Đề tài Nguồn nhân lực công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chúng ta cần rất nhiều các loại nguồn lực. Và một trong những ngồn lưc quan trọng nhất giúp quá trình CNH,HĐH diễn ra nhanh và thành công đó là nguồn nhân lực. Nước ta thực hiện CNH,HĐH trong bối cảnh toàn cầu hoá diễn ra nhanh thì nguồn nhân lực có tri thức luôn là dòi hỏi khách quan. Nước ta đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có hai yếu tố cơ bản gắn bó với nhau, đó là kĩ thuật hiện đại và con người hiện đại.Vì thế phải đổi mới toàn diện con người, kỹ thuật- công nghệ hiện đại. Việc đổi mới kỹ thuật công nghệ diễn ra tương đối dễ dàng hơn khi chúng ta tạo được nguồn vốn (kể cả đi vay) và dùng vốn đó để nhập khẩu kỹ thuật công nghệ(KT-CN) hiện đại từ các nước tiên tiến.Đối với người lao động không thể nhập khẩu được.Muốn có sự tương thức,đồng bộ giữa KT-CN và con người đòi hỏi không chỉ số lượng và không phải chủ yếu ở số lượng mà ở chất lượng con người sử dụng phương tiện KT-CN đó .Vì vậy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hay đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một trong những yêu cầu cấp bách để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Chính vì vậy vấn đề đặt ra đối với mỗi quốc gia là phải thường xuyên chăm lo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội.

pdf30 trang | Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2072 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn nhân lực công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Đề tài: Nguồn nhân lực công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá Lời mở đầu Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chúng ta cần rất nhiều các loại nguồn lực. Và một trong những ngồn lưc quan trọng nhất giúp quá trình CNH,HĐH diễn ra nhanh và thành công đó là nguồn nhân lực. Nước ta thực hiện CNH,HĐH trong bối cảnh toàn cầu hoá diễn ra nhanh thì nguồn nhân lực có tri thức luôn là dòi hỏi khách quan. Nước ta đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có hai yếu tố cơ bản gắn bó với nhau, đó là kĩ thuật hiện đại và con người hiện đại.Vì thế phải đổi mới toàn diện con người, kỹ thuật- công nghệ hiện đại. Việc đổi mới kỹ thuật công nghệ diễn ra tương đối dễ dàng hơn khi chúng ta tạo được nguồn vốn (kể cả đi vay) và dùng vốn đó để nhập khẩu kỹ thuật công nghệ(KT-CN) hiện đại từ các nước tiên tiến.Đối với người lao động không thể nhập khẩu được.Muốn có sự tương thức,đồng bộ giữa KT-CN và con người đòi hỏi không chỉ số lượng và không phải chủ yếu ở số lượng mà ở chất lượng con người sử dụng phương tiện KT-CN đó .Vì vậy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hay đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một trong những yêu cầu cấp bách để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Chính vì vậy vấn đề đặt ra đối với mỗi quốc gia là phải thường xuyên chăm lo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội. Vì vậy việc chọn đề tài: “Nguồn nhân lực công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá” sẽ giúp chúng ta hiểu rõ được nguồn nhân lực hiện tại để có hướng phát triển đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH của Đảng , Nhà nước và toàn dân ta. Mục đích nghiên cứu là làm rõ thực trạng chất lượng nguồn nhân lực hiện nay và đưa ra những quan điểm và biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là toàn thể những người lao động hoạt động trong tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế đặc biệt là nguồn lao động có trình độ cao. Bởi đây là nguồn lao động quan trọng nhất đối với sự nghiệp CNH,HĐH của đất nước. