Lợi nhuận là một phạm trù kinh tế lớn, nó tồn tại song song với sự hình
thành và phát tri ển của nền kinh tế hàng hoá. Là mục tiêu cho chiến lược phát triển
doanh nghiệp nói riêng và toàn xã hội nói chung. Vì vậy, lợi nhuận có một vai trò
vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay,
nước ta đang phát triển nền kinh tế theo cơ chế mới – Cơ chế thị trường, chúng ta
cần phải xem xét vấn đề này một cách đúng đắn để từ đó thấy được xu hướng vận
động của nền kinh tế và tìm ra các chính sách phù hợp để phát triển kinh tế nước
nhà.
Xuất phát từ tầm quan trọng của lợi nhuận như đã trình bày trên. Đề án kinh tế
chính trị của em sẽ tập trung đi vào nghiên cứu một só vấn đề sau đây:
1. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.
2. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
3. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
37 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 3459 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn gốc, bản chất và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vai trò của lợi nhuận
trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam
lời mở đầu
Lợi nhuận là một phạm trù kinh tế lớn, nó tồn tại song song với sự hình
thành và phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Là mục tiêu cho chiến lược phát triển
doanh nghiệp nói riêng và toàn xã hội nói chung. Vì vậy, lợi nhuận có một vai trò
vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay,
nước ta đang phát triển nền kinh tế theo cơ chế mới – Cơ chế thị trường, chúng ta
cần phải xem xét vấn đề này một cách đúng đắn để từ đó thấy được xu hướng vận
động của nền kinh tế và tìm ra các chính sách phù hợp để phát triển kinh tế nước
nhà.
Xuất phát từ tầm quan trọng của lợi nhuận như đã trình bày trên. Đề án kinh tế
chính trị của em sẽ tập trung đi vào nghiên cứu một só vấn đề sau đây:
1. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.
2. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
3. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Nội dung
Chương I: Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.
I. Quan điểm của các trường phái kinh tế học về lợi nhuận:
1. Quan điểm của các nhà kinh tế học trước Mac:
a. Quan điểm của chủ nghĩa trọng thương về lợi nhuận:
Chủ nghĩa trọng thương là hệ tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản. Ra
đời vào khoảng những năm 1450_1650, phát triển mạnh nhất ở Anh sau đó là ở
Pháp và ý. Về mặt lịch sử, chủ nghĩa trọng thương ra đời khi phương thức sản xuất
phong kiến suy tàn và những mầm mống đầu tiên của phương thức sản xuất TBCN
hình thành và phát triển, trong thời kỳ chuyển từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn
sang nền kinh tế thị trường. Đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản, chính vì
vậy ngành thương mại_đặc biệt là ngoại thương được tôn vinh lên vị trí thống trị,
nó như một phương thuốc hữu hiệu cho sự giàu có của các quốc gia Tư Bản.
Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa trọng thương từ lĩnh vực lưu
thông và trao đổi hàng hoá, mà họ cho rằng:" lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông
mua bán, trao đổi sinh ra. Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt
mà có.1
Do hạn chế của lịch sử nên họ mới chỉ thấy được lợi nhuận từ lĩnh vực lưu
thông hàng hoá mà chưa thấy được nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận là trong sản
xuất. Chính vì vậy mà họ đã làm cho các doanh nghiệp xác định sai mục tiêu phấn
đấu và hậu quả là thất bại thị trường TBCN như: tình trạng sản xuất dư thừa, lừa
đảo, gian lận thương mại, không tập chung sản xuất để hoàn thiện sản phẩm, không
lấy chất lượng sản phẩm làm mục tiêu phát triển bền vững...Tư tưởng này đã nhanh
chóng đưa nền kinh tế lâm vào chỗ suy thoái, khủng hoảng và việc tháo gỡ chúng
càng trở nên bế tắc.
