Doanh nghiệp là một đơn vịkinh doanh 
hàng hóa, dịch vụtheo nhu cầu của thịtrường 
và xã hội để đạt lợi nhuận tối đa và hiệu quả
kinh tếxã - hội cao nhất. Một doanh nghiệp 
tiến hành kinh doanh có hiệu quảlà doanh 
nghiệp thỏa mãn được tối đa nhu cầu của thị
trường và xã hội vềhàng hóa, dịch vụtrong 
giới hạn cho phép của nguồn lực hiện có và 
thu được lợi nhuận nhiều nhất đem lại hiệu 
quảkinh tế- xã hội cao nhất. 
Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp 
gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn phải thực 
hiện một sốviệc cụthểtheo một công nghệ
hợp lý với một thời gian nhất định. Giai đoạn 
quan trọng nhất trong quá trình kinh doanh 
của doanh nghiệp là phải quyết định được sản 
xuất cái gì? Sốlượng là bao nhiêu? 
Trên cơsởcầu của thịtrường các nhà 
quản lý của doanh nghiệp tính toán khảnăng 
sản xuất của doanh nghiệp và các chi phí sản 
xuất tương ứng đểlựa chọn và quyết định sản 
xuất cái gì, bao nhiêu, để đạt lợi nhuận tối đa.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 4 trang
4 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2847 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu mối quan hệ giữa doanh thu biên và chi phí biên trong xác định mức sản lượng của doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ 
GIỮA DOANH THU BIÊN VÀ CHI PHÍ BIÊN 
TRONG XÁC ĐỊNH MỨC SẢN LƯỢNG CỦA DOANH NGHIỆP 
ThS. NGUYỄN THỊ TƯỜNG VI 
Bộ môn Kinh tế - Vận tải 
Khoa Vận tải Kinh tế 
Trường Đại học Giao thông Vận tải 
Tóm tắt: Để giúp các doanh nghiệp có quyết định mức sản lượng của mình một cách chính 
xác, vừa đảm bảo thu được lợi nhuận lớn nhất vừa đáp ứng được nhu cầu thị trường; bài viết này 
đề cập đến mối quan hệ giữa doanh thu biên và chi phí biên để các doanh nghiệp dựa vào đó ra 
các quyết định của mình. 
Summary: In order to help enterprises determine their productivity accurately, ensure the 
greatest profit as well as meet the needs of the market; This article refers to the relationship 
between marginal revenue and marginal cost which is useful for enterprises to take their decisions. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Doanh nghiệp là một đơn vị kinh doanh 
hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu của thị trường 
và xã hội để đạt lợi nhuận tối đa và hiệu quả 
kinh tế xã - hội cao nhất. Một doanh nghiệp 
tiến hành kinh doanh có hiệu quả là doanh 
nghiệp thỏa mãn được tối đa nhu cầu của thị 
trường và xã hội về hàng hóa, dịch vụ trong 
giới hạn cho phép của nguồn lực hiện có và 
thu được lợi nhuận nhiều nhất đem lại hiệu 
quả kinh tế - xã hội cao nhất. 
Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp 
gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn phải thực 
hiện một số việc cụ thể theo một công nghệ 
hợp lý với một thời gian nhất định. Giai đoạn 
quan trọng nhất trong quá trình kinh doanh 
của doanh nghiệp là phải quyết định được sản 
xuất cái gì? Số lượng là bao nhiêu? 
Trên cơ sở cầu của thị trường các nhà 
quản lý của doanh nghiệp tính toán khả năng 
sản xuất của doanh nghiệp và các chi phí sản 
xuất tương ứng để lựa chọn và quyết định sản 
xuất cái gì, bao nhiêu, để đạt lợi nhuận tối đa. 
II. NỘI DUNG 
Lợi nhuận là mục tiêu kinh tế cao nhất, là 
điều kiện tồn tại và phát triển của doanh 
nghiệp. Để cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho thị 
trường các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn vào 
quá trình sản xuất kinh doanh, họ luôn mong 
muốn chi phí là ít nhất và giá bán hàng hóa là 
cao nhất để sau khi trừ đi các chi phí số dư dôi 
còn lại không chỉ để tái sản xuất giản đơn mà 
còn tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích 
lũy phát triển sản xuất. 
Muốn tối đa hóa lợi nhuận các nhà quản 
lý doanh nghiệp có nhiều cách nhưng cách 
thường dùng là phải xem xét mối quan hệ 
giữa doanh thu biên (MR) và chi phí biên 
(MC). 