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp để từ đó rút ra nhưng nhận định, nhận xét đúng đắn về tình hình nguồn nhân lực. Phần thứ nhất: Nguồn nhân lực. I.Các khái niệm về nguồn nhân lực. 1. Nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực với tư cách là nơi cung cấp sức lao động cho xã hội, nó bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (không bị khiếm khuyết hoặc dị tật bẩm sinh). Nguồn nhân lực có thể với tư cách là một nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội ,là khả năng lao động của xã hội , được hiểu theo nghĩa hẹp hơn ,bao gồm những nhóm dân cư trong độ tuổi lao động ,có khả năng lao động. Nguồn nhân lực còn được hiểu với tư cách là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động,là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động.Với cách hiểu này, nguồn nhân lực bao gồm những nguời từ bắt đầu bước vào tuổi lao động trở lên có tham gia vào nền sản xuất xã hội. Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về việc xác định qui mô nguồn nhân lực.Nguồn nhân lực còn được xem xét trên giác độ số lượng và chất lượng.Số lượng được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu về số lượng này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng dân số. Qui mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì dẫn đến qui mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại.Tuy nhiên mối quan hệ dân số và nguồn nhân lực được biểu hiện sau một thời gian khoảng 15 năm(vì lúc đó con người mới bước vào độ tuổi lao động). 2.Nguồn nhân lực công nghiệp. Nguồn nhân lực công nghiệp có thể hiểu là những người đang làm việc, đang hoạt động trong những nghành công nghiệp. Đối với Việt Nam mục tiêu tới năm 2020 hoàn thành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì nguồn lực công nghiệp được quan tâm hàng đầu. Chúng ta tập chung mọi nguồn lực cho phát triển các nghành công nghiệp hàng đầu cũng như các nghành công nghiệp nặng. Việc đầu tư cơ sở vật chất cho CNH,HĐH đất nước phải song song với việc đầu tư cho nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp. Với sự phát triển mạnh của các nghành công nghiệp thì ngày càng thu hút nhiều lao động hoạt động trong lĩnh vực này, tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp ngày càng tăng cao. Tuy nhiên nguồn nhân lực của chúng ta trình độ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc CNH,HĐH. Muốn CNH,HĐH thành công thì nguồn nhân lực trong các nghành công nghiệp không những đông về số lượng mà phải có chất lượng cao. II. Thực trạng và vai trò nguồn nhân lực của Việt Nam. 1.Thực trạng của nguồn nhân lực Việt Nam. a. Quy mô nguồn nhân lực Việt Nam. Việt Nam là một trong những nước đông dân số với quy mô dân số đứng thứ hai Đông nam á và thứ mười ba trên thế giới. Một đất nước với cơ cấu dân số trẻ với số người trong độ tuổi 16-34 chiếm 60% trong tổng số 35,9 triệu người lao động: nguần bổ sung hàng năm là 3%-tức khoảng 1,24 triệu người. Theo