Trong xã hội loài người tồn tại rất nhiều loại hoạt động giữa con người với
nhau, có hoạt động về văn hoá, tinh thần trong đó hoạt động về kinh tế hay mối
quan hệ vật chất, tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất kinh doanh có một vị trí
quán trọng trong việc nó sẽ quyết định mức độ thoả mãn của con người về vật chất
tinh thần. Chúng ta đã và đang trải qua các nền kinh tế từ thấp đến cao, từ hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn ( Từ kinh tế tự nhiên tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng
hoá và kinh tế thị trường ). Nói đến kinh tế là nói đến lợi nhuận, đến giá trị thặng
dư, phần dôi ra mà được người chủ tham gia vào hoạt động kinh tế thu được. Lợi
nhuận là mục tiêu, là động lực thôi thúc họ tham gia vào sản xuất kinh doanh, vào
việc tăng cường trao đổi buôn bán và làm cho nền kinh tế phát triển ngày càng cao
hơn và hoàn thiện hơn. Và cũng chính lợi nhuận đã mách bảo cho người sản xuất
nên sản xuất gì? Sản xuất cho ai? là tốt nhất thoả mãn mục đích của mình
26 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2180 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận
và vai trò của lợi nhuận trong nền
kinh tế thị trường
Phần I. Đặt vấn đề
Trong xã hội loài người tồn tại rất nhiều loại hoạt động giữa con người với
nhau, có hoạt động về văn hoá, tinh thần…trong đó hoạt động về kinh tế hay mối
quan hệ vật chất, tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất kinh doanh có một vị trí
quán trọng trong việc nó sẽ quyết định mức độ thoả mãn của con người về vật chất
tinh thần. Chúng ta đã và đang trải qua các nền kinh tế từ thấp đến cao, từ hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn ( Từ kinh tế tự nhiên tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng
hoá và kinh tế thị trường ). Nói đến kinh tế là nói đến lợi nhuận, đến giá trị thặng
dư, phần dôi ra mà được người chủ tham gia vào hoạt động kinh tế thu được. Lợi
nhuận là mục tiêu, là động lực thôi thúc họ tham gia vào sản xuất kinh doanh, vào
việc tăng cường trao đổi buôn bán và làm cho nền kinh tế phát triển ngày càng cao
hơn và hoàn thiện hơn. Và cũng chính lợi nhuận đã mách bảo cho người sản xuất
nên sản xuất gì? Sản xuất cho ai? là tốt nhất thoả mãn mục đích của mình.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận có còn tòn tại không với còn
là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển không? Chính tầm quan trọng này mà tôi
quyết định chọn đề tài : Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi
nhuận trong nền kinh tế thị trường để nghiên cứu.
Thông qua đó nó cho ta vấn đề cặn kẽ về lợi nhuận và tại sao nó lại là động
lực thúc đẩy kinh tế phát triển, đồng thời nó cũng cho ta thấy một cái nhìn đúng đắn
về lợi nhuận, về sự khác nhau căn bản giữa nhà nước XHCN với TBCN trong việc
vận dụng quy luật của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Để nghiên cứu vấn đề
này đúng đắn, ta đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và khoa học kinh tế chính
trị để tìm hiểu. Đây là vấn đề đòi hỏi phải có một kiến thức rộng, hiểu biết sâu sắc
thì mới thấy được cái gốc của nó. Tuy vậy do sự hiểu biết có hạn chế nên bài của
em còn có những thiếu sót và sai lầm, vì thế em rất mong được sự xem xét đánh giá
và bổ xung của thầy, đem lại cho em thêm hiểu biết về vấn đề này để bài viết sau
được tốt hơn.
Phần II. Nội dung
a. NGuồn gốc, bản chất và sự hình thành của lợi nhuận
I. Quan điểm của tư bản về vấn đề này
Chủ nghĩa trọng thương : Họ coi tiền tệ là cơ bản đánh giá cao vai trò của
tiền tệ, cho rằng đó là nội dung của của cải xã hội, là tiêu chuẩn để đánh giá sự giàu
có của mỗi quốc gia, quốc gia càng có nhiều tiền thì càng giàu có. Và múon có tiền
thì phải phát triển thương mại, trong đó đặc biệt là ngoại thương và phải xuất khẩu.