Doanh thu biên (MR) là mức thay đổi 
 của tổng doanh thu khi tiêu thụ thêm 1 đơn vị 
sản phẩm hay chính là số tiền doanh nghiệp 
thu được thêm khi tiêu thụ thêm 1 đơn vị sản 
phẩm và được tính theo công thức sau: 
MR = TR - TRn n n-1
Trong đó: MRn - Doanh thu biên của sản 
phẩm thứ n; TRn - Tổng doanh thu khi tiêu thụ 
n sản phẩm; TRn-1 - Tổng doanh thu khi tiêu 
thụ n - 1 sản phẩm. 
Về mặt toán học doanh thu biên được 
tính như sau: 
dTRMR =
dQ
Vì đường cầu dốc xuống dưới về phía 
phải nên muốn tiêu thụ thêm 1 sản phẩm thì 
doanh nghiệp phải hạ giá bán, điều đó làm 
doanh thu biên của sản phẩm bán sau luôn 
nhỏ hơn doanh thu biên của sản phẩm bán 
trước đó. Hình dạng của đường doanh thu 
biên cũng giống như đường cầu dốc xuống 
dưới về phía phải nhưng đường doanh thu 
biên luôn luôn nằm dưới đường cầu trừ điểm 
đầu tiên. 
Chi phí biên (MC) là chi phí mà doanh 
nghiệp phải bỏ thêm khi sản xuất thêm 1 đơn 
vị sản phẩm. Do chi phí cố định là không đổi 
(trong ngắn hạn) khi số lượng sản xuất ra thay 
đổi vì vậy bản chất của chi phí biên là chi phí 
biến đổi. Chi phí biên có dạng chữ U, đầu tiên 
chi phí biên giảm dần và sau khi đạt giá trị 
nhỏ nhất thì chi phí biên tăng dần do ảnh 
hưởng của quy luật năng suất biên giảm dần. 
Trong một số trường hợp cần nhanh chóng 
tăng sản lượng nên phải huy động vào sản 
xuất cả những máy móc thiết bị có năng suất 
kém thì lúc này chi phí biên có hình dáng bậc 
thang hoặc liên tục tăng dần. 
Công thức tính chi phí biên (MC): 
ΔTC dTCMC = =
ΔQ dQ
Trong đó: ΔTC - Sự thay đổi của tổng chi 
phí; ΔQ - Sự thay đổi của số lượng sản phẩm. 
Quy tắc chung nhất để tối đa hóa lợi 
nhuận là: Tăng sản lượng chừng nào khi 
doanh thu biên còn lớn hơn chi phí biên (MR 
> MC) cho đến khi nào doanh thu biên bằng 
chi phí biên (MR = MC) thì dừng lại. Đây là 
mức sản lượng tối ưu của doanh nghiệp và ở 
mức sản lượng này thì doanh nghiệp đạt được 
lợi nhuận tối đa. 
Có thể giải thích quy tắc tối đa hoá lợi 
nhuận như sau: Thoạt đầu khi doanh thu biên 
lớn hơn chi phí biên thì cứ sản xuất và bán ra 
thêm một đơn vị sản phẩm thì doanh nghiệp 
sẽ thu được lợi nhuận từ sản phẩm đó và làm 
tổng lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng, vì 
thế doanh nghiệp nên sản xuất và bán những 
sản phẩm có doanh thu biên lớn hơn chi phí 
biên. Do doanh thu biên giảm liên tục còn chi 
phí biên đến một lúc nào đó lại tăng lên và lớn 
hơn chi phí biên thì doanh nghiệp bị lỗ khi sản 
xuất và bán ra những sản phẩm như vậy, vì 
thế doanh nghiệp sẽ không tăng sản lượng đến 
mức sản lượng có doanh thu biên nhỏ hơn chi 
phí biên. Khi doanh thu biên bằng chi phí biên 
thì doanh nghiệp không thu được gì và cũng 
không mất gì từ việc sản xuất và bán thêm 1 
sản phẩm; và tổng lợi nhuận thu được từ các 
sản phẩm sản xuất và bán trước đó đã đạt lớn 
nhất đúng như quy tắc tối đa hoá lợi nhuận 
nêu trên. 