Mặc dù sai lầm nhưng quan điểm về "lợi nhuận" của trường phái trọng tiền cổ
điển lại có một giá trị lịch sử hết sức to lớn. Đó là những viên gạch đầu tiên để xây
dựng nên khái niệm khoa học, đầy đủ và chính xác về lợi nhuận và đồng thời cũng
là những viên gạch đầu tiên để xây dựng lên hệ thống các quan điểm, các quy luật
và các học thuyết kinh tế sau này.
b. Quan điểm về lợi nhuận của trường phái kinh tế chính trị học tư sản cổ điển
Anh.
Trong thời kỳ chủ nghĩa trọng thương, sự hoạt động của tư bản chủ yếu là trong
lĩnh vực lưu thông. Do quá trình phát triển của công trường thủ công,CNTB
chuyển sang quá trình sản xuất, lúc này các vấn đề kinh tế của sản xuất đã vượt quá
khả năng giải thích của lý thuyết chủ nghĩa trọng thương và học thuyết kinh tế cổ
điển xuất hiện. Các nhà kinh tế học của trường phái này lần đầu tiên chuyển đối
tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Lần đầu tiên họ xây
dựng một hệ thống các phạm trù và quy luật của nền kinh tế thị trường: như phạm
trù lợi nhuận, lợi tức, địa tô...Trong đó có một số quan điểm về lợi nhuận nổi bật là
quan điểm của william Petty, Adam Smith,David Ricardo.
+ W_Petty:2
Trong lý thuyết về thu nhập của mình, W_Petty không trực tiếp trình bày lợi
nhuận của doanh nghiệp mà ông trình bày hai hình thái giá trị thặng dư là lợi tức và
địa tô. Theo ông địa tô là số chênh lệch giữa thu nhập bán hàng và chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất bao gồm tiền lương và giống má. Trong khái niệm này, ông đã
đồng nhất giữa địa tô và lợi nhuận, từ đó ta có thể suy ra rằng: số chênh lệch giữa
giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất là giá trị thặng dư. Từ luận điểm này, theo Mac,
công lao của W_Petty là đã chỉ ra nguồn gốc giá trị thặng dư, mầm mống lý luận
về bóc lột theo lối TBCN. Về lợi tức, W_Petty cho rằng đó là phần thu nhập phát
sinh của địa tô, lợi tức là tô của tiền, lợi tức phụ thuộc vào địa tô, như vậy ông cho
rằng : phần lợi nhuận dôi ra phụ thuộc vào nhà tư bản là hợp lý, nó như phần
thưởng xứng đáng cho những mạo hiểm, rủi ro của nhà tư bản khi bỏ tiền ra để sản
xuất kinh doanh.
1 Trích Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế,Trường ĐHKTQD(1999),
trang 46 ChươngIII.
+ A_Smith:3
Ông cho rằng lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sảm phẩm của người lao
động, chùng đều có nguồn gốc là lao động không được trả công của công nhân.
Ông chỉ ra lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động bằng tiền
đi vay phải trả cho chủ của nó để được quyền sử dụng tư bản. Ông nhìn thấy xu
hướng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và xu hướng tỷ suất lợi nhuận bình quân
giảm dần do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên. Xuất phát từ sự phân tích giá trị
hàng hoá do người công nhân tạo ra A_Smith thấy một thực tế là công nhân chỉ
nhận được một phần tiền lương, phần còn lại là lợi nhuận địa tô thì của nhà tư bản.
+ D_Ricardo:4
Nếu như A_Smith sống trong thời kỳ công trường thủ công phát triển mạnh thì
D_Ricardo lại sống trong thời kỳ cách mạng công nghiệp, đó là điều kiện khách
quan để ông vượt được ngưỡng giới hạn mà A_Smith dừng lại.
Trên cơ sở kế thừa học thuyết kinh tế của A_Smith,về lợi nhuận, D_Ricardo
cho rằng:" lợi nhuận là số còn laị ngoài tiền lương mà nhà tư bản trả cho công
nhân". Bằng quan điểm này ông đã thấy lợi nhuận là một sản phẩm của lao động,và
ông nhìn thấy quan hệ bóc lột giữa chủ tư bản và người công nhân. Đồng thời ông
chỉ ra xu hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân do sự vận
động, biến đổi giữa ba giai cấp: Địa chủ , công nhân và tư bản.
