Bước sang thế kỷ XXI, xu thế tất yếu của nhiều quốc gia trên thế giới là
bằng mọi cách khơi dậy sức sống mãnh liệt của dân tộc để hội nhập quốc tế và phát
triển hợp lý, phù hợp với xã hội hiện đại. Để làm được điều đó, nhiều nước đã tìm về di
sản văn hoá (DSVH), bởi DSVH chính là một trong những cội nguồn sức sống tiềm
tàng to lớn của dân tộc được tạo ra trong quá khứ, cần phải được bảo vệ, duy trì và phát
huy trong xã hội hiện đại. Văn hoá là tiềm lực tinh thần to lớn của mỗi dân tộc, thể hiện
ra ở những giá trị hàm chứa trong vốn DSVH dân tộc được tích luỹ theo thời gian lịch
sử. DSVH dân tộc giống như một nguồn lực kép: nguồn lực vật thể (hữu hình) và nguồn
lực phi vật thể (vô hình). DSVH trở thành điểm tựa quan trọng, tạo thế đi vững chắc cho
hiện tại và tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Trải qua hàng ngàn năm, những giá trị DSVH phi vật thể và DSVH vật thể Việt
Nam vẫn hiện diện như muôn trùng con sóng cuộn chảy trong dòng sông văn hoá truyền
thống của dân tộc.
Kế thừa di sản quá khứ là quy luật phát triển tất yếu của văn hoá. Muốn kế thừa
và phát huy DSVH thì trước hết cần phải nghiên cứu, tiếp cận mọi phương diện lý luận
về DSVH dân tộc. Đó là một đòi hỏi bức xúc về phương diện lý luận mà quá trình
nghiên cứu đề tài “Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
(qua thực tế một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ)” có thể tìm được những phương án giải
trình một cách có hệ thống, hợp lý và logic.
Mặc dù chỉ nghiên cứu về DSVH ở đồng bằng Bắc Bộ nhưng đề tài vẫn có điều
kiện hệ thống hoá, bao quát và đi sâu hơn về một số vấn đề lý luận DSVH đương đại,
đóng góp chung vào những thành tựu lý luận về lĩnh vực này.
1.2. Trong xu thế giao lưu hội nhập và toàn cầu hoá hết sức sôi động hiện nay,
vấn đề bảo tồn và phát huy DSVH lại càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm gìn giữ
và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc, để hội nhập mà không bị hoà tan.
DSVH nước ta giống như một kho báu của quá khứ cần phải được kế thừa một
cách khoa học, tích cực, có chọn lọc đúng đắn để tiến hành xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII” của Đảng đã khẳng định: “Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ phải
nhằm xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt
Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm lối sống, xây dựng môi trường văn hoá
lành mạnh cho sự phát triển xã hội. Kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức
và thẩm mỹ, các di sản văn hoá, nghệ thuật của dân tộc. Bảo tồn và tôn tạo các di tích
lịch sử, văn hoá danh thắng của đất nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở
rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân
tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc.
Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp cho nền văn hoá Việt
Nam”.
183 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2925 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu, khảo sát Di Sản Văn Hóa vùng đồng bằng Bắc Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nghiên cứu, khảo sát Di Sản Văn Hóa
vùng đồng bằng Bắc Bộ
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Bước sang thế kỷ XXI, xu thế tất yếu của nhiều quốc gia trên thế giới là
bằng mọi cách khơi dậy sức sống mãnh liệt của dân tộc để hội nhập quốc tế và phát
triển hợp lý, phù hợp với xã hội hiện đại. Để làm được điều đó, nhiều nước đã tìm về di
sản văn hoá (DSVH), bởi DSVH chính là một trong những cội nguồn sức sống tiềm
tàng to lớn của dân tộc được tạo ra trong quá khứ, cần phải được bảo vệ, duy trì và phát
huy trong xã hội hiện đại. Văn hoá là tiềm lực tinh thần to lớn của mỗi dân tộc, thể hiện
ra ở những giá trị hàm chứa trong vốn DSVH dân tộc được tích luỹ theo thời gian lịch
sử. DSVH dân tộc giống như một nguồn lực kép: nguồn lực vật thể (hữu hình) và nguồn
lực phi vật thể (vô hình). DSVH trở thành điểm tựa quan trọng, tạo thế đi vững chắc cho
hiện tại và tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Trải qua hàng ngàn năm, những giá trị DSVH phi vật thể và DSVH vật thể Việt
Nam vẫn hiện diện như muôn trùng con sóng cuộn chảy trong dòng sông văn hoá truyền
thống của dân tộc.
