 1. Cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời 
kỳ Đổi mới ................................................................................................ 9 
1.1. Khái niệm cái nhìn nghệ thuật ............................................................................... 9 
1.2. Những yếu tố tạo nên cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng ....................... 10 
1.2.1. Tố chất thông minh sắc sảo và cá tính sáng tạo của nhà văn ................ 10 
1.2.2. Sự chuyển mình mạnh mẽ của một cơ chế xã hội mới ............................. 13 
1.3. Cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ 
Đổi mới ............................................................................................15 
1.3.1. Cái nhìn hiện thực sắc sảo hướng thẳng vào những vấn đề nhức 
nhối trong cuộc sống .................................................................................. 15 
1.3.2. Cái nhìn con người tinh tường nghiêng về những giá trị văn hoá 
truyền thống .................................................................................................. 28 
Chƣơng 2. Giọng điệu nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời 
kỳ Đổi mới ................................................................................................. 46 
2.1. Khái niệm giọng điệu nghệ thuật .......................................................................... 46 
2.2. Các sắc thái giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của 
Ma Văn Kháng ........................................................................................................ 48 
2.2.1. Giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng ...................................................... 50 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
2.2.2. Giọng điệu triết lý, triết luận ...................................................................... 59 
2.2.3. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm ................................................................ 67 
2.2.4. Giọng điệu thương cảm, xót xa .................................................................. 74 
Chƣơng 3. Ngôn ngữ nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết 
thời kỳ Đổi mới ....................................................................................... 80 
3.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................ 80 
3.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Ma Văn Kháng............................................. 82 
3.2.1. Ngôn ngữ dung dị đời thường tươi rói sự sống........................................ 83 
3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm giản dị mà trong sáng .............................. 98 
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 107 
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 110 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
1 
MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
1.1. Ma Văn Kháng là một trong những nhà văn có công đầu tiên mở đường 
cho sự nghiệp đổi mới văn học. Vào những năm đầu 80 của thế kỷ XX, nhiều sáng 
tác của Ma Văn Kháng đã "nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật", từ đó tạo nên 
những cuộc tranh luận sôi nổi trên các diễn đàn văn học. Ông cũng là một trong số 
các nhà văn Việt Nam hiện đại sáng tác thành công ở cả hai thể loại truyện ngắn và 
tiểu thuyết. Qua từng tiểu thuyết, truyện ngắn, Ma Văn Kháng không ngừng tìm 
kiếm những cách thể hiện mới. Thời gian và kinh nghiệm nghệ thuật đã tôi luyện 
ngòi bút Ma Văn Kháng khiến ông luôn gặt hái được những thành tựu đáng kể. 
1.2. Toàn bộ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng nhìn chung được sáng tác theo hai 
mảng đề tài lớn với hai cảm hứng chủ đạo: Đề tài về dân tộc miền núi với cảm hứng 
sử thi và đề tài về thành thị với cảm hứng thế sự đời tư. Trong đó có những tác 
phẩm được giải thưởng trong nước, quốc tế và được dịch ra tiếng nước ngoài như: 
Truyện ngắn Xa phủ đoạt giải nhì (không có giải nhất) trong cuộc thi truyện ngắn 
của Tuần báo Văn nghệ 1967 - 1968, tập truyện ngắn Trăng soi sân nhỏ giải thưởng 
Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995, giải cây bút vàng cho truyện SanChaChải trong 
cuộc thi truyện ngắn và ký 1996 - 1998 do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam tổ 
chức. Ngoài Mùa lá rụng trong vườn được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1984, Ma 
Văn Kháng còn vinh dự nhận được giải thưởng văn học Đông Nam Á (1998) và giải 
thưởng Nhà Nước về văn học nghệ thuật (2001). Với những thành tựu kể trên, Ma 
Văn Kháng đã tự khẳng định vị thế của mình trong nền văn học Việt Nam 
 đương đại. 
