Đề tài Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm ở kênh Ba Bò và các giải pháp

Nước là yếu tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế và không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta vì không có nó cuộc sống sẽ không tồn tại và hoạt động công nghiệp không thể xảy ra. Nhưng nhiều năm trở lại đây tình hình dân số tăng lên song song với việc mở rộng nông nghiệp cũng như các hoạt động công nghiệp đã gây nên các vấn đề môi trường nghiêm trọng, trong đó ô nhiễm nước vẫn đáng quan tâm hơn khi hàng triệu người dân nước ta lấy nước để sinh hoạt từ rạch, suối, ao có nhiễm chất thải của con người. Loại ô nhiễm đã được ước tính gây ra hơn ba triệu người chết hàng năm. Mục tiêu của nghiên cứu này là báo cáo tình trạng ô nhiễm kênh rạch hiện nay và đưa ra hướng giải quyết mới để giảm thiểu các tác động từ thực trạng này cũng như sự cần thiết trong việc xây dựng hệ thống xử lí và kiểm soát chặt chẽ hơn nữa để bảo đảm cuộc sống người dân và đem lại vẻ đẹp đô thị xanh - sạch - đẹp.

doc29 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 3057 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm ở kênh Ba Bò và các giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC DÂN LẬP VĂN LANG KHOA CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG BÀI TẬP VỀ NHÀ MÔN ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Chủ đề NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM Ở KÊNH BA BÒ VÀ CÁC GIẢI PHÁP Lớp K13M01 Nhóm 10, gồm các SV: Trần Thị Ngọc Phương Dương Thị Lan Oanh Lê Thương Minh Ngọc Lý Thị Phương Thảo Lê Thị Long Vân TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 NĂM 2010 LỜI MỞ ĐẦU Nước là yếu tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế và không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta vì không có nó cuộc sống sẽ không existence and industrial activities can not take pl tồn tại và hoạt động công nghiệp không thể xảy ra. Nhưng nhiều năm trở lại đây tình hìnhpopulation increases with a parallel expansion in industrial and agricultural activities, water dân số tăng lên song song với việc mở rộng nông nghiệp cũng như các hoạt động công nghiệp đã gây nên các vấn đề môi trường nghiêm trọng, trong đó ô nhiễm nước vẫn đáng quan tâm hơn khi hàng triệu người dân nước ta lấy nước để sinh hoạt từ unprotected canal, stream and pond which are contaminated with human waste. rạch, suối, ao có nhiễm chất thải của con người.This type Loại of contamination has been estimated to cause more than three million deaths annuaô nhiễm đã được ước tính gây ra hơn ba triệu người chết hàng năm. Mục tiêu của nghiên cứu này là báo cáo tình trạng ô nhiễm kênh rạch hiện nay và Oke Afa cđưa ra hướng giải quyết mới để giảm thiểu các tác động từ thực trạng này cũng như sự cần thiết trong việc xây dựng hệ thống xử lí và kiểm soát chặt chẽ hơn nữa để bảo đảm cuộc sống người dân và đem lại vẻ đẹp đô thị xanh - sạch - đẹp. PHẦN I GIỚI THIỆU Hệ thống sông rạch là một bộ máy điều hòa không khí khổng lồ, nhưng trong điều kiện ô nhiễm môi trường đang bủa vây, hệ thống sông rạch lại trở thành kênh vận chuyển chất ô nhiễm vào sâu trong nội thành lẫn ngoại thành một cách nhanh chóng. Trong khi đó, thành phố Hồ Chí Minh lại được thiên nhiên ưu đãi cho một hệ thống kênh rạch, sông ngòi dày đặc, chằng chịt, len lỏi qua khắp 24 quận, huyện. “Sông Sài Gòn là một trong 3 lưu vực sông lớn và quan trọng nhất của Việt Nam, có một tầm đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn của khu vực kinh tế trọng điểm phía nam”. Hệ thống kênh rạch này cùng với sông Sài Gòn có chiều dài khoảng 