Ngoài việc xác định mức sản lượng để tối 
đa hoá lợi nhuận các doanh nghiệp còn phải 
quyết định mức sản lượng sản xuất trong ngắn 
hạn và trong dài hạn. Trong ngắn hạn có chi 
phí cố định (FC) và chi phí biến đổi (VC) cho 
nên việc quyết định có nên tiếp tục sản xuất 
 hay tạm ngừng sản xuất sẽ phụ thuộc vào các 
chi phí này. Để thấy rõ hơn quyết định sản 
xuất trong ngắn hạn có thể phân tích đồ thị 
hoạt động của doanh nghiệp có sức cạnh 
tranh. 
Khi giá thị trường là P1 đường cầu D1 và 
đường doanh thu biên MR1, doanh nghiệp sẽ 
sản xuất và bán ra Q1 sản phẩm tương ứng 
điểm A là giao điểm của đường doanh thu 
biên và chi phí biên (MR1 = MC). Do chi phí 
bình quân ATC nhỏ hơn giá bán nên doanh 
nghiệp thu được lợi nhuận. Như vậy doanh 
nghiệp tối đa hoá lợi nhuận tại điểm A. 
Khi giá thị trường giảm xuống P2, MC và 
MR2 gặp nhau tại điểm B. Điểm B là điểm tối 
thiểu của chi phí bình quân ATC. Nếu doanh 
nghiệp sản xuất Q2 sản phẩm thì doanh nghiệp 
sẽ hoà vốn, không còn có lãi nhưng chưa bị 
lỗ. Việc xác định được sản lượng hoà vốn là 
rất quan trọng đối với doanh nghiệp bởi vì 
phải vượt được quá mức sản lượng này doanh 
nghiệp mới thu hồi được đủ vốn bỏ ra và bắt 
đầu có lợi nhuận. Sản lượng Q2 gọi là sản 
lượng hoà vốn được xác định bằng công thức: 
FCQ =
P - AVChv
Trong đó: Qhv - Sản lượng hoà vốn; FC -
Chi phí cố định; P - Giá bán của sản phẩm 
trên thị trường; AVC - Chi phí biến đổi bình 
quân. 
Nếu giá cả tiếp tục giảm xuống mức P3, 
MC và MR3 sẽ gặp nhau tại điểm C tương ứng 
doanh nghiệp sản xuất và bán ra Q3 sản phẩm. 
Do chi phí bình quân ở mức sản lượng này lớn 
hơn giá bán P3 nên tổng doanh thu không đủ 
bù đắp tổng chi phí, doanh nghiệp bị lỗ, số 
lượng lỗ vốn = (ATC3 - P3)Q3. Trong trường 
hợp này nếu doanh nghiệp ngừng sản xuất 
ngay thì doanh thu bằng 0 doanh nghiệp sẽ lỗ 
toàn bộ chi phí cố định. Trái lại, doanh nghiệp 
tiếp tục sản xuất với mức sản lượng Q3 thì 
doanh nghiệp chỉ bị lỗ một phần chi phí cố 
định bởi vì giá bán cao hơn chi phí biến đổi 
bình quân cho nên với mỗi đơn vị sản phẩm 
doanh nghiệp sản xuất và bán ra còn dư ra 
một khoản = (P3 - AVC3) để bù đắp chi phí cố 
định. Đứng ở góc độ kinh tế và góc độ xã hội 
doanh nghiệp nên tiếp tục sản xuất để vừa 
đảm bảo được công ăn việc làm vừa có hàng 
hoá đáp ứng được nhu cầu xã hội vừa giảm 
được số bị lỗ vốn. 
P 
P1
P2
P3
P4
Q4
AVC
ATC
MC
A 
B 
C 
E 
D1 = MR1
D2 = MR2
D3 = MR3
Nếu giá cả tiếp tục giảm xuống mức P4, 
MC và MR4 sẽ gặp nhau tại điểm E tương ứng 
doanh nghiệp sản xuất và bán ra Q4 sản phẩm. 
Tại mức sản lượng này do giá bán thấp hơn cả 
chi phí bình quân và chi phí biến đổi bình 
quân vì vậy doanh nghiệp bị lỗ toàn bộ chi phí 
cố định và một phần chi phí biến đổi. Quyết 
định lúc này của doanh nghiệp là ngừng sản 
xuất vì nếu ngừng sản xuất doanh nghiệp chi 
bị lỗ chi phí cố định chứ không bị lỗ thêm cả 
chi phí biến đổi. 
Từ phân tích rút ra kết luận quyết định 
sản xuất trong ngắn hạn doanh nghiệp là mức 
sản lượng mà ở đó doanh thu biên bằng chi 
phí biên với điều kiện tối thiểu giá bán phải 
bằng chi phí biến đổi bình quân. 