1.3. Lâu nay, đã có khá nhiều bài viết, các công trình nghiên cứu về Ma Văn 
Kháng và các tác phẩm của ông. Nhưng hầu hết là những đánh giá, nhận định chung 
về từng tác phẩm cụ thể, về hình tượng nghệ thuật, thậm chí là khen chê một tác 
phẩm hoặc một khía cạnh nào đó của tác phẩm ngay khi nó ra mới ra đời. Với các 
công trình nghiên cứu công phu như các luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ tuy đã 
hướng vào những khía cạnh chuyên biệt như: kiểu nhân vật, đặc trưng cuả thể loại, 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
2 
cảm hứng nghệ thuật hoặc những dấu hiệu đổi mới văn học qua sáng tác của ông và 
một số nhà văn tiêu biểu cùng thời, nhưng việc đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu, khám 
phá nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng từ góc độ cái nhìn, giọng điệu và ngôn 
ngữ nghệ thuật để thấy sâu sắc hơn quan niệm của nhà văn về hiện thực cuộc sống và 
con người trong một giai đoạn phát triển đầy phức tạp của xã hội thì vẫn còn bỏ ngỏ. 
Với những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn vấn đề Nghệ thuật tiểu 
thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới làm đề tài nghiên cứu của mình. Việc 
nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề này sẽ giúp chúng ta thấy rõ vị thế của các 
yếu tố nghệ thuật (cái nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ) trong việc thể hiện tư tưởng 
nghệ thuật của nhà văn. Từ đó khẳng định đóng góp to lớn của Ma Văn Kháng về 
phương diện sáng tạo nghệ thuật tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới, đồng thời đề tài cũng 
góp phần làm tư liệu tham khảo cho các sinh viên, học viên và những người yêu 
thích văn học Việt Nam hiện đại. 
2. Lịch sử vấn đề 
Ma Văn Kháng là một trong số những nhà văn có đóng góp đáng kể vào công 
cuộc đổi mới văn xuôi giai đoạn sau 1975. Một trong những đóng góp ấy là sự đổi 
mới về cái nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật. Ông "đã cố gắng đổi mới tư 
duy nghệ thuật tiểu thuyết, tìm hướng đi mới trong lao động sáng tạo nghệ thuật". 
Ngay từ khi truyện ngắn Phố cụt ra đời (1959) và đặc biệt là những tác phẩm xuất 
hiện trong giai đoạn đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Ma Văn Kháng đã được 
đông đảo dư luận, độc giả và các nhà phê bình quan tâm. Nhiều công trình nghiên 
cứu, phê bình của các nhà văn, nhà thơ và các nhà nghiên cứu như: Giáo sư Phong 
Lê, Lã Nguyên, Tô Hoài, Trần Đăng Xuyền, Nguyễn Bích Thu đã được đăng tải 
trên nhiều sách báo và tạp chí… Để phục vụ cho những vấn đề mà đề tài nghiên 
cứu, chúng tôi tập trung tìm hiểu ý kiến của những người đi trước về cái nhìn, giọng 
điệu và ngôn ngữ nghệ thuật. 
2.1. Về cái nhìn nghệ thuật 
Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới đã thật sự gây được sự chú ý, 
quan tâm đặc biệt của đông đảo độc giả cũng như giới nghiên cứu, phê bình văn học 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
3 
và đã trở thành hiện tượng văn học một thời. Các tiểu thuyết Mưa mùa hạ, Mùa lá 
rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú, Côi cút giữa cảnh đời... đã tạo ra 
cuộc tranh luận sôi nổi làm cho đời sống văn học đương đại trở nên phong phú và 
đa dạng hơn. 
Tác giả Trần Đăng Xuyền, trong bài viết Một cách nhìn cuộc sống hôm nay 
đăng trên báo Văn nghệ số 15 - 19 - 1983 đã đưa ra nhận định xác đáng về tiểu 
thuyết Mưa mùa hạ: "Giá trị của Mưa mùa hạ không chỉ là chỗ mạnh dạn lên án cái 
tiêu cực mà chủ yếu là xây dựng được cách nhìn, thái độ đúng đắn trước những cái 
xấu, trước những bước cản đi lên Chủ nghĩa xã hội". 