38 km đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với khả năng cấp thoát nước cho hơn 10 triệu dân thành phố. Nhưng hệ thống này mỗi ngày bị đầu độc bởi 40 tấn rác thải các loại và 200.000 m3 nước thải công nghiệp... chưa qua xử lý. Và là nơi hàng trăm tấn rác xả ra hàng ngày từ các hoạt động của dân cư sống trên và ven kênh rạch; từ các tàu ghe neo đậu; từ các điểm mua bán dừa vứt bừa bãi ra kênh; thậm chí rác được lén đổ từ trên cầu xuống kênh rạch; rác từ các cửa xả thoát nước thải ra…Thêm vào đó, rác các loại trôi nổi trên sông kênh rạch làm mất mỹ quan, gây mùi hôi thối và ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe người dân sống trên và ven kênh rạch. Những tuyến kênh thuộc khu vực nội thành này chủ yếu mang độ ô nhiễm cao từ nước thải sinh hoạt và sản xuất rải rác ven kênh nhưng so với các kênh rạch thuộc khu vực ngoại thành thì chưa thấm tháp gì. Điển hình cho khu vưc ngoại thành này là kênh Ba Bò (quận Thủ Đức), nơi “tiếp nhận” nước thải chưa qua xử lý từ các khu công nghiệp của tỉnh Bình Dương. Nước từ dòng kênh này có mùi nồng cay, gây khó thở. Hàng chục hecta hoa màu của bà con bị héo úa do tưới nước của dòng kênh. Ngay cả tôn lợp nhà cũng sét gỉ, mục nát nhanh chóng do hơi nước chứa hóa chất độc hại bốc lên từ con kênh. Kênh Ba Bò dài chừng 1,7 km, rộng trung bình 1,5 m chảy qua các địa phận tỉnh Bình Dương và phường Bình Chiểu (quận Thủ Đức). Tuy nhiên khu dân cư chịu ảnh hưởng trực tiếp lại thuộc về phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức. Địa bàn tỉnh Bình Dương đã có 11 khu công nghiệp xả nước thải vào lưu vực sông Sài Gòn, khối lượng nước thải mỗi khu ít nhất là 1.200 m3/ngày và nhiều nhất là 5.600 m3/ngày. Ngoài ra, các cơ sở sản xuất nằm ngoài các khu công nghiệp cũng thải vào lưu vực sông Sài Gòn 45.000 m3/ngày. Trong đó, các ngành độc hại như sản xuất giấy thải ra 7.700 m3; dệt nhuộm 4.200 m3 và chế biến mủ cao su 9.600 m3/ngày. Riêng đối với hoạt động chăn nuôi, mỗi ngày thải ra hơn 24.500 m3 nước thải... Và một lượng lớn bùn thải (bùn từ việc nạo vét kênh rạch và làm vệ sinh mạng lưới thoát nước, bùn từ các khu công nghiệp, các nhà máy lớn và trên 170 tấn bùn từ nạo vét cống và rút hầm cầu...) không được xử lý, tái chế. Các nguồn ô nhiễm nói trên đều đổ trực tiếp vào kênh Ba Bò rồi chảy qua rạch Vĩnh Bình, sau đó tống thẳng ra sông Sài Gòn. Đây là khu vực hạ nguồn của tuyến kênh. Những con kênh này giờ như là những con kênh chết nồng độ oxy hòa tan thường dưới mức cho phép và nhiều khi DO = 0 mg/lít (không có sinh vật nào có thể sống được). Qua thời gian, dù thành phố đã nhiều dự án cải tạo kênh rạch của thành phố, nhưng theo kết quả quan trắc mới nhất cho thấy, chất lượng nước tại các con kênh “dù có cải thiện” so với những năm trước nhưng ô nhiễm vẫn không suy giảm là bao. Như vậy, việc đánh giá tác động ô nhiễm kênh Ba Bò ảnh hưởng đến môi trường sống, đưa ra được các biện pháp cải tạo, khắc phục ô nhiễm chính là một việc làm cấp thiết và mang một ý nghĩa lớn lao cho người dân sống xung quanh con kênh, đến các cấp ban ngành dễ dàng trong việc quản lý nguồn nước cho tỉnh Bình Dương nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói chung. PHẦN II ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU CHI TIẾT 1/- Tên đề tài nghiên cứu NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM Ở KÊNH BA BÒ VÀ CÁC GIẢI PHÁP Phạm vi nghiên cứu: Kênh Ba Bò là một hệ thống kênh chảy qua các địa phận tỉnh Bình Dương và phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức (Thành phố Hồ Chí Minh). Nhưng do những điều kiện khách quan nên phạm vi nghiên cứu được giới hạn ở phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. 