Kế thừa di sản quá khứ là quy luật phát triển tất yếu của văn hoá. Muốn kế thừa
và phát huy DSVH thì trước hết cần phải nghiên cứu, tiếp cận mọi phương diện lý luận
về DSVH dân tộc. Đó là một đòi hỏi bức xúc về phương diện lý luận mà quá trình
nghiên cứu đề tài “Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
(qua thực tế một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ)” có thể tìm được những phương án giải
trình một cách có hệ thống, hợp lý và logic.
Mặc dù chỉ nghiên cứu về DSVH ở đồng bằng Bắc Bộ nhưng đề tài vẫn có điều
kiện hệ thống hoá, bao quát và đi sâu hơn về một số vấn đề lý luận DSVH đương đại,
đóng góp chung vào những thành tựu lý luận về lĩnh vực này.
1.2. Trong xu thế giao lưu hội nhập và toàn cầu hoá hết sức sôi động hiện nay,
vấn đề bảo tồn và phát huy DSVH lại càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm gìn giữ
và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc, để hội nhập mà không bị hoà tan.
DSVH nước ta giống như một kho báu của quá khứ cần phải được kế thừa một
cách khoa học, tích cực, có chọn lọc đúng đắn để tiến hành xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII” của Đảng đã khẳng định: “Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ phải
nhằm xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt
Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm lối sống, xây dựng môi trường văn hoá
lành mạnh cho sự phát triển xã hội. Kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức
và thẩm mỹ, các di sản văn hoá, nghệ thuật của dân tộc. Bảo tồn và tôn tạo các di tích
lịch sử, văn hoá danh thắng của đất nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở
rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân
tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc.
Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp cho nền văn hoá Việt
Nam”.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh vấn đề bảo
tồn phát huy DSVH dân tộc trong sự nghiệp phát triển văn hoá, nền tảng tinh thần của
xã hội: “Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng
chiến, các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị văn hoá nghệ
thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc. Bảo tồn và phát huy
văn hoá, văn nghệ dân gian. Kết hợp hài hoà việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hoá
với các hoạt động phát triển kinh tế du lịch”.
Xuất phát từ quan điểm đường lối của Đảng, việc thực hiện đề tài nghiên cứu
Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH (qua thực tế một số
tỉnh đồng bằng Bắc Bộ)” là một hoạt động có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc và ý nghĩa thời
sự cấp bách đối với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, đối với các vùng miền cả
nước nói chung.
1.3. DSVH vùng đồng bằng Bắc Bộ có vị trí trọng yếu trong toàn bộ không gian
DSVH phía Bắc nước ta - một vùng văn hoá lâu đời, tiêu biểu cho văn hoá dân tộc Việt
Nam từ ngàn xưa, bao gồm nhiều tiểu vùng văn hoá mở rộng theo đồng bằng Bắc Bộ,
trải dài theo sông Hồng cùng với hệ thống sông ngòi phía Bắc và vùng châu thổ rộng
lớn.
Nghiên cứu, khảo sát DSVH vùng đồng bằng Bắc Bộ sẽ giúp chúng ta khai thác,
tiếp cận những vỉa tầng quan trọng hàng đầu của văn hoá Việt Nam trong tiến trình lịch
sử. Đây là một trong những “địa chỉ” trọng điểm cất giữ những vẻ đẹp tinh hoa nhất, cốt
lõi nhất của văn hoá nước ta. Bởi vậy, muốn xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, cần phải nghiên cứu, kế thừa, bảo tồn và phát huy
DSVH đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, DSVH Việt Nam nói chung.
1.4. Vừa qua, hoạt động bảo tồn, kế thừa và phát huy DSVH đã diễn ra rất đa
dạng tại các địa phương vùng đồng bằng Bắc Bộ. Theo đó, tình hình CNH, HĐH, giao
lưu hội nhập quốc tế ngày càng sôi động, vừa có thời cơ lại vừa có những thách thức
không nhỏ đối với hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hoá. Đã đến lúc cần phải
thực hiện một công trình nghiên cứu chuyên biệt, nhằm khảo sát thực trạng bảo tồn và
phát huy DSVH vùng đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, tìm ra
những thành tựu và hạn chế của hoạt động này, kiến nghị và đề xuất những phương
hướng và giải pháp có tính khả thi, nhằm bảo tồn và phát huy tốt hơn DSVH đồng bằng
Bắc Bộ giai đoạn hiện nay và trong tương lai.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ mối quan hệ của hoạt động bảo tồn, phát huy DSVH với quá
trình đẩy mạnh CNH, HĐH tại vùng đồng bằng Bắc Bộ, hướng tới xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đề tài đi sâu phân tích, đánh giá thực
trạng bảo tồn và phát huy DSVH ở một số tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ thời gian qua
(bao gồm các tỉnh Hà Tây (cũ), Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh).