Sau Mưa mùa hạ, tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn xuất hiện. Trong cuộc 
hội thảo về tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn do Câu lạc bộ Báo Người Hà Nội và 
Nhà xuất bản Phụ nữ phối hợp tổ chức, các nhà văn, nhà lý luận phê bình đã có 
nhiều ý kiến đánh giá về những thành công cũng như những hạn chế của tác phẩm. 
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân khẳng định: "Mùa lá rụng trong vườn biểu hiện 
cho xu thế văn học đang vươn tới những vấn đề cốt yếu"; Hoàng Kim Quý lại nhấn 
mạnh: "Tác giả Mùa lá rụng trong vườn đã nhìn thẳng vào cuộc sống của những gia 
đình với mỗi người". 
Nói về cái nhìn của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết Đám cưới không có giấy 
giá thú, trong bài viết: "Đọc Đám cưới không có giấy giá thú" của Lê Ngọc Y, tác 
giả đã nhận thấy "Bằng cách nhìn tinh tế vào hiện thực đời sống tác giả đã mô tả 
những người giáo viên sống và làm việc gặp quá nhiều khó khăn. Những vui buồn 
của thời thế đã phản ánh vào những trang tiểu thuyết trở nên sống động". Từ đó, tác 
giả nhấn mạnh Ma Văn Kháng "đã có cái nhìn hiện thực, tỉnh táo nên không bị thói 
xấu, cái bất bình thường vốn nảy sinh trong xã hội đang vận động lấn át, hoặc chỉ 
thấy một chiều này u ám mà không thấy chiều khác đầy nắng rực rỡ". 
Cùng với ý kiến đó, tác giả Lê Thanh Hùng cũng đưa ra nhận xét: "Có lẽ Ma 
Văn Kháng muốn bộc lộ một cái nhìn tiến bộ và khá mới mẻ, một nhận định khá 
chính xác về hiện thực đời sống đương thời - cái xấu, cái ác vẫn tồn tại, hoành hành 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
4 
và sinh sôi trong đời sống, còn cái thiện, cái tốt mặc dù có nhưng có lẽ chưa đủ 
mạnh để có thể chiến thắng" [12,77]. 
Đến với tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời (1998) - tác phẩm mà nhà văn tâm 
đắc nhất, đã có không ít ý kiến xung quanh tác phẩm. Giáo sư Phong Lê trong cuốn 
Vẫn chuyện Văn và Người - Nhà xuất bản Văn hoá thông tin năm 1989 cho rằng: 
"Cuốn sách của Ma Văn Kháng đã vục vào cái sự thật tối tăm oan khổ đó như nhiều 
cuốn sách khác. Nó thật lạ, anh lại đưa con người vào quỹ đạo những tình cảm nhân 
hậu tốt lành. Có thể nói, đó là hiệu quả thanh lọc, tẩy rửa. Cái hiệu quả thanh lọc 
này vốn dành cho nghệ thuật và dường như cũng chỉ có nghệ thuật đích thực, nghệ 
thuật cao hơn cuộc đời mới có thể làm nổi"… 
Nhận xét về cái nhìn trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới, nhìn 
chung các tác giả đã thấy rõ cái nhìn tiến bộ, mới mẻ của nhà văn. Tuy nhiên, đây 
chỉ là những nhận xét lẻ tẻ trên các công trình của các nhà nghiên cứu. Chúng tôi 
thấy vấn đề này cần phải nghiên cứu sâu hơn và có hệ thống hơn. 