2/- Cơ quan quản lý Đề tài nghiên cứu được thực hiện dưới sự theo dõi và hướng dẫn của thầy Vương Quang Việt. 3/- Các cơ quan phối hợp Để thực hiện được đề tài, nhóm đã nhận được sự giúp đỡ của: Các thầy cô trong khoa Công nghệ và Quản lý Môi Trường – Trường Đại học Dân lập Văn Lang. Sở Tài nguyên và Môi trường. Ban Quản Lý Các Khu Công Nghiệp Trung tâm Y Tế Quận Thủ Đức 4/- Tình hình nghiên cứu Trong nước Sáng ngày 18/12/2009 tại Bộ Xây dựng – Hội đồng KHKT chuyên ngành Bộ Xây dựng đã tiến hành nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu đề xuất cơ chế quản lý đầu tư và vận hành hệ thống thoát nước và xử lý nước thải các cụm và khu công nghiệp tập trung đảm bảo các yêu cầu bảo vệ môi trường” do Công ty CP Tư vấn Xây dựng công nghiệp và Đô thị Việt Nam (VCC) thực hiện. TS. Nguyễn Văn Hùng – Chủ nhiệm đề tài đã thay mặt Ban chủ nhiệm đề tài trình bày tóm tắt báo cáo nghiên cứu trước Hội đồng KHKT. Các KCN, KCX và cụm công nghiệp (CCN) tạo ra nhiều sản phẩm công nghiệp cho nền kinh tế quốc dân, song trong quá trình hoạt động hằng ngày lại xả ra môi trường một lượng lớn nước thải có thành phần ô nhiễm phức tạp, đây là nguy cơ tiềm tàng dẫn đến ô nhiễm môi trường. Trong khi đó công tác quản lý vận hành các hệ thống thoát nước và xử lý nước thải tại các KCN lại đang là vấn đề gây khó khăn cho Ban quản lý các KCN, KCX và các cơ quan quản lý đô thị. Từ thực trạng trên, nghiên cứu được thực hiện tại 20 KCN phân bố theo 3 vùng kinh tế Bắc – Trung – Nam. Mục tiêu của đề tài là Điều tra khảo sát và đánh giá hiện trạng quản lý thoát nước và xử lý nước thải tại các khu công nghiệp tập trung; Nghiên cứu đề xuất các giải pháp về thiết kế, cơ chế quản lý đầu tư và vận hành hệ thống thoát nước và các công trình xử lý nước thải đảm bảo các yêu cầu bảo vệ môi trường và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay nhằm phục vụ cho việc lập chính sách quản lý, vận hành hệ thống thoát nước và các công trình xử lý nước thải nói riêng và hệ thống hạ tầng kỹ thuật nói chung tại các khu công nghiệp tập trung trong phạm vi cả nước. Đề tài nghiên cứu đưa ra 4 sản phẩm sau khi hoàn thành bao gồm: Báo cáo đánh giá hiện trạng công tác quản lý hệ thống thoát nước và xử lý nước thải tại các khu công nghiệp khảo sát; Kiến nghị về công tác tư vấn, thiết kế thoát nước và xử lý nước thải cho các khu công nghiệp tập trung đảm bảo các yêu cầu bảo vệ môi trường; Đề xuất các sơ đồ công nghệ xử lý nước thải áp dụng thích hợp cho các KCN; Đề xuất cơ chế chính sách quản lý đầu tư và vận hành hệ thống thoát nước và xử lý nước thải cho các KCN. Với kết quả thu được, đề tài “Nghiên cứu đề xuất cơ chế quản lý đầu tư và vận hành hệ thống thoát nước và xử lý nước thải các cụm và khu công nghiệp tập trung đảm bảo các yêu cầu bảo vệ môi trường” được Hội đồng nhất trí nghiệm thu và đánh giá xếp loại khá . Nước ngoài a. Về vấn đề cấp nước sạch ở châu Phi Bruno Valfrey là một kỹ sư tốt nghiệp trường ENSMA (Trường Đại học Quốc gia về Cơ khí và Kỹ thuật Hàng không - Poitiers, Pháp). Ông đã có 10 năm kinh nghiệm về các dự án cung cấp nước và vệ sinh ở châu Phi và Mĩ La tinh trong lĩnh vực nghiên cứu tính khả thi, hoạch định tài chính và thể chế, xây dựng mô hình quản lí và tài liệu tập huấn cũng như đánh giá dự án và chương trình. Ông đã thúc đẩy nhiều hội thảo về cung cấp nước và vệ sinh cho các bên quan tâm ở nhiều quốc gia và ông cũng là tác giả của một số cuốn sách hướng dẫn về việc thực thi các dự án về nước và vệ sinh (Mali, Chad, Argentina, Niger, và Xê-nê-gan). Trong 5 năm