Lợi nhuận là do lưu thông đem lại là kết quả của việc “ mua rẻ bán đắt, mua ít bán
nhiều ”.
ở Anh nó có các đại biểu xuất sắc : William Stayod dựa trên lý thuyết giá trị
lao động, trong tác phẩm “ giá cả đắt đỏ ”, ông đi tìm nguyên nhân của nạn giá cả
đắt đỏ thời đó và ông cho rằng kiếm tiền phải thông qua lưu thông buôn bán, nên đề
nghị các nhà nước quy định tỷ giá hối đoái và bắt các thương nhân nước ngoài đến
Anh phải tiêu hết tiền trước khi về nước, đó là sự tăng xuất khẩu để thu về, ông còn
đề nghị nhà nước can thiệp vào kinh tế nhà là nhà nước độc quyền buôn bán tiền tệ
và kiểm soát các thương nhân nước ngoài.
Thomas Mun ( 1571 – 1641 ) cho rằng của cải là sản phẩm dư thừa được sản
xuất ra trong nước sau khi đã thoả mãn nhu cầu tiêu dùng song phải được chuyển
thành tiền thông qua thị trường nước ngoài, tư tưởng đó thể hiện trong tác phẩm “
Bảng đân đối thương mại ”. Ông coi tiền là tiêu chuẩn cho sự giàu có của mỗi quốc
gia, mà muốn có nhiều tiền thì phải thông qua thương mại, phát triển thương mại,
chú trọng đến ngoại thương đặc là xuất khẩu thì xuất siêu cao hơn nhập siêu, tăng
cường xuất khẩu hàng thành phẩm, không bán nguyên liệu mà thực hiện khâu trung
gian mua nguyên vật liệu ở nước khác rẻ rồi bán ra đắt hơn. Ông cũng coi và
khuyến khích xuất khẩu tiền là một thủ đoạn thương mại mà thương mại sinh ra
tiền, lợi nhuận, chỉ có thương mại vàng bạc, tiền mới đẻ ra tiền : “ Thương mại là
hòn đá thì vàng đối với sự phồn thịnh của mỗi quốc gi, không có phép lạ nào khác
để kiếm tiền trừ thương mại ”.
Ông yêu cầu nhà nước đề ra công cụ thuế quan để bảo hộ cho việc xuất khẩu
ở trong nước cao hơn nhập khẩu và phát triển đội thương thuyền để mở rộng xuất
khẩu, chiếm lĩnh thị trường.
Trong khi đó thì chủ nghĩa trọng thương ở Pháp : Motrechien ( 1575 – 1662 )
ông cho rằng tiền là của cải quốc gia “ Hạnh phúc của người ta là ở trong sự giàu
có, tiền là sợi dây trong chiến tranh tiền mạnh hơn sắt thép ” và ông cũng coi con
đường tạo ra của cải và là con đường tạo ra sự giàu có :
“ Nội thương là ống dẫn
Ngoại thương là máy bơm
Muốn có nhiều của cải phải phát triển ngoại thương
Để nhập dần của cải qua nội thương
Ông đánh giá cao vai trò của thương nhân, lợi nhuận là động lực cho thương
nhân mà lợi nhuận do thương mại mà có, và cho rằng lợi nhuận là chính đáng vì nó
bù đắp lại rủi ro trong thương mại. Ông khuyến khích khi xuất khẩu và sản xuất
công nghiệp, hạn chế tiêu dùng xa hoa.
Kolbert chủ trương phát triển công nghiệp bằng cách hy sinh lợi ích nông
nghiệp, tăng thuế nông nghiệp và bán nông sản với mọi giá, cấp tiền và thưởng cho
những người sản xuất công nghiệp.
Quan điểm của trường phái cổ điển : Đến đây lần đầu tiên trong lịch sử
kinh tế tư sản họ đã chuyển đổi đối tượng từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản
xuất, quan điểm đó trở thành một hệ thống, dựa trên lý thuyết giá trị lao động, sử
dụng phương pháp trừu tượng hoá và phân tích kinh tế, đứng trên quan điểm duy
vật, duy vật máy móc, họ còn ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế. Nhưng nó lại mang
tính hai mặt, một mặt là kế hoạch, một mặt thì tầm thường.