2.2. Về giọng điệu nghệ thuật 
Trong quá trình sưu tầm tài liệu tham khảo chúng tôi nhận thấy, có những 
công trình nghiên cứu, những ý kiến đánh giá liên quan đến khía cạnh này như 
trong bài viết Mùa lá rụng trong vườn và những vấn đề của đời sống gia đình hôm 
nay (Báo phụ nữ Việt Nam số 17 - 1986) tác giả Trần Bảo Hưng nhận xét: "Về mặt 
bút pháp, qua tác phẩm này, Ma Văn Kháng bộc lộ thêm một số sở trường mới; khả 
năng biện giải, triết lý, phân tích một cách khúc chiết thông minh" 
Nghiên cứu về tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú (1989), tác giả Mai 
Thục cho rằng: Đám cưới không có giấy giá thú có tính luận đề về mối quan hệ giữa 
những giá trị văn hóa với đời sống của con người; Vũ Dương Quý với bài viết Phải 
chăng đời là một vại dưa muối hỏng?...đặc biệt là cuộc hội thảo về tiểu thuyết Đám 
cưới không có giấy giá thú do báo Văn nghệ tổ chức ngày 11- 1- 1990 với sự tham 
gia đông đảo của các nhà văn, nhà lý luận phê bình nổi tiếng đã đánh giá khái quát 
và bổ ích, lý thú về giá trị đích thực cũng như những hạn chế của tác phẩm trên mọi 
phương diện. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
5 
Khi bàn về Ma Văn Kháng với Côi cút giữa cảnh đời trong Vẫn chuyện Văn và 
Người, Giáo sư Phong Lê tiếp tục nhận xét: "Truyện ngắn Ma Văn Kháng quả là 
một hiện tượng nổi bật trong văn học những năm 90, tuy vẫn chỉ một giọng điệu 
nhưng không gây nhàm tẻ. Biết thế trước rồi mà vẫn ham đọc. Một giọng điệu vẫn 
là nằm trong trong mạnh ngầm tuôn chảy từ một nguồn chung của nền truyện ngắn 
hiện đại. Rõ ràng Ma Văn Kháng vẫn chưa tách ra được thật rõ một lối riêng, nhưng 
vẫn không bị nhoè mờ trong diện mạo chung đó… Côi cút giữa cảnh đời đối với 
tôi, đó là một cuốn sách đọc không thôi cảm động và đầy ấn tượng. Trên hai trăm 
trang sách, đọc một thôi, không có gì khúc mắc, tất cả đều dễ hiểu, tưởng như 
không có nghệ thuật… Cuốn sách của Ma Văn Kháng ai đọc cũng hiểu, đọc một lần 
là hiểu, và xem ra cũng chỉ một tầng nghĩa thôi. Ấy vậy mà, tôi lại nghĩ, đó mới là 
hoặc vẫn là nghệ thuật đích thực". 
Về các luận văn, luận án tiến sĩ chúng tôi thấy luận văn cuả Phạm Mai Anh 
(1997) - Đặc điểm truyện ngắn Ma Văn Kháng; Lê Thanh Ngọc (2004) - Nghệ thuật 
trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975; Đỗ Phương Thảo (2006) - 
Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng… 
Đây là những công trình đã nghiên cứu và có những nhận xét, đánh giá khá sâu 
sắc, khách quan một số khía cạnh về phương diện nghệ thuật trong các tiểu thuyết 
của Ma Văn Kháng và là những gợi ý vô cùng quan trọng cho quá trình nghiên cứu 
của chúng tôi. 
2.3. Về ngôn ngữ nghệ thuật 
Với sự đóng góp của mình về thể loại tiểu thuyết, Ma Văn Kháng được coi là 
một trong những người có thành tựu đáng kể trong quá trình đổi mới tư duy tiểu 
thuyết, tìm hướng đi mới trong sự sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt là sự sáng tạo về 
ngôn ngữ. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi thấy có một vài công trình nghiên 
cứu về vấn đề này. Trong bài viết Một vài suy nghĩ khi đọc Côi cút giữa cảnh đời 
của Ma Văn Kháng, tác giả Vũ Thị Oanh đã cho rằng: "Côi cút giữa cảnh đời - 
cuốn sách viết theo đề nghị cho lứa tuổi sắp vào đời, không đề cương, không hợp 
đồng, được xuất bản bởi sự hợp tác của Nhà xuất bản Kim Đồng và Nhà xuất bản 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
6 
Văn học là một cuốn sách như thế… Đặc biệt, viết cho lứa tuổi sắp vào đời nhưng 
tác giả không hề né tránh cái xấu, cái ác; những yếu tố tồn tại khách quan làm rõ 
thêm bức tranh cuộc sống với những cuộc đấu tranh thể hiện ở nhiều bình diện, sắc 
thái khác nhau. Đó là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác... Tất cả được thể hiện 
bằng ngòi bút mềm mại, uyển chuyển, ngôn ngữ hóm hỉnh, phong phú sắc màu: kết 
cấu có hậu kiểu truyện cổ dân gian của tác giả Ma Văn Kháng". 
Khi bàn về tác phẩm Ngược dòng nước lũ theo tác giả Hồ Anh Thái, "Ngược 
dòng nước lũ chứa đựng những điển tích được gài cắm cẩn thận, khi được huy động 
đã chuyển tải được những gửi gắm của tác giả từ trong chiều sâu suy tư ra bên 
ngoài, trong một khoảng không gian mở rộng nhiều chiều kích. Nếu không có công 
dụng tài hoa ấy, cuốn sách ấy chắc khó đọc với những tranh giành đấu đá đầy công 
thức". Nghiên cứu tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn tác giả Trần Cương đã đưa ra 
nhận định: "Nghệ thuật viết tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đã có bề dày, kết quả 
của một quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ và ở tác giả đã có định hình rõ nét phong 
cách nghệ thuật của mình". 
Gần đây còn có những công trình nghiên cứu ít nhiều đề cập đến ngôn ngữ 
nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng như luận văn Thạc sĩ của Lê Thanh 
Hùng (2006) - Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đầu Đổi mới (Giai đoạn sáng tác 
1980 - 1989); Lê Minh Chung (2007) - Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới; 
Đỗ Thị Thanh Quỳnh (2006) - Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết cuả 
Ma Văn Kháng; và luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thi Huệ (2000) - Những dấu hiệu 
đổi mới trong văn xuôi của Việt Nam từ 1980 đến 1986 - Qua bốn tác giả: Nguyễn 
Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn... 
Từ việc tìm hiểu các bài viết, công trình nghiên cứu sáng tác của Ma Văn 
Kháng ở từng khía cạnh cụ thể có liên quan đến những vấn đề mà luận văn nghiên 
cứu, chúng tôi nhận thấy: Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi 
mới ít nhiều đã được tìm hiểu, đề cập đến. Tuy nhiên, những công trình đó mới chỉ 
dừng lại ở những ý kiến, nhận định có tính khái quát, tổng hợp. Mặc dù vậy, trong 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
7 
mức độ nhất định, các tài liệu kể trên sẽ là những gợi ý, định hướng, là nguồn tư 
liệu quý báu và cần thiết cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu của mình. 
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 
Vì thời gian có hạn, luận văn không đi sâu nghiên cứu tất cả các vấn đề nghệ 
thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng mà chỉ tập trung vào 3 vấn đề đặc sắc: Cái nhìn 
nghệ thuật, giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết thời kỳ 
Đổi mới của Ma Văn Kháng. 
Trong quá trình nghiên cứu những vấn đề đặt ra, chúng tôi tập trung vào một 
số tiểu thuyết tiêu biểu của nhà văn như Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh 
đời, Đám cưới không giấy giá thú, Chó Bi- đời lưu lạc và Ngược dòng nước lũ. Tuy 
nhiên, để thấy rõ sự chuyển hướng trong nghệ thuật của nhà văn, chúng tôi có đề 
cập đến sáng tác của nhà văn trước đổi mới và có so sánh với những nhà văn khác. 
4. Mục đích nghiên cứu 
Xuất phát từ những vấn đề nghiên cứu đã được đặt ra chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu đề tài: "Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới" 
nhằm hướng tới mục đích cụ thể như sau: 
4.1. Cảm thụ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới một cách sâu sắc 
hơn, đồng thời chỉ ra được