2 Dựa theo Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế,Trường
ĐHKTQD(1999), trang 54-55 ChươngIII.
3 Dưa theo Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế,Trường
ĐHKTQD(1999), trang 65-67 ChươngIII.
4 Dưa theo Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế,Trường
ĐHKTQD(1999), trang 71-72 ChươngIII.
2. Quan điểm về lợi nhuận của John Keyes:
Keyes được Mác đánh giá là cha đẻ của kinh tế cổ điển và ông có công lao to
lớn trong lĩnh vực kinh tế. Khi phân tích phần thưởng cho sự gánh chịu rủi ro nói
chung chúng ta không tính đến cái rủi ro do vỡ nợ hay cái rủi ro có bảo hiểm. Có
một dạng rủi ro đặc biệt phải lưu ý là rủi ro đầu tư không được bảo hiểm, nó phải
được tính vào trong quá trình tính lợi nhuận doanh thu của công ty phụ thuộc rất
lớn vào thăng trầm trong chu kỳ kinh doanh. Do các nhà đầu tư không thích các
trường hợp rủi ro nên họ đòi hỏi phải có mức phí dự phòng rủi ro cho những đầu tư
không chắc chắn nhằm bù đắp cho những rủi ro của họ. Keyes cho rằng lợi nhuận
bằng doanh thu trừ đi chi phí, lợi nhuận kinh doanh được báo cáo chủ yếu là thu
nhập công ty.
3. Học thuyết về lợi nhuận của Mac:
a. Sự hình thành giá trị thặng dư :5
Kế thừa có phê phán những quan điểm của A.Smith và D.Ricendo, Mac đã xây
dựng nên học thuyết giá trị thặng dư học thuyết chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của
lợi nhuận.
Khi xem xét quá trình lưu thông trong CNTB, Mac đã thấy tiền với tư cách là tư
bản đã vận hành theo công thức T-H-T'. ở đây cho ta thấy rằng nếu số tiền thu về
T' bằng số tiền bỏ raT thì quá trình vận động này trở nên vô nghĩa. Mục đích của
lưu thông tiên tệ ở đây không phải là giá trị sự dụng màlà giá trị tăng thêm bởi vậy
số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra. Vậy T'= T+ T hay T'=T+m . Trong số
T(m), được Mac gọi là giá trị thặng dư.
5 Dưa theo Giáo trình Kinh tế chính trị, Trường ĐHKTQD(1998),ChươngIV
&Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế,Trường ĐHKTQD(1999), trang
107-123 ChươngV.
Vậy từ công thức vận hành trên , phải chăng m sinh ra từ lưu thông? để trả lời
câu hỏi này, Mac đã tiếp cận và giải quyết 3 trường hợp .
+ Nếu hàng hoá được trao đổi ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái giá trị
chứ tổng giá trị của mỗi bên là không thay đổi vậy trường hợp này m được loại bỏ.
+ Nếu người bán mua với giá thấp và bán với giá cao, thì chỉ làm giầu cho một
hay một số người nào đó chứ không thể giải thích được sự giầu có cho một quôc
gia tư bản, có nghĩa là đây chỉ là hình thức phân phối lại giá trị cho toàn bộ xã hội.
Do đó không tạo được m.
+ Nếu người mua mua với giá cao và cũng bán được với giá cao thì xét trong
toàn bộ xã hội tư bản gía trị không tăng lên, m phải được loại bỏ.
Như vậy dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì lưu thông cũng không
thể tạo ra m. Còn nếu là một sản phẩm thuần tuý chỉ cho sản xuất không được đem
ra lưu thông trao đổi thì nó chỉ là một vật phẩm không hơn không kém, sẽ không
tạo ra giá trị và như vậy sẽ không tạo ra giá trị thặng dư.
Vì vậy để tìm hiểu nguồn gốc của m thì Mac phải đi sâu để giải thích đầy đủ
công thức vì sự xuất hiện của giá trị thặng dư.