tổng điều tra dân số ngày 1-4-1999, quy mô dân số nước ta là 76,3 triệu người và dự tính đến năm 2010 quy mô dân số nước ta vào khoảng 95 triệuvà số người trong tuổi lao động gần 58 triệu, chiếm 60,7% dân số. Dự báo thời kỳ 2001 đến 2010 cần tạo thêm chỗ làm việc mới cho khoảng 11-12 triệu lao động (chưa kể số lao đông tồn động các năm chuyển sang), bình quân mỗi năm phải tạo thêm 1,1 đến 1,2 triệu chỗ làm việc mới. Tính đến 1/7/2000, tổng lực lượng lao động cả nước có 38.643.089 người, so với kết quả điều tra tại thời điểm 1/7/1996 tăng bình quân hàng năm là 975.645 người, với tốc độ tăng 2,7% một năm, trong khi tốc độ tăng bình quân hàng năm của thời kỳ này là 1,5% một năm. So với các nước trong khu vực, quy mô dân số Việt Nam cùng với Philippin và Thái Lan ở vào khoảng trung bình. Nhưng nếu so sánh với thế giới thì về quy mô dân số, Việt Nam đứng thứ 13, còn trong ASEAN, Việt Nam xếp thứ hai, chỉ sau Inđônêxia. điều đó được thể hiện qua bảng sau: Một số chỉ tiêu về dân số và lao động của các nước ASEAN Nước Dânsố Tỷ lệ tăng dân số(%) Lực lượng lao động 1994 (Triệu người) 1960-1992 1992-2000 1994 (triệu người) % tăng giai đoạn 90-94 % trong dân số Brunây 0,284 3,8 2,1 0,112 --- Inđônêxia 192,2 2,2 1,7 81,2 1,1 43 Malaixia 19,5 2,6 2,1 7,85 2,8 38 Philippin 68,6 2,7 2,0 27,48 3,0 56 Thái Lan 59,4 2,4 1,1 32,84 1,1 56 Việt Nam 72,5 2,2 2,1 33,7 2,8 49 Xingapo 2,93 1,7 1,7 1,69 2,9 56 Nguồn: - Chỉ tiêu và chỉ số phát triển con người,Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995. Xem bảng trên ta thấy dân số trong toàn khối giai đoạn 1960-1992 còn khá cao, trừ Xingapo có tỷ lệ là 1,7% và trải qua thời kỳ chuyển tiếp dân số. Trong giai đoạn 1992-2000, có thêm Inđônêxia và Thái Lan giảm được tỷ lệ tăng dân số. Riêng Việt Nam luôn nằm ở nhóm có tỷ lệ gia tăng dân số cao trong khu vực: 2,2% trong giai đoạn 1992-2000. điều này dẫn đến sự gia tăng lực lượng lao động trong những năm 90 còn cao ở phần lớn các nước trong khối: Malaixia là 2,8%; Philippin là 3%; Việt Nam là 2,8%; Xingapo là 2,9%. Với tốc độ tăng dân số nhanh và còn được duy trì như vậy, tỷ lệ gia tăng lực lượng lao động của Việt Nam trong cả giai đoạn 1960-1992 và tiếp theo cho đến nay là điều khó tránh khỏi. Năm 1986, Việt Nam mới có 30,3 triệu người trong độ tuổi lao động thì đến năm 1995 đã tăng đến 40,2 triệu người, bình quân mỗi năm tăng khoảng một triệu người, tức là khoảng 3,22%. Ngoài ra còn phải kể đến số người ngoài độ tuỏi lao động nhưng thực tế có làm việc cũng tăng lên, tạo thành một nguần cung cấp về lao động khá dồi dào: cuối năm 1995 có 3,7 triệu người, trong đó có 1,3-1,4 triệu trẻ em (nguần: kim Ngọc Cương, ''phân tích và dự báo thị trường lao động ở nước ta'', Bộ kế hoạch và đầu tư, tạp chí kinh tế và dự báo, số 5/1997, tr.19). Đối với Việt Nam, ngoài hai yếu tố về số người trong và ngoài độ tuổi lao động kể trên, còn có thể tính đến một số yếu tố mang tính chất biến động cơ học làm tăng nguần lao động của Việt Nam hiện nay như: số bộ đội giải ngũ; số lao động đi làm ở các nước Đông Âu, Trung Đông trở về; số người tỵ nạn ở Thái Lan, Hồng Kông, Malaixia, Việt kiều ở Campuchia hồi hương… Như vậy, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào và thường xuyên được bổ sung bằng đội ngũ lao động trẻ, hùng hâụ, tạo