Đề tài sẽ cố gắng làm nổi rõ những thành tựu, những mặt tồn tại trong các hoạt
động nêu trên, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó, đồng thời đề ra phương
hướng và giải pháp hiệu quả nhất, nhằm bảo tồn và phát huy DSVH trong giai đoạn tiếp
tục đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH tại đồng bằng Bắc Bộ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Vận dụng các quan điểm mác xít, quan điểm lý luận của Đảng và chính sách
của Nhà nước, những quan niệm của nhân loại tiến bộ về bảo tồn và phát huy DSVH,
kết hợp với những kết quả nghiên cứu tổng kết thực tiễn, đề tài thuyết minh sáng rõ về
mối quan hệ, vai trò của hoạt động bảo tồn, phát huy DSVH với quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH, hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế và xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.
- Khảo sát, điều tra, nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác bảo tồn, phát huy
các DSVH vật thể, DSVH phi vật thể tại một số tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ (chủ yếu
là ở Hà Nội, Hà Tây cũ, Hải Dương và Bắc Ninh) trên các mặt thành tựu, hạn chế, tìm
ra những nguyên nhân dẫn đến thực tiễn đó.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp, kiến nghị nhằm bảo tồn và phát
huy DSVH vùng đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, đóng góp
những tư liệu cần thiết để hoàn thiện thêm chính sách bảo tồn và phát huy DSVH dân
tộc phù hợp với những đòi hỏi từ thực tiễn của đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, trong phạm
vi cả nước nói chung.
- Qua nghiên cứu, đề tài bước đầu giới thiệu kinh nghiệm thành công của một số
quốc gia trên thế giới về lĩnh vực bảo tồn phát huy DSVH trong phát triển kinh tế xã hội
hiện nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
- Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về văn hoá, đề tài tiếp cận một cách
có hệ thống những tiền đề lý luận về DSVH, về bảo tồn di sản văn hoá và phát huy
DSVH.
- Theo đó, đề tài nghiên cứu, vận dụng hợp lý những thành tựu về lý luận DSVH
của thế giới đương đại vào thực tiễn nghiên cứu như:
+ Quan niệm của UNESCO về văn hoá và DSVH, về kế thừa, bảo tồn và phát
huy DSVH, về vai trò chức năng của DSVH đối với việc lựa chọn mô hình phát triển
của văn hoá mỗi dân tộc.
+ Những thành tựu về lý thuyết vùng văn hoá và tiểu vùng văn hoá của giới
nghiên cứu văn hoá học trên thế giới đầu thế kỷ XXI.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
* Phân tích - Tổng hợp tài liệu văn bản
Đề tài sẽ nghiên cứu những văn bản, tài liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện
chủ trương đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về văn hoá, về DSVH, luật
DSVH, về bảo tồn và phát huy DSVH.
- Các công trình nghiên cứu của nước ngoài về DSVH vật thể, DSVH phi vật thể.
- Các công trình nghiên cứu, sưu tầm trong nước về DSVH vật thể, DSVH phi
vật thể Việt Nam nói chung, vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.
* Điều tra xã hội học, quan sát, khảo tả: phỏng vấn sâu (các nghệ nhân, các nhà
quản lý, cán bộ chuyên trách, người dân tại các vùng miền), bảng hỏi (tổng thể, chi tiết),
thống kê, phân loại...
* Lịch sử - Logic: nghiên cứu, phán đoán, suy luận, thuyết minh những cơ sở lịch
sử xã hội hình thành nên DSVH.
* So sánh văn hoá: Đối chứng vùng văn hoá và tiểu vùng văn hoá ở đồng bằng
Bắc Bộ theo hai chiều lịch đại và đồng đại để tìm ra những nét đặc sắc.