Trong dài hạn doanh nghiệp cũng phải 
D4 = MR4
Q3 Q2 Q1 Q1
 quyết định có tiếp tục ở lại thị trường để sản 
xuất hay phải rời bỏ thị trường và mức sản 
lượng sản xuất là bao nhiêu nếu còn ở lại thị 
trường. Để giải quyết được vấn đề này cũng 
sử dụng phương pháp phân tích như trong 
ngắn hạn nhưng loại trừ chi phí cố định có 
nghĩa là mọi chi phí đều biến đổi. Giả sử 
doanh nghiệp coi giá cả thị trường là cho 
trước và đó chính là doanh thu biên của doanh 
nghiệp, doanh nghiệp sẽ tăng mức sản lượng 
đến điểm có doanh thu biên bằng chi phí biên 
dài hạn (MR = LMC) để tối đa hoá lợi nhuận. 
Khi giá thị trường là P1 tương ứng có 
doanh thu biên MR1, doanh thu biên này cắt 
chi phí biên dài hạn LMC tại G lúc này doanh 
nghiệp sản xuất và bán ra Q1 sản phẩm. Do 
giá bán P1 lớn hơn chi phí bình quân dài hạn 
(LATC1), lợi nhuận được xác định bằng (P1- 
LACT1)Q1, trên đồ thị được biểu thị bằng hình 
chữ nhật P1GIK. 
Doanh nghiệp không sản xuất ở mức sản 
lượng Q0 tương ứng với điểm H, mặc dù tại 
điểm H chi phí bình quân dài hạn là thấp nhất 
và thấp hơn chi phí bình quân dài hạn ở mức 
sản lượng Q1; lý do trong sản xuất các doanh 
nghiệp quan tâm đến tổng lợi nhuận hơn là lợi 
nhuận của một đơn vị sản phẩm. 
Tại điểm H chi phí bình quân dài hạn là 
nhỏ nhất làm cho lợi nhuận của một đơn vị 
sản phẩm lớn nhất nhưng vẫn còn phần lợi 
nhuận được biểu hiện bằng diện tích tam giác 
GHI mà doanh nghiệp chưa thu được so với 
mức sản xuất ở mức sản lượng Q1. 
Khi giá thị trường giảm xuống P2 tương 
ứng có doanh thu biên MR2, lúc này doanh 
nghiệp sản xuất Q2 sản phẩm, nhưng do ở 
mức sản lượng này giá bán P2 nhỏ hơn chi phí 
bình quân dài hạn vì vậy doanh nghiệp bị lỗ 
vốn, nó phải lập tức rời bỏ ngành. 
Qua phân tích trên nhận thấy giá thị 
trường ở mức P1 tương ứng với MR1 doanh 
nghiệp thu được lợi nhuận; ở mức giá P2 
tương ứng với MR2 doanh nghiệp phải rời bỏ 
ngành, giá P1 > LATC còn P2 < LATC. Vì thế 
có thể chỉ ra rằng doanh nghiệp chỉ có thể ở 
lại thị trường để sản xuất hàng hoá cho thị 
trường khi P > LATC và rời bỏ thị trường khi 
P < LATC. Hay nói cách khác doanh nghiệp 
quyết định mức sản lượng trong dài hạn là 
mức sản lượng MR = LMC với điều kiện P > 
LATC. 
P1 D1 = MR1
LMC
Q2
K 
P2
P 
D2 = MR2
LATC
Q0 Q1 Q
J H 
I 
G 
III. KẾT LUẬN 
Doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều 
phương pháp khác nhau để xác định mức sản 
lượng của mình nhưng dưới góc độ kinh tế 
học các doanh nghiệp có thể vận dụng mối 
quan hệ giữa doanh thu biên và chi phí biên 
để xác định được mức sản lượng mà mình 
cung cấp ra thị trường vừa đảm bảo được các 
mục tiêu hoạt động kinh doanh của doanh 
nghiệp vừa đáp ứng được nhu cầu thị trường. 
Tài liệu tham khảo 
[1]. Bộ Giáo dục & Đào tạo. Kinh tế vi mô, Nhà 
xuất bản Giáo dục, 2006. 
[2]. Roberts Pindyck và Daniel L Rubin Feld. Kinh 
tế học vi mô. 
[3]. Những nguyên lý của kinh tế học, Nhà xuất 
bản Lao động, 2004♦