William Petty, ông cho rằng chỉ có lao động hao phí làm ra vàng, bạc là giá
trị của hàng hoá. Ông coi lao là hàng hóa, tiền công là giá cả tự nhiên của hàng hoá
lao động. Ông cũng coi địa tô là khoản khấu trừ vào sản phẩm lao động, còn về lợi
tức - ông cho rằng người có tiền có thể có hai cách thu nhập : một mặt mua ruộng
đất để hưởng tiền tô, mặt khác cho vay để hưởng lợi tức, lợi tức là phát sinh của địa
tô.
Adam Smith ( 1723 – 1790 ) cho rằng mọi lao động đều sản xuất ra hàng hoá
nên đều quyết định giá trị hàng hoá. Ông coi giá trị của hàng hoá gồm tiền công, lợi
nhuận địa tô, lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ 2 vào sản phẩm của công nhân làm
thuê, về địa tô ông coi đây là khoản khấu trừ đầu tiên vào sản phẩm lao động, với
quan điểm này ông phần nào cũng nêu được mầm mống của quan hệ bóc lột.
David Ricardo ( 1772 – 1823 ), ông coi lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai
vào sản phẩm của công nhân, ông phân tích lợi nhuận gắn liền với tiền lương công
nhân, tiền lương thấp thì lợi nhuận cao và ngược lại. Về địa tô ông coi đây là khoản
khấu trừ thứ nhất vào sản phẩm lao động của công nhân, phần mà nhà tư bản phải
trả cho chủ sở hữu ruộng đất phần lợi nhuận siêu ngạch dưới hình thái điạ tô.
Trường phái trọng nông ở Pháp : Với đại biểu xuất sắc Kene, Tuyêcgô...
họ coi chỉ có lao động trong nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm thuần tuý, còn lao
động trong công nghiệp tạo ra những sản phẩm quan trọng nhưng không tạo ra sản
phẩm thuần tuý nên chỉ có lao động trong nông nghiệp mới là lao động sản xuất, lao
động sinh lời, còn trong công nghiệp nó không phải là lao động sản xuất nên nó
không sinh lời ( vì lao động trong nông nghiệp tạo ra chất mới, còn trong công
nghiệp chỉ chế biến cái có sẵn mà thôi ).
Đối với nhà kinh tế chính trị học tiểu tư sản như Xixi, Xmođi, Pơruđông họ
cho rằng tiền lương phụ thuộc vào tích luỹ và quan hệ cung cầu trên thị trường lao
động. Về lợi nhuận ông coi đó là khoản khấu trừ vào khoản lao động của công nhân
lao động làm thuê, địa tô đó cũng là khoản khấu trừ vào sản phẩm lao động của
công nhân.
Tóm lại các nhà kinh tế chính trị học ở giai đoạn này có nhiều quan điểm
khác nhau về lợi nhuận, họ đứng trên thế giới duy vật máy móc hay duy tâm để xem
xét về vấn đề lợi nhuận, nhưng mà lại không nêu ra được cái bản chất, nguồn gốc và
quá trình tạo ra lợi nhuận, giá trị thặng dư, và các hình thức biểu hiện cụ thể của nó.
Chỉ đến K.Marx điều này mới được làm rõ.
II. Quan điểm của CácMác về vấn đề lợi nhuận
1. Nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư :
Nói chung, trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất giá trị không sử dụng không phải là mục đích. Giá trị sử dụng được sản
xuất chỉ vì nó là vật mang giá trị trao đổi.
Nhà tư bản muốn sản xuất ra một vật, một giá trị sả dụng có một giá trị trao
đổi, nghĩa là hàng hoá. Nhưng họ muốn sản xuất ra một hàng hoá có giá trị lớn hơn
tổng giá trị những tư liệu sản xuất và sức lao động mà họ đã bỏ ra, nghĩa là họ muốn
sản xuất ra giá trị thặng dư. Như vậy quá trình sản xuất TBCN là sự thống nhất giữa
quá trình tạo ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Mác nói : “
Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì
quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá, với tư cách là sự thống nhất
giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một
quá trình sản xuất ra TBCN, là hình thái TBCN của nền sản xuất hàng hoá ”.