gần đây, Bruno đã đặc biệt làm việc với những vấn đề về nước và vệ sinh ở các khu vực thu nhập thấp của các thủ đô châu Phi và Mĩ La tinh cũng như tiểu thị (Tanzania, Colombia, Xê-nê-gan, Niger, and Kenya). Ông hiện đang tham gia vào việc chuẩn bị chương trình hành động cho các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ về nước và vệ sinh cho sáu quốc gia châu Phi . Vấn đề nước ở Trung Quốc Khi nền kinh tế bùng nổ của Trung Quốc, các tác động về môi trường của nó ngày càng trở nên hiển nhiên. Trung Quốc là một trong số 20 thành phố ô nhiễm nhất trên thế giới. Nhưng đến nay vấn đề môi trường nghiêm trọng nhất mà người Trung Quốc khẩn trương cần phải giải quyết là nước. Các quốc gia đang đối mặt với ngày càng thường xuyên và tuyệt vọng tình trạng thiếu nước, lũ lụt tai hại ở một số vùng, và mức độ nguy hiểm của ô nhiễm. Và vấn đề là không chỉ môi trường - không đủ nước đã hạn chế công nghiệp và sản lượng nông nghiệp ở một số vùng và đe dọa để hạn chế tỷ lệ cao của Trung Quốc tăng trưởng kinh tế và sản xuất lương thực nếu các giải pháp không được tìm thấy cách nhanh chóng. Một cuộc khủng hoảng là lờ mờ, nhưng những gì đã gây ra những vấn đề này, và những gì chính phủ Trung Quốc có thể làm gì? Trung Quốc khai và phân bố dân cư của nó là ở gốc của vấn đề. Ước tính khoảng 44 phần trăm của quốc gia đông dân này sống ở các tỉnh phía bắc và đông bắc, và một số 58% đất canh tác của mình cũng trong lĩnh vực này; nhưng chỉ có 14% của tổng số tài nguyên nước của nước này được tìm thấy trong khu vực. Không ngạc nhiên, đây là khu vực với sự thiếu nước nghiêm trọng. Tất cả các lĩnh vực có sử dụng nước hiệu quả thấp, nhưng đặc biệt là nông nghiệp, nơi người ta ước tính rằng một số 60 - 80% nước là lãng phí thông qua bay hơi từ kênh rạch và hệ thống thủy lợi. Như nông nghiệp là người sử dụng nước cao nhất - số liệu trên toàn thế giới là 69% nước ngọt được sử dụng cho nông nghiệp, so với 21% cho công nghiệp và 10% cho cuộc sống hàng ngày - điều này đại diện cho một khối lượng lớn nước có thể được cứu. Ô nhiễm là một vấn đề rất lớn góp phần vào cuộc khủng hoảng lớn hơn trong tầm tay. Over half of China's population, about 700 million people and 11 percent of the world's, only have access to drinking water of a quality below World Health Organization standards (WHO). Hơn một nửa dân số của Trung Quốc, khoảng 700 triệu người và 11 phần trăm nước trên thế giới chỉ có thể truy cập để uống, có chất lượng dưới đây Tổ chức Y tế Thế giới tiêu chuẩn (WHO). The water is contaminated by a combination of industrial pollution and human and animal waste. Nước bị ô nhiễm bởi sự kết hợp của ô nhiễm công nghiệp và chất thải của con người và động vật. The lack of clean water for animals creates the threat of disease as livestock take in all types of pollutants and microbes. Việc thiếu nước sạch cho động vật tạo ra sự đe dọa của bệnh như chăn nuôi có trong tất cả các loại chất gây ô nhiễm và vi khuẩn. Disease is likely to pass from poultry to pigs to humans, and ultimately, the threat of Avian Bird Flu and similar diseases becomes very grave. Bệnh có khả năng vượt qua từ gia cầm sang lợn sang người, và cuối cùng, mối đe dọa của cúm gia cầm cúm gia cầm và các bệnh tương tự trở nên rất nghiêm trọng. WHO warns of the high risk of a global pandemic that is not a question of if but of when.WHO cảnh báo về nguy cơ cao của một đại dịch toàn cầu mà không phải là một vấn đề nếu mà là khi nào. Một cuộc khảo sát gần đây trên toàn quốc cho thấy, khoảng 90% các thành phố của Trung Quốc có nước ngầm bị ô nhiễm, trong khi hàng triệu nông thôn Trung Quốc phải đối