Nhìn vào công thức này bản chất của vấn đề đều được bộc lộ. Đi sâu nghiên
cứu qúa trình sản xuất TBCN là sản xuất ra giá trị tín dụng . Để tiến hành sản xuất
nhà tư bản phải bỏ ra mua tư liệu sản xuất và thuê công nhân (đi mua hàng hoá
sức lao động). Sức lao động là một loại hàng hoá đặc biệt mà nhà tư bản đã tìm
T-H
TLSX
SLĐ
SX-H'-T'
thấy trên thị trường. Ngoài hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng như các hàng
hoá thông thường khác, việc tiêu dùng hàng hoá sức lao động còn tạo ra cho nhà tư
bản một giá trị lớn hơn chi phí mà nhà tư bản bỏ ra.
Như vậy giá trị sử dụng của sức lao động chính là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng
dư, nhưng để thực hiện giá trị thặng dư thì nó phải thông qua lưu thông trao đổi
quá trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động có hai
đặc trưng.
- Người lao động chịu sự kiểm soát của chủ tư bản.
- Sản phẩm cho họ làm ra hoàn toàn phụ thuộc vào tay nhà tư bản.
Chính hai đặc chưng trên đã dẫn đến giá trị sức lao động mà nhà tư bản phaỉ trả
khi mua (giá cả sức lao động) luôn luôn nhỏ hơn giá trị mà sức lao động đó có thể
tạo ra. Điều này có thể giải thích được như sau: ngày lao động của công nhân được
chia thành 2 phần: phần lao động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị
ngang bằng với giá trị sức lao động của mình gọi là thời gian lao động cần thiết
phần còn lại của ngày lao động là thời gian lao động mà nhà tư bản được hưởng mà
không phải trả tiền. Trên thực tế, trong quá trình lao động người công nhân sáng
tạo ra một giá trị mới: (v+m) trong đó:
+ v là giá trị sức lao động (tư bản khả tiến)
+ m là giá trị thặng dư.
Tuy nhiên, người công nhân chỉ nhận đượctiền công bằng giá trị (giá cả sức lao
động), phần còn lại là giá trị thặng dư thuộc về nhà tư bản. Từ những lập luận trên ,
ta thấy giá trị thặng dư là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động cho người
công nhân sáng tạo ra bị nhà tư bản chiếm không ".
TRong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, các bộ phận khác nhau của tư bản có
tác dụng khác nhau. Có bộ phận tư bản được sử dụng trang nhiều quá trình sản
xuất. Có bộ phận được sử dụng vào sản xuất lại tiêu hao toàn bộ và chuyển biến
giá trị của nó vào sản phẩm trong một chu kỳ sản xuất. Bộ phận tư bản biến thành
tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo toàn và chuyển từng phần vào sản phẩm, tức là
giá trị không biến đổi vì lượng trong quá trình sản xuất được Mac gọi là tư bản bất
biến (ký hiệu c). Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra nhưng
thông qua lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên, tức là biến đổi về lượng
được Mác gọi là tư bản khả biến (Ký hiệu Q). Vậy tư bản khả biến là điều kiện cần
để tiến hành sản xuất giá trị thặng dư nhưng quyết định cho giá trị thặng dư lại là
tư bản khả biến, vì nó là bộ phận tư bản không ngừng tăng lên từ đó Mác cho rằng
giá trị hàng hoá = c+v+m.
b. Quá trình chuyển hoá giá trị thặng dư lợi nhuận:6
Như chúng ta đã biết muốn tạo ra giá trị hàng hoá tất yếu phải chi phí một số
lao động nhất định bao gồm: lao động sống và lao động quá khứ.
+ Lao động quá khứ: là giá trị của tư liệu sản xuất(c).
+ Lao động sống(lao động hiện tại) là lao động tạo ra giá trị mới (v+m).
Đứng trên quan điểm xã hội mà xét thì đó là chi phí thực tế để tạo thành giá trị
của hàng hoá (c+v+m). Tuy nhiên nhà tư bản chỉ ứng tư bản để sản xuất hàng hoá
tức là họ chỉ ứng ra một số tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động
(v). Chi phí đó, Mác gọi là chi phí sản xuất TBCN (ký hiệu K) K=c+v. Chúng ta
có thể thấy ngay một điều là chi phí sản xuất TBCN luôn nhỏ hơn chi phí thực tế
(giá trị hàng hoá). Rõ ràng rằng K=c+v < giá trị hàng hoá (GTHH) =c+v+m.