Quá trình lao động với tư cách tư bản sử dụng sức lao động có đặc điểm :
công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản với tư cách như là một yếu tố
lao động khác được sử dụng sao cho có hiệu quả nhất và sản phẩm làm ra thuộc sở
hữu của nhà tư bản chứ không phải của công nhân. Đi sâu vào quá trình sản xuất ra
giá trị thặng dư, C.Mác chỉ ra rằng nếu một nhà tư bản nếu mà mua được nếu mà
mua được một loại hàng hoá rẻ và bán đắt thì đây chỉ là hành vi móc túi lẫn nhau
giữa các nhà tư bản cùng cấp, nếu đứng trên toàn bộ giai cấp tư bản thì hành vi mua
bán này không phải là cơ sở làm giàu cho giai cấp tư bản. Nếu mua bán trao đổi
ngang giá thì người mua chỉ lợi về một giá trị sử dụng chứ hoàn toàn không thấy
được nguồn gốc của sự gia tăng giá trị hay đẻ ra giá trị thặng dư. Trong trường hợp
trao đổi ngang giá có nghĩa người mua hoặc bán cao hơn giá trị thì Mác kết luận
trong trường hợp này người trao đổi có lợi khi bán và ngược lại khi anh ta là người
mua anh ta laị chịu một lượng thiệt hại tương ứng như vậy cũng không thấy được
nguồn và sự tạo ra lợi nhuận ở trong lưu thông. Đây là mâu thuẫn trong công thức :
T – H – T/ ; T/ = T + t
t là giá trị thặng dư ( m ), trong lưu thông vẫn không thấy được giá trị thặng
dư được tạo ra từ đâu. Vì vậy Mác đã chuyển đối tượng nghiên cứu từ trong lưu
thông sang lĩnh vực ngoài lưu thông.
Đối với hàng hoá ở ngoài lưu thông tức là quá trình sử dụng, sau một thời
gian sử dụng nhất định thì giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá đều mất đi. Còn
đối với tiền tệ ở ngoài lưu thông, tiền cất trữ để dành, nằm yên một chỗ nó không
thể sinh sôi nảy nở được. Vậy Mác kết luận ở ngoài lưu thông cũng không tìm thấy
nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư.
Lần thứ hai Mác trở lại lưu thông và phát hiện ra một điều bí mật trong lưu
thông là người có tiền, nhà tư bản phải tìm đến một thứ hàng hoá đặc biệt để mua
mà thứ hàng hoá đó sau khi sử dụng không những giá trị mà giá trị sử dụng không
mất đi mà nó lại tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó, đó là hàng hoá
sức lao động. Hàng hoá sức lao động cũng giống như các hàng hoá khác có giá trị
nhưng đó là phía trị hao phí sức lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra sức lao
động, là những tư liệu sinh hoạt để nuôi sống bản thân và gia đình anh ta, kể cả các
chi phí đào tạo tay nghề, nhu cầu về tinh thần, tôn giáo…Còn giá trị sử dụng có đặc
tính đặc biệt khác với các hàng hoá khác là sau một thời gian tiêu dùng sức lao động
không những giá trị và giá trị sử dụng của nó không mất đi mà ngược lại càng sử
dụng thì giá trị và giá trị sử dụng càng tăng lên vì tay nghề của công nhân càng
thành thạo hơn, cao hơn nên năng suất sẽ cao hơn do đó càng làm tăng lượng tiền
ứng ra ban đầu của nhà tư bản.
Sau khi biến tiền của mình thành tư bản, tức là đã mua được hàng hoá sức
lao động và tư liệu sản xuất thì nhà tư bản tiến hành quá trình sản xuất tạo ra giá trị
thặng dư, đây là mục tiêu, là động lực cho hoạt động sản xuất của nhà tư bản. Họ
tiến hành sản xuất trong các nhà máy với tư cách là ông chủ còn công nhân là người
làm thuê, họ bắt công nhân kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất mua trước đó
để tạo ra sản phẩm theo kế hoạch của nhà tư bản. Để làm rõ quá trình bóc lột sức
lao động, chiếm lấy giá trị thặng dư của nhà tư bản mà do công nhân là ra đáng lẽ ra
phải thuộc về mình nhưng lại không được gì. Mác dựa trên giả định khoa học và kết
hợp với trừu tượng hoá để đi sâu vào nghiên cứu nền kinh tế : ( giả định giá cả ổn
định trao đổi mua bán ngang giá, nền kinh tế không có ngoại thương ).