mặt với rủi ro từ tự nhiên như chất gây ô nhiễm asen và flo quá mức. Dự án nước chuyển hướng có triển vọng, nhưng cần phải là một phần của chính sách quản lý rộng hơn nước thúc đẩy phát triển sử dụng hiệu quả hơn của nước trong ngành công nghiệp, nông nghiệp và để sử dụng trong nước tại các thành phố. Trung Quốc cũng cần để giải quyết ô nhiễm, với hệ thống xử lý hiện đại hóa đối với nước thải và hệ thống đô thị được cải thiện cung cấp nước. Việc giảm của dòng chảy trên các sông lớn nhất Trung Quốc từ tình trạng thiếu nước đã buộc nhà máy thủy điện để thu nhỏ rất cần năng lượng đầu ra. Additionally, many of the country's smelters, paper mills and petrochemical plants can no longer expect the huge amounts of water they require for operation. Ngoài ra, nhiều lò nung của đất nước, nhà máy giấy, nhà máy hóa dầu không còn có thể mong đợi những số tiền khổng lồ của nước họ yêu cầu cho hoạt động. Experts predict that water supply interruptions may occur in six industries that account for approximately two thirds of all industrial water demand: electric power, iron and steel, petroleum production and refining, chemicals, paper making and textile dyeing. Các chuyên gia dự đoán rằng nước bị gián đoạn cung cấp có thể xảy ra trong sáu ngành công nghiệp chiếm khoảng hai phần ba của tất cả các nhu cầu nước công nghiệp: điện lực, sắt thép, sản xuất xăng dầu và lọc dầu, hóa chất, sản xuất giấy và dệt nhuộm. In conjunction with water supply interruptions, electric power is likely to be limited, as water is essential for both the cleaning of dirty coal to minimize air pollution and to operate boilers to generate power. Kết hợp với các gián đoạn cung cấp nước, điện lực có khả năng được hạn chế, như nước là điều cần thiết để làm sạch cả than bẩn để giảm thiểu ô nhiễm không khí và hoạt động lò hơi để tạo ra điện. This will surely have a far-reaching economic impact as investment projects almost anywhere in China will risk brownouts and interruptions during 2005. Vào cuối tháng bảy năm 2004, một màu đen và nâu huyền bí chùm của vật chất độc hại trên 80 dặm dài xuôi dọc theo sông Hoài, một trong bảy của Trung Quốc sông lớn, và giết chết hàng triệu cá và động vật hoang dã bị tàn phá. There were differing explanations for the disaster, the two leading reasons being that either too much water had been taken from the river system and the Huai River had lost its ability to clean itself, or that numerous factories had dumped untreated waste directly into the water and the levels of toxicity had accumulated to an critical point. Có giải thích cho các thiên tai khác nhau, hai lý do hàng đầu mà hai nước đang được quá nhiều đã được lấy từ hệ thống sông và sông Hoài đã mất khả năng tự làm sạch, hoặc là nhiều nhà máy đã đổ chất thải chưa qua xử lý trực tiếp vào nước và mức độ độc tính đã tích lũy đến một điểm quan trọng. According to SEPA, more than 70 percent of China's lakes and five of China's seven largest river systems are polluted enough to be unsuitable for human contact. Theo SEPA, hơn 70 phần trăm hồ của Trung Quốc và năm của Trung Quốc bảy hệ thống sông lớn nhất là ô nhiễm đến mức có thể không phù hợp để liên lạc với con người. Việc phổ biến giữa tất cả các sáng kiến tiết kiệm nước là số tiền đáng kể tiền cần thiết để thực hiện bất kỳ người trong số họ. Severe pollution contaminates the potable water supply, but treatment equipment is expensive. Ô nhiễm gây nhiễm nghiêm trọng nguồn cung cấp nước sạch, nhưng thiết bị xử lý rất tốn kém. Likewise, traditional irrigation methods can be adjusted and improved to increase efficiency, but the best equipment