Như vậy giữ giá trị hàng hoá và K luôn có một khoảng chênh lệch cho nên sau khi
bán hàng hoá, nhà tư bản không nhưng bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra mà còn thu
được một số tiền lời bằng m, số tiền này được gọi là lợi nhuận (p).
Vậy GTHH = c+v+m = K+m hay GTHH = K+p
6 Dựa theo Giáo trình Kinh tế chính trị, Trường ĐHKTQD(1998), ChươngVI &
Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc
Gia(1999), ChươngVI , trang 162-185.
Liệu p và m có gì khác nhau?
Chỉ khi nào hàng hoá bán đúng giá trị thì p=m. Sự khác nhau giữ p và m được
thể hiện ở chỗ nếu hàng hoá bán với giá cả > GTHH thì p>m, còn nếu hàng hoá
bán với giá cả < GTHH thì p<m như vậy nhà tư bản có thể bán giá trị hàng hoá
dưới giá trị của nó mà vẫn có lợi nhuận chừng nào giá bán của hàng hoá còn cao
hơn chi phí sản xuất của nó.
Nếu xét dưới toàn bộ tư bản xã hội, thì tổng gía trị thặng dư bằng tổng mức lợi
nhuận .Do vậy về mặt xã hội mà xét thì giá trị thặng dư chính là lợi nhuận. Còn
nếu xét với từng nhà tư bản riêng lẻ thì lợi nhuận lại có xu hướng lên xuống xung
quanh gia trị thặng dư, điều này được giải thích do giá cả lên xuống xung quanh
giá trị hàng hoá. Chính vì vậy có thể nói, lợi nhuận không phải là giá trị thặng dư
mà nó chỉ là hình thức biểu hiện khác đi của giá trị thặng dư mà thôi. Tuy nhiên, sự
tồn tại của lợi nhuaqạnlại che dấu đi bản chất bóc lột của CNTB, bởi nó được sinh
ra từ k. Vàcũng chính vì thế, W_petty cũng như
A_smith mới nhầm tưởng rằng lợi nhuận là phần thưởng xứng đáng cho những rủi
ro trong kinh doanh mà nhà tư bản phải gánh chịu .
Trên thực tế các nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn quan tâm
đến tỷ suất lợi nhuận(p'): p'=
vc
m
100%, "tỷ suất lợi nhuận đó là tỷ số tính theo %
giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước". Nếu tỷ suất giá trị thặng
dư(m'=
v
m
100%) phản ánh trình độ bóc lột của giai cấp tư bản thì tỷ suất lợi nhuận
p' chỉ phản ánh mức đầu tư có hiệu quả như thế nào?
Do đó việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuậ là động lực thúc đẩy của
nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.
II. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư.7
1. Lợi nhuận công nghiệp:
Trong công nghiệp để cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho thị trường, các nhà sản
xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trínhản xuất và kinh doanh. Họ muốn chi phí cho
các đầu vào ít nhất và bán hàng hoá với với gía cao nhất để khi trừ đi các chi phí
còn số dư dôi ra. Số dư hay số chênh lệch giữa giá đầu vào và đầu ra của quá trình
sản xuất gọi là lợi nhuận công nghiệp. Phần lợi nhuận này giúp nhà tư bản không
những nuôi được bản thân và gia đình mình mà một phần trong đó còn được dùng
để tích luỹ và tái sản xuất mở rộng, củng cố, phát triển và tăng cường vị trí của
mình trên thị trường. Từ đó ta có thể hiểu một cách rõ ràng, lợi nhuận công nghiệp
chính là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu bán hàng và tổng mức chi phí bỏ ra
của những đơn vị sản xuất kinh doanh mang tính công nghiệp.8
2. Lợi nhuận thương nghiệp:
Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, họ cho rằng lợi nhuận là kết quả
của sự trao đổi không ngang giá hoạt động thương mại như một trò lừa đảo"bịt
bợm":"không một người nào thu lợi nhuận mà không làm là khác". Đây là quan
điểm sai lầm và nguyên nhân là do chủ nghĩa trọng thương đã tách hai quá trình
sản xuất và lưu thông thành hai lĩnh vực khác biệt.