Giá 1kg bông = 1 đồng
Hao mòn máy móc để kéo 5kg bông thành 5 kg sợi = 1 đồng
Tiền công lao động của công nhân / 1 ngày = 4 đồng
Cần 4 giờ thì công nhân kéo 5kg bông thành 5kg sợi
Cứ 1giờ công nhân tạo ra một lượng giá trị = 1đồng
Với giả thiết trên, mục tiêu kéo 5kg bông thành 5kg sợi thì ta có bảng quyết
toán của nhà máy sợi này là :
Tư bản ứng trước Giá trị mới tạo ra
Tiền mua 5kg sợi = 5đ
Hao mòn máy móc = 1đ
Tiền lương thuê công nhân 1 ngày = 4đ
Chuyển giá trị 5kg bông 5kg sợi = 5đ
Khấu hao máy móc = 1đ
4giờ lao động của công nhân = 4đ
Tổng = 10đ Tổng = 10đ
Sau khi thực hiện mua bán ngang giá thì nhà tư bản không thu được một
đồng tiền lời nào vì lượng tư bản ứng ra trước bằng lượng tư bản thu về. Nhưng
không phải vì thế mà nó dừng sản xuất lại, mà ngược lại nhà tư bản đã phát hiện ra
một điều là đã trả tiền lương cho công nhân 1 ngày làm 4 giờ và vì vậy họ nghĩ ra
bắt công nhân ngày làm 8giờ nhưng cũng chỉ trả có 4đ thôi. Bây giờ ta có bảng :
Tư bản ứng trước Giá trị mới tạo ra
10kg bông giá = 10đ
Hao mòn máy móc = 2đ
Tiền lương công nhân = 4đ
10kg sợi giá = 10đ
Khấu hao máy móc = 2đ
8giờ lao động = 8đ
Tổng = 16đ Tổng = 20đ
Khi tiêu thụ xong 10kg sợi nhà tư bản thu được một lượng tiền lớn hơn
lượng tư bản ứng ra ban đầu ( là 4đ ) tức là đã có lợi nhuận, có lãi, lượng chênh lệch
đó là do giá trị sức lao động của công nhân làm ra so với tiền lương mà nhà tư bản
đã trả cho họ.
Vậy bản chất của giá trị thặng dư là do bóc lột sức lao động công nhân
1ngày lđ 8h
0 4 8
4giờ đầu người công nhân tạo ra một lượng giá trị bằng tiền lương mà nhà tư
bản trả cho họ, còn 4 giờ là lao động không công, tạo ra giá trị thặng dư và bị nhà tư
bản chiếm đoạt. Đến đây ta thấy rõ bản chất, nguồn gốc, quá trình tạo ra giá trị
thặng dư và công thức của tư bản bây giờ trở thành : T – H – SX…- H/ - T/ như vậy
giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản xuất tức là ngoài lưu thông nhưng
đồng thời nó cũng lại là do lưu thông sinh ra, nghĩa là nhà tư bản ứng, tư bản ra
trước để mua sức lao động thuê công nhân ở trong lưu thông và sau đó tiến hành
quá trình sản xuất, bóc lột sức lao động, lấy phần giá trị dôi ra và giá trị thặng dư.
Vậy : “ Giá trị thặng dư là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không ”. Sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là
qúa trình tạo ra giá trị được kéo dài quá cái thời điểm mà ở đó giá trị sức lao động
do nhà tư bản trả và được hoàn lại bằng vật ngang giá mới.
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và
tư bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư đó, tức là tỷ số theo đó tư
bản khả biến tăng thêm giá trị m/ = m . 100%
v
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư
bản khả biến ( v ) đã được sử dụng : M = m/ . v
2. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư :
Mục đích của nhà tư bản là sản xuất ra nhiều gi43
Là trị thặng dư, nên họ hướng tăng cường việc tạo ra giá trị thặng dư bằng cách tạo
ra giá trị thanựg dư tuyệt đôí và tương đối. Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư
tuyệt đối là sự bóc lột được tiến hành trên cơ sở kéo dài tuyệt đối thời gian lao động
trong ngày của người công nhân tới giới hạn cuối cùng của nó trong điều kiện thời
gian cần thiết đến mức tiền lương vẫn không đổi, phương pháp bóc lột đem lại hiệu
quả cho nhà tư bản nhưng gặp sự kháng cự của công nhân. Vì vậy, họ chuyển sang
bóc lột giá trị thặng dư tương đối là dựa trên cơ sở tiến bộ của kho học kỹ thuật, áp
dụng vào sản xuất, rút ngắn thời gian sản xuất nhờ đó mà tăng cường thời gian sản
xuất ra giá trị thặng dư, như vậy nó đã hạ thấp được giá trị sức lao động của người
công nhân xuống bằng cách nâng cao năng suất trong những ngày đầu tiên dùng để
nuôi sống người công nhân. Đây là quy luật kinh tế dưới CNTB, nhà tư bản với mục
đích chính tối cao là giá trị thặng dư, nó là động lực để giai cấp tư sản sử dụng mọi
phương tiện nhằm đạt được mục tiêu của mình.