* Phương pháp phân tích SWOT (Điểm mạnh - Điểm yếu - Thời cơ - Thách
thức: Stengths, Weaknesses, Opportunities, Threatts)
4. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nói tới văn hóa người ta thường đề cập ngay tới di sản văn hoá (Cultural
heritage). Diện mạo văn hoá dân tộc trước tiên dễ nhận ra chính là những tài sản văn
hoá đời trước để lại cho đời sau. Vẻ đẹp giá trị của DSVH giống như những lớp vàng
ròng trầm tích kết đọng thành đồng bằng châu thổ đôi bờ con sông văn hoá miệt mài
uốn lượn qua những bến bờ thời gian. Có lẽ vì thế mà khi nghiên cứu văn hoá, DSVH là
một lĩnh vực được giới nghiên cứu trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm tìm hiểu
trước tiên và khảo sát ở nhiều cấp độ khác nhau trên các phương diện lý thuyết cũng
như thực tiễn.
* Những thành tựu nghiên cứu lý luận về văn hoá và di sản văn hoá
Vào thời gian nửa sau thế kỷ XX, các tổ chức quốc tế như UNESCO, UNDP đều nỗ
lực nghiên cứu đánh giá tiềm năng quá khứ của nhân loại, đặc biệt là về di sản văn hoá.
UNESCO chia di sản văn hoá thành hai loại: di sản “văn hóa vật thể” (tangible culture) và di
sản “văn hoá phi vật thể” (nonphysicalculture).
Trên thế giới nhiều học giả đã nghiên cứu khái niệm Di sản văn hoá (Cultural
heritage). Abraham Moles quan niệm DSVH như một “mã di truyền xã hội”, một thứ
“ký ức tập thể”. Feredico Mayor hình dung DSVH như một “hệ thống các giá trị”,
những nhân tố hình thành nên bản sắc văn hoá dân tộc.
Người Nhật quan niệm giá trị văn hoá như một thứ tài sản - “tài sản văn hoá”
(Cultural propeties) và họ chia di sản văn hoá thành hai loại: tài sản văn hoá “hữu hình”
và tài sản văn hoá “vô hình”. Các thuật ngữ vật thể, phi vật thể, vô hình, hữu hình giờ
đây được sử dụng rộng rãi trên thế giới khi nói về di sản văn hoá.
Trong Hội nghị quốc tế “Bảo vệ di sản văn hoá vật thể và phi vật thể: Hướng đến
Phương pháp tiếp cận tổng thể” tổ chức tại Nara, Nhật Bản từ 19 đến 23/10/2004,
Tuyên bố Yamato về Phương pháp tiếp cận tổng thể trong bảo vệ di sản văn hoá vật thể
và phi vật thể đã được thông qua. Với bản Tuyên bố này, các quan niệm về DSVH đã
được nhân loại định nghĩa cụ thể trên phương diện lý luận theo Công ước và Quy chế
của UNESCO. Đây là những quan niệm cụ thể nhằm giúp nhận diện một cách đúng đắn
khoa học về DSVH vật thể và phi vật thể trên thế giới.
Ở nước ta, nghiên cứu về DSVH trước tiên phải kể đến công trình Việt Nam Văn
hoá sử cương của học giả Đào Duy Anh từ năm 1938 với quan điểm : “Ta muốn trở
thành một nước cường thịnh về vật chất, vừa về tinh thần thì phải giữ văn hoá cũ (di
sản) làm thể (gốc, nền tảng); mà lấy văn hoá mới làm dụng nghĩa là phải khéo điều hoà
tinh tuý của văn hoá phương Đông với những điều sở trường về khoa học của văn hoá
phương Tây”.
Năm 1997, GS,TS. Hoàng Vinh hoàn thành cuốn sách Một số vấn đề về bảo tồn
và phát triển di sản văn hoá dân tộc. Trên cơ sở những quan niệm DSVH của quốc tế và
Việt Nam, tác giả đã đưa ra một hệ thống lý luận về DSVH, đồng thời bước đầu vận
dụng nghiên cứu DSVH nước ta. Năm 2002, Luật di sản văn hoá và văn bản hướng dẫn
thi hành được coi là văn bản pháp quy về DSVH.