Khác với những quan điểm trước, tư bản thương nghiệp dưới CNTB (tu bản
thương nghiệp hiện đại) là một bộ phận của tư bản công nghiêph tách rời ra, phục
vụ quá trình lưu thông hàng hoá của tư bản công nghiệp. Vai trò của tư bản công
nghiệp chỉ hạn chế ở mức năng mua và bán, hay nói cách khác nó không sáng tạo
7 Dựa theo Giáo trình Kinh tế chính trị, Trường ĐHKTQD(1998), ChươngVI &
Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc
Gia(1999), từ ChươngVII đến ChươngXIII , trang 192-385 &Tư Bản Luận
QuyểnI tập 1 trang 162-167.
ra giá trị và giá trị thặng dư, nó chỉ thực hiện giá trị và giá trị thặng dư mà thôi.
Nhìn bề ngoài thì lợi nhuận thương nghiệp là chênh lệch giữa việc mua và bán
hàng hoá. Nhưng thực chất:"lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư
được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho
nhà tư bản thương nghiệp. " nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương
nghiệp" là vì:
+ Tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng quy mô sản xuất:
+ Tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng thị trường.
+ Tư bản thương nghiệp có tính chuyên môn hoá cao trong lưu thông tạo
điều kiện cho tư bản công nghiệp rảnh tay tập chung vào sản xuất.
+ Tư bản thương nghiệp làm tăng tốc độ chu chuyển hàng hoá và chu chuyển
tư bản làm tăng lợi nhuận do đó làm tăng tích luỹ cho tư bản công nghiệp.
Tóm lại : lợi nhuận thương nghiệp (hay phần nhường giữa hai nhà tư bản này)
chính là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá).
3. Lợi tức:
Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp luôn có sóp
tư bản tiền tệ ứng trước tạm thời nhàn rỗi , Ví dụ như: tiền lương nhưng chưa đến
kỳ trả, tiền dùng để mua nguyên nhiên vật liệu nhưng chưa đến kỳ mua, bộ phận
giá trị thặng dư tích luỹ mà chưa sử dụng để thực hiện tái sản xuất mở rộng...Tất cả
số tư bản nhàn rỗi đó không đem lại một thu nhập nào cho nhà tư bản. Nhưng đối
với nhà tư bản thì tiền phải đẻ ra tiền. Chính vì vậy mà nhà tư bản sử dụng số tư ản
nhàn rỗi đó cho vay lấy lãi, và phần lãi ấy gọi là lợi tức. Vậy lợi tức là gì? "lợi tức
là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho
vay căn cứ vào món tiền mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay".
8 Kinh tế hoc David Begg.
Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra
trong lĩnh vực sản xuất. Phạn trù lợi tức tồn tại đã che dấu đi bản chất bóc lột của
CNTB. Nhưng quá trình vận động của tư bản cho vay đã vạch trần được điều đó.
4. Lợi nhuận ngân hàng:
Ngân hàng TBCN là tổ chức kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa người đi
vay và người cho vay. Ngân hàng có hai nhiệm vụ chính: nhận gửi và cho vay, còn
trong nghiệp vụ cho vay, ngân hàng thu lợi tức của người đi vay. Lợi tức nhận gửi
nhỏ hơn lợi tức cho vay.
"Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và nhận gửi trừ đi những khoản chi phí cần
thiết về nghiệp vụ ngân hàng cộng với các khoản thu nhập khác về kinh doanh tiền
tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng".
5. Lợi nhuận độc quyền.
Độc quyền ra đời từ tự do cạnh tranh, nó loại bỏ sự thống trị về tự do cạnh
tranh nhưng không thủ tiêu được cạnh tranh mà cạnh tranh ngày càng trở nên gay
gắt. Cạnh tranh dẫn đến độc quyền, độc quyền cũng để cạnh tranh tốt hơn
Bản chất ki