3. Bản chất của lợi nhuận :
Để sản xuất bất kỳ ra vật phẩm nào con người cũng phải bỏ ra những chi phí
nhất định đối với ngươì trực tiếp lao động sản xuất họ cho rằn giá trị của sản phẩm
bao gồm cả giá trị của lao động sống của công nhân và lao động quá khứ kết tinh
trong tư liệu sản xuất, đó là chi phí thực tế để sản xuất ra sản phẩm và giá trị thực tế
của nó. Nhưng đối với nhà tư bảnt vì không trực tiếp tham gia sản xuất nên họ cho
rằng đó là những chi phí về vốn về tư bản, có nghĩa là như tư bản chỉ cần ứng ra
một số vốn nhất định rồ chia nó thành 2 phần, 1 phần thuê công nhân ( v ), phần còn
lại mua tư liệu sản xuất ( c), những chi phí đó là chi phí sản xuất TBCN : K = C + v
; trước nếu chưa xuất hiện phạm trù chi phí sản xuất TBCN thì cơ cấu giá trị của sản
phẩm là c + v + m ; m là giá trị thặng dư do công nhân làm ra, nó được sinh ra từ v,
nhưng khi xuất hiện K thì cơ cấu giá trị thặng dư và thực chất bóc lột của CNTB đã
bị che đậy, nhà tư bản khẳng định rằng giá trị thặng dư được đẻ ra từ toàn bộ vốn
ứng trước và khẳng định dưới chế độ TBCN không có bóc lột lao động “ Kẻ có của,
người có công, máy móc sinh lời ”. Khi giá trị thặng dư được xem là do tư bản ứng
trước sinh ra thì nó mang một hình thức biến tướng mới Mác gọi đó là lợi nhuận ( p
), nên cơ cấu giá trị của sản phẩm là K + p. Giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận có
điểm giống nhau là chúng đều được sinh ra từ lao động làm thuê của công nhân,
nhưng giá trị thặng dư nêu ra được nguồn gốc bóc lột của CNTB là lao động không
công của người công nhân làm thêm, còn lợi nhuận ( p ) lại không nói lên điều đó.
Lợi nhuận là động lực thúc đẩy các nhà tư bản tham gia vào hoạt động sản
xuất kinh doanh, nhưng họ quan tâm hơn cả là đến tỷ suất lợi nhuận
%100./
vc
m
p
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư nhà tư
bản bóc lột được so với số tư bản ứng trước mà nhà tư bản bỏ ra. Tỷ suất giá trị
thặng dư m/ nói lên trình độ bóc lột của nhà tư bản, còn tỷ suất lợi nhuận thì mách
bảo cho nhà tư bản nên đầu tư vào đâu thì có lợi nhất. Vì trong xã hội có nhiều nhà
tư bản khác nhau nên có sự cạnh tranh giữa họ trong việc đâù tư sản xuất sao cho
lợi nhuận là cao nhất. Từ đó hình thành ra tỷ suất lợi nhuận bình quân nó “ là
tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư trong xã hội tư bản và tổng tư
bản xã hội đầu tư vào tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền sản xuất TBCN ”.
4. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư :
Tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp tác rời làm
chức năng thực hiện chuyểnn các hàng hoá và dịch vụ do tư bản công nghiệp sản
xuất ra công thức hoạt động trên là : T – H – T’. Như vậy lợi nhuận của nhà tư bản
thương nghiệp được tạo ra từ đâu ? mà theo Mác trong lưu thông giá trị không tạo
ra giá trị thặng dư ; mà mọi nhà tư bản hoạt động cũng chỉ vì mục đích lợi nhuận,
vậy họ tìm tiền