nên một trong những ưu thế cho Việt Nam trong việc tham gia và hoà nhập vào nền kinh tế khu vực va thế giới. b. Quy mô nguồn nhân lực qua đào tạo cuả Việt Nam và việc sử dụng nguồn nhân lực này. Việt Nam tuy có lực lượng lao động dồi dào nhưng lực lượng lao động đã qua đào tạo thực tế lại thiếu. đó là mâu thuẫn về quy mô của nguồn nhân lực nước ta, chúng ta vừa thừa vừa thiếu nguồn nhân lực. Hiện nay đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước thuộc các bộ, các ngành ở các cơ quan trung ương có 129763 người, trong đó có 74% công chức có trình độ từ đại học trở lên. Khi nói đến nguồn nhân lực của một quốc gia thường người ta hay quan tâm đến số lượng học sinh, sinh viên được đào tạo hàng năm ở các trường trung học chuyên nghiệp, trường công nhân kỹ thuật, các trường đại học, cao đẳng trong quốc gia đó. Bởi đó là con số nói lên số lao động được đào tạo hàng năm và chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia. ở Việt Nam, số học sinh và sinh viên thuộc các trường trung học chuyên nghiệp, kỹ thuật, cao đẳng và đại học trong cả nước từ năm 1992 đến năm 1997 (chỉ tính học sinh, sinh viên hệ chính quy) như sau: Đơn vị tính: 1.000 người Năm 199 2 199 3 199 4 199 5 199 6 19 97 Trung học chuyên nghiệp 107 ,8 119 ,0 155 ,6 170 ,5 172 ,4 16 4,1 Số tốt nghiệp 43, 5 44, 9 49, 0 56, 3 59, 3 68, 3 Công nhân kỹ thuật 57, 6 68, 7 74, 7 58, 7 69, 9 10 2,5 Số tốt nghiệp 35, 2 38, 0 64, 9 66, 4 75, 1 70, 6 Cao đẳng, đại học 136 ,8 157 ,1 203 ,3 297 ,9 509 ,3 66 2,8 Số tốt nghiệp 24, 8 29, 1 36, 9 58, 5 78, 5 74, 1 Nguồn: niên giám thống kê 1998-Nxb Thống kê, 1999, tr342, 345 &349 Theo bảng trên ta thấy, cơ cấu đào tạo ở các cấp bậc rất khác nhau, số sinh viên cao đẳng,đại học tăng nhanh trong những năm gần đây, trong khi đó số học sinh trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật tăng rất chậm và biến đổi bất thường khi lên khi xuống nhất là số công nhân kỹ thuật. Nếu năm 1994 các trường công nhân kỹ thuật có 74.700 học sinh, thì năm 1995 còn 58.700 học sinh , song đến năm 1997 lại tăng lên 102.500 học sinh. Chính điều đó tạo nên sự thiếu hụt lớn số công nhân kỹ thuật và cán bộ có trình độ trung cấp, và ngược lại dẫn tới sự lãng phí chất xám, bởi sẽ có những sinh viên có trình độ cao đẳng hoặc đại học đảm nhận những công việc của công nhân kỹ thuật hoặc trung cấp. Hiện nay số sinh viên đại học, cao đẳng vẫn tiếp tục tăng nhanh, năm 2000 số sinh viên cao đẳng, đại học là gần 1 triệu bằng 1,8 lần năm 1995, vượt dự kiến kế hoạch 5 năm (1996-2000) là 13% (Lê Quang Trung: biện pháp cho vấn đề lao động thất nghiệp ở thành thị-Vụ chính sách lao động và việc làm) và năm học 2001-2002 tổng chỉ tiêu cho các trường cao đẳng, đại học tăng 5% tức khoảng 160.000 sinh viên, tăng 10.000 sinh viên so với năm trước. Số học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp, kỹ thuật, cao đẳng và đại học năm 1992 là 103.500 người, thì đến năm 1996 là 212.900 người và năm 1997 là 213.000 người bổ sung cho nguồn nhân lực của đất nước . Tỷ lệ lao động được đào tạo trong tổng lực lượng lao động xã hội tăng lên hằng năm được thể hiện qua bảng sau: Năm Tỷ lệ lao động được đào tạo/tổng lực lượng lao động xã hội(%) 1988 9,45 1992 11 1995 13,8 1997 16 Nguồn: dự thảo Nghị quyết Trung ương 4 khoá 8-Bộ chính