Trong sách Bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể do Bộ Văn hoá - Thể thao và Du
lịch phát hành năm 2007, GS,TS. Ngô Đức Thịnh (nguyên Viện trưởng viện Văn hoá
dân gian) đã bàn đến Văn hoá phi vật thể: Bảo tồn và phát huy. Trưởng Ban Di sản phi
vật thể Văn phòng UNESCO Pari - ông Rieks Smeets đã nghiên cứu về Bối cảnh, nhận
thức và quá trình xây dựng Công ước về bảo vệ Di sản văn hoá phi vật thể. Tổng giám
đốc ACCU- ông Sato Kunio đề cập đến Các chương trình của ACCU và tầm nhìn về
bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể. Hai nhà nghiên cứu Trung Quốc là Cố Quân & Uyển
Lợi nghiên cứu về Bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể và những quy tắc nên theo. Partrik
J. Bolyan nghiên cứu Di sản văn hoá phi vật thể, cơ hội và thách thức đối với Bảo tàng
và công tác đào tạo cán bộ chuyên môn bảo tàng.
Công trình Một con đường tiếp cận di sản văn hoá do Bộ Văn hoá - Thông tin
ấn hành, Hà Nội năm 2006 đã tập hợp nhiều bài nghiên cứu về lý luận DSVH cũng như
thực tiễn, có thể làm tư liệu nghiên cứu tốt cho đề tài. Trong đó tiêu biểu nhất là các bài:
Khảo cổ học với công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hoá (Vũ Quốc Hiền), Bảo tồn
di tích, nhân tố quan trọng của phát triển bền vững (Lê Thành Vinh); Di tích lịch sử và
văn hoá đồng bằng sông Hồng (Đặng văn Bài); Bảo tồn, tôn tạo và xây dựng khu di tích
lịch sử - văn hoá Đường Lâm (Phan Huy Lê).
Sách Giữ gìn, phát huy di sản văn hoá các dân tộc Tây Bắc do NXB Văn hoá
Dân tộc - Tạp chí Văn hoá nghệ thuật phát hành có thể giúp người đọc có thể nhận diện
một số vấn đề lý luận về DSVH.
Trên Tạp chí Cộng sản số 20, năm 2003, PGS, TS. Nguyễn Văn Huy đã có nhiều
cố gắng nghiên cứu Một số vấn đề bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá các dân tộc
hiện nay. Tác giả bài báo đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác bảo
tồn phát huy DSVH trên phạm vi cả nước.
Cùng hướng nghiên cứu này, Ngô Phương Thảo viết bài Bảo vệ di sản, cuộc
chiến từ những góc nhìn đăng ở Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 289 tháng 07/2008. Bài
viết đã đề cập trực tiếp đến vấn đề bảo vệ DSVH hiện nay. Theo tác giả thì “Mỗi ngày,
di sản văn hoá càng đối mặt với nhiều nguy cơ, xuất phát từ những hệ lụy của cuộc sống
hiện đại. Cũng mỗi ngày, ý thức về trách nhiệm phải gìn giữ các giá trị văn hoá đã tồn
tại với thời gian càng lan toả sâu rộng trong toàn xã hội, trong mỗi cộng đồng để dẫn tới
những chương trình dự án ngày càng có hiệu quả hơn trong việc gìn giữ các giá trị văn
hoá vật thể và phi vật thể”.
* Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bảo tồn và phát huy di
sản văn hoá đồng bằng Bắc Bộ.
Gần đây xuất hiện một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài như Vai
trò của văn hoá trong Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nông thôn vùng đồng bằng sông
Hồng do PGS, TS Lê Quý Đức chủ biên (do NXB Văn hoá Thông tin - Viện Văn hoá,
Hà Nội xuất bản năm 2005). Đây là một công trình khảo sát khá sâu rộng công phu về
văn hoá nông thôn đồng bằng sông Hồng, trong đó đề cập đến lĩnh vực DSVH trong
thời kỳ CNH, HĐH. Võ Quang Trọng nghiên cứu về Bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hoá phi vật thể của Thăng Long Hà Nội (Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Viện
nghiên cứu Văn hoá - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam)
Tìm về Di sản văn hoá dân gian trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam (NXB
Thuận Hoá, Huế, 1996), tác giả Chu Quang Trứ đề cập đến di sản văn hoá vùng đồng bằng
Bắc Bộ trong bối cảnh chung của DSVH dân tộc.
Qua công trình Sự biến đổi của làng xã Việt Nam ngày nay ở đồng bằng sông
Hồng (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội - sách do Tô Duy Hợp chủ biên năm 2000), người
đọc có thể tìm thấy phần nào diện mạo DSVH đồng bằng Bắc Bộ.