still needs to be imported. Tương tự như vậy, phương pháp truyền thống thủy lợi có thể được điều chỉnh và cải tiến để tăng hiệu quả, nhưng các thiết bị tốt nhất vẫn cần phải được nhập khẩu. The costs should not be ignored however, because the cost of not taking action and not putting conservation measures into place will be significantly higher down the road. Các chi phí không nên bỏ qua tuy nhiên, vì chi phí của việc không hành động và không đặt các biện pháp bảo tồn vào vị trí sẽ cao hơn đáng kể xuống đường. The World Bank has concluded that pollution is costing the country 8-12 percent of its 1.4 billion GDP in direct damage annually and the water issue is a large part of this. Ngân hàng Thế giới đã kết luận rằng chi phí ô nhiễm là nước 8-12 phần trăm 1400000000 GDP của nó trong thiệt hại trực tiếp hàng năm và cấp nước là một phần lớn về điều này. Vì tài nguyên khoáng sản của Trung Quốc và đất nông nghiệp được tập trung nơi khan hiếm nước, có vẻ như khó khăn để tìm một thỏa hiệp giữa bảo tồn nước và sản xuất đủ lượng nông nghiệp. More than 60 percent of all China's water goes to agriculture and as much as 75 percent of northern China's crop production is reportedly based on irrigation. Nhiều hơn 60 phần trăm của tất cả các nước Trung Quốc đi vào nông nghiệp và càng nhiều càng tốt 75 phần trăm sản xuất cây trồng miền bắc Trung Quốc được báo cáo dựa trên thủy lợi. Farmers in the chronically dry northern and western regions of China, including Ningxia, Gansu and Inner Mongolia, are drawing far more than their fair share of water from the Yellow River for climatically inappropriate and thirsty crops. Nông dân trong kinh niên khô vùng phía bắc và phía tây của Trung Quốc, bao gồm cả Ninh Hạ, Cam Túc và Nội Mông Cổ, được vẽ nhiều hơn so với chia sẻ công bằng của họ về nước từ sông Hoàng Hà cho cây trồng và khí không thích hợp và khát nước. Practical schemes have been proposed to alleviate the water demand including growing timber instead of grain near the upper reaches of the river. đề án thực tế đã được đề xuất để giảm bớt nhu cầu nước bao gồm cả gỗ đang phát triển thay vì ngũ cốc gần thượng nguồn của con sông. Participating farmers in one such scheme were compensated with cash and a supply of grain while the trees developed over the first five years, but local authorities opposed the plan after having to shoulder some of the financial burden of compensation. Tham gia chương trình như vậy nông dân trong một đã được bồi thường bằng tiền mặt và cung cấp ngũ cốc trong khi cây phát triển trong năm năm đầu tiên, nhưng chính quyền địa phương phản đối kế hoạch sau khi đã vào vai một số gánh nặng tài chính của bồi thường. 5/- Mục tiêu cơ bản của đề tài nghiên cứu a. Mục tiêu lâu dài: Dự báo, đưa ra những khả năng tiềm tàng có thể xảy ra ở kênh Ba Bò cho các cơ quan chức năng kịp thời quản lý về tình trạng ô nhiễm kênh rạch hiện nay tại TP.HCM. Đề ra phương pháp xử lý cho các kênh rạch. Giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước do nước thải từ các KCN và khu dân cư gây ra. b. Mục tiêu cụ thể Điều tra số liệu về tải lượng, nồng độ các chất ô nhiễm trong nước thải. Dự báo các tác động tiềm tàng của ô nhiễm do nước thải của các KCN gây ra nếu không có biện pháp giám sát kịp thời. Đề suất các biện pháp giảm thiểu và hạn chế các chất ô nhiễm. 6/- Nội dung chính 6.1 Thu thập, xử lý và phân tích số liệu về các yếu tố tự nhiên, xã hội Điều kiện tự nhiên Vị trí địa lý (địa hình, khu vực…) Điều kiện khí hâu, thủy văn (nhiệt độ, lượng mưa, hướng gió…) Bản đồ khu vực. Điều kiện kinh tế xã hội Dân số, lao động, thu nhập. G