Sách Khảo sát thực trạng văn hoá lễ hội truyền thống của người Việt ở đồng
bằng Bắc bộ của TS.Nguyễn Quang Lê (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 2001) đã
giúp cho người đọc có cái nhìn hệ thống về DSVH phi vật thể nơi đây.
Năm 2003, Hiếu Giang đã nghiên cứu khá công phu Về giá trị văn hoá phi vật
thể Thăng Long - Hà Nội (Tạp chí Di sản Văn hoá - Bộ Văn hoá Thông tin, số 3). Viết
bài trên tạp chí Văn hoá nghệ thuật năm 2002, nhà nghiên cứu Lưu Trần Tiêu đưa ra
vấn đề Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá Viêt Nam. Năm 2006, nghiên cứu sinh Đàm
Hoàng Thụ bảo vệ thành công luận án TS với đề tài: Nghiên cứu vấn đề bảo tồn di sản
văn hoá nghệ thuật trong giai đoạn hiện nay. Có thể xem đây là công trình nghiên cứu
khá sâu về lý luận DSVH.
Năm 2007, trong tư cách một nhà nghiên cứu có nhiều năm quan tâm đến DSVH,
PGS,TS. Nguyễn Chí Bền viết bài nghiên cứu Bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể ở nước
ta hiện nay đăng trên báo Văn hoá. Bài báo bàn sâu về cách thức bảo tồn văn hóa phi
vật thể hiện nay. Với kinh nghiệm của một người quản lý văn hóa, tác giả Nguyễn Hữu
Kim - giám đốc Sở Văn hoá ,Thể thao và Du lịch Vĩnh Phúc có nhiều đề xuất về Bảo
tồn và phát triển di sản văn hoá ở Vĩnh Phúc.
Trong thời gian qua, các tạp chí Người đưa tin UNESCO, tạp chí Di sản Văn hoá
(do Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch ấn hành), tạp chí Văn hiến lần lượt giới thiệu một
số bài viết nghiên cứu về DSVH nói chung, về thực trạng bảo tồn và phát huy DSVH
vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.
Trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm tác giả đã tham khảo, kế thừa kết quả của
một số tài liệu khoa học là cơ sở gợi mở cho hướng nghiên cứu về bảo tồn và phát huy
DSVH đồng bằng Bắc Bộ, bao gồm: Hồ Chí Minh toàn tập (1995 - 2000), Cơ sở lý luận
văn hoá Mác - Lê nin ; Văn kiện Hội nghị Trung ương V khoá VIII (BCH TW khoá
VIII); Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X; sách Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng của Nguyễn Trung Quế; Công trình
Khảo sát thực trạng văn hoá lễ hội truyền thống của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ
của Nguyễn Quang Lê; Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bằng
sông Hồng thời kỳ 1996 - 2000 (Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Bộ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường phát hành tháng 4/1996); Nghề thủ công mỹ nghệ đồng bằng sông Hồng -
tiềm năng, thực trạng và một số kiến nghị, (Đề tài cấp Bộ, Hà Nội, Viện nghiên cứu
Văn hoá dân gian -1999); sách Địa lý các tỉnh, thành phố Việt Nam, Phần I: Các tỉnh,
thành phố đồng bằng sông Hồng (năm 2001); Đề tài khoa học Phát triển làng nghề
truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá do TS Mai Thế Hởn (chủ
biên) GS,TS. Hoàng Ngọc Hoà, PGS,TS. Vũ văn Phúc (đồng chủ biên) (2002); Sách
Bảo tồn và phát huy giá trị danh nhân văn hoá truyền thống Việt Nam của Diêm Thị
Đường; sách Hệ thống nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng của Đào Thế Tuấn và
Pascal Bergeret; Văn hoá Thăng Long - Hà Nội hội tụ và toả sáng của GS,TS. Trần Văn
Bính (chủ biên); Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn Việt
Nam của Nguyễn Sinh Cúc - Lê Mạnh Hùng; Sách Cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền ở
Bắc Bộ của tác giả Trần Từ; sách Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn các nước và Việt Nam của Nguyễn Điền (1997); Số liệu thống kê về cơ sở hạ tầng
của nông thôn Việt Nam, NXB Thống kê (2005) v.v...
Nhận xét chung
- Phần lớn các công trình nghiên cứu và tư liệu trên đây đều trực tiếp hoặc gián
tiếp đề cập đến DSVH và thực trạng bảo tồn phát huy DSVH vùng đồng bằng Bắc Bộ ở
nhiều góc độ lý luận và thực tiễn khác nhau.
- Dường