trị. Tính đến năm 1998, số cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học là trên 930.000 người, trong đó khoảng trên 10.000 người là cán bộ có trình độ trên đại học. đội ngũ này chiếm 2,3% lực lượng lao động xã hội. Số sinh viên tốt nghiệp đại học hàng năm khoảng 25.000 người có học vị trên đại học bổ xung vào nguồn nhân lực chất lượng câo. Hàng năm ở Việt Nam tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học trên 1000 dân đang tăng lên: Năm Tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học/1000 dân 1994 9 1996 11 1997 12 Trong khi đó ở các nước khác là: Nước Tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học/1000 dân Hàn quốc 52 Singapo 16 Italia 21 Nhật bản 70 Nguồn:Võ Đại Lược-CNH, HĐH ở Việt Nam đến năm 2000. Nxb KHXH,Hà Nội. So sánh các số liệu trên ta thấy giữa số lượng nguồn nhân lực được đào tạo ở Việt Nam so với các nước khác vẫn đang còn khoảng cách khá xa, chứ chưa nói đến nguồn nhân lực có chất lượng cao. Mặt khác cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực cũng chưa phù hợp, thể hiện ở cỗ một số ngành được đào tạo ồ ạt như ngành kinh tế, luật trong khi đó các ngành kỹ thuật, công nghệ tin học, khoa học cơ bản chưa được coi trọng đúng mức. Do đó, xét cả những điều kiện kinh tế-xã hội lẫn những điều kiện về nguồn nhân lực cho thấy chúng ta chưa đủ điều kiện để xây dựng nền kinh tế tri thức, mà chỉ tiếp cận nó trên một số lĩnh vực chúng ta có khả năng. 2.Chất lượng nguồn nhân lực . Nếu như trong các thập niên trước đây, nhân công nhiều và rẻ được coi như thế mạnh hàng đầu khi xem xét các lợi thế về nguồn nhân lực thì trong những năm gần đây, yếu tố chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nhấn mạnh. Các yếu tố được xem xét trước hết là thể chất, thể lực, năng lực của nguồn nhân lực. a. Về trí lực và thể lực. Người Việt Nam có truyền thống cần cù, thông minh, ham học hỏi, cầu tiến bộ, có ý chí và tinh thần tự lực tự cường dân tộc phát triển khá về thể lực, trí lực, có tính cơ động cao có thể tiếp thu nhanh kiến thức khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại. Có thể nói đây là một trong số các lợi thế so sánh cuẩ ta trong quá trình hội nhập. Bảng: một số chỉ tiêu về sức khoẻ, y tế của các nước ASEAN. Chỉ tiêu Thời gian Vi ệt Na m Br un ây Inđô nêxi a Ma lai xia Phi lip pin Thái Lan Xinga po Tuổi thọ bình quân 1992 63, 4 74 62 70, 4 64, 4 68,7 74,2 Cung cấp calo bình quân/người 1988- 1990 22 20 28 60 2610 26 70 23 40 2280 3210 Tỷ lệ cung cấp calo /người so với nhu cầu tối thiểu(%) 1988- 1990 10 2 - 112 12 4 10 8 100 144 Tỷ lệ được dịch vụ y tế (%) 1985- 1991 90 96 80 90 75 70 100 Tỷ lê được dùng nước sạch (%) 1988- 1991 27 95 51 72 82 76 100 Nguồn: chỉ số và chỉ tiêu phát triển con người. Nxb Thống Kê, Hà Nội, 1995. Bảng: Qua bảng trên ta thấy: các chỉ số của Việt Nam luôn luôn ở mức thấp, có những chỉ số ở mức thấp nhất trong khu vực. Những chỉ tiêu liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển thể chất, thể lực của người lao động Việt Nam tất thấp: cung cấp calo bình quân đầu người chỉ có 2220 calo, thấp nhất trong khu vực. Về tỷ lệ cung cấp calo bình quân đầu người so với nhu cầu tối thiểu, Việt Nam, chỉ cao hơn Thái Lan 100%, kém Inđônêxia 122%, Xingapo 144%, Philippin 108%, Malaixia 124%. Một loạt các chỉ tiêu khác liên quan đến y tế, chăm sóc sức khoẻ của Việt Nam cũng còn ở mức thấp. điều đó lý giải phần nào sự hạn chế về mặt thể lực của nguồn nhân lực của Việt Nam. Cho đến nay, thể lực của người lao động Việt Nam còn chưa đáp ứng được những yêu cầu của nền sản xuất công nghiệp lớn và ở đây đã bộc lộ một trong những yếu điểm cơ bản của nguồn nhân lực Việt Nam. Tương quan so sánh về trình độ giáo dục của lực lượng lao động cuả Việt Nam với các nước ASEAN có thể hình dung được qua các số liệu trong bảng sau: Một số chỉ tiêu về giáo dục của các nước ASEAN. Chỉ tiêu Thời gian Vi ệt Na m Br un ây Inđô nêxi a Ma lai xia Phi lip pin Thái Lan Xi ng ap o Đại học và sau trung học(*) 5,1 - - 5 - - 22 Trung học(*) 8,8 - - 48 - - 30 Tiểu học và thấp hơn(*) 85, 1 - - 47 - - 47 Tỷ lệ người biét chữ từ 15 tuổi trở lên(%) 1992 89 - 84 80 90 94 - Số năm đi học tính cho người từ 25 tuổi trở lên(năm) 1992 4,9 5,0 4,1 5,6 7,6 3,9 4,0 Số cán bộ khoa học kỹ thuật trên 1000 người 1986- 1991 - 21, 7 12,1 - - 1,2 22, 9 Tỷ lệ chi cho giáo dục trong GNP(%) 1991 1,6 - 2,5 6,9 2,9 3,8 3,4 GNP bình quân đầu người cho giáo dục($ Mỹ) 1991 4 - 21,9 51 0,6 21, 46 62,7 48 0,8 (*) Trình độ giáo dục cuả dân số trong độ tuổi lao động (%). Nguồn: chỉ số và chỉ tiêu phát triển con người, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995. Như vậy, bên cạnh một vài chỉ tiêu đáng mừng như tỷ lệ người biết chữ từ 15 tuổi trở lên đạt được 89% năm 1992, tăng 6% so với năm 11989, thực trạng trình độ nguồn nhân lực Việt Nam còn nhiều vấn đề đáng lo ngại: số người mù chữ từ 15 tuổi trở lên còn 4,7 triệu năm 1992; trong toàn bộ dân số ở độ tuổi lao động, chỉ có 5,1% là có trình độ đại học và sau trung học, 8,8% có trình độ trung học; trong tổng số lực lượng lao động, số lao động kỹ thuật chỉ chiếm có 12%: năm 1995, trong số 40,2 tiệu người chỉ có 4,7 triệu người là lao động có kỹ thuật. Một mặt, Việt Nam đã có những cố gắng không thể không ghi nhân trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nói chung, chất lượng nguồn nhân lực nói riêng như: số học sinh cao đẳng và đại học đã tăng từ 129.600 người năm 1990 lên 279900 người năm 1995, tức là tăng gần 2,3 lần trong 5 năm; số tốt nghiệp đại học từ 20.500 năm1990 tăng lên 58.500 năm 1995; số học sinh trung học chuyên nghiệp từ 135.400 năm 1990 lên 197.500 năm 1995, số tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp từ 39.900 năm 1990 lên 56.300 năm 1995. Chưa kể đến tỷ lệ chi cho giáo dục trong GDP đã tăng nhanh từ 1,6% năm 1991 lên 2,75% năm 1993, gần 6% năm 1994. Nhưng để đạt được mức độ chung như các nước khác ngay trong khối ASEAN, rõ ràng chúng ta còn phải đầu tư nhiều thời gian và công sức, tiền của cho công tác giáo dục đào tạo để biến những tiềm năng của nguồn nhân lực Việt Nam thành hiện thực. b. Khả năng tư duy của lao động nước ta. Nguồn nhân lực Việt Nam với xuất phát điểm thấp, trước yêu cầu lớn của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế tỏ ra bất cập. Từ nền kinh tế nông nghiệp, phong cách, tư duy con người Việt Nam còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, thủ công, lạc hậu. Sản xuất và quản lý bằng kinh nghiệm theo kiểu trực giác, lấy thâm niên công tác, cụ thế nghề nghiệp và lòng trung thành để đánh giá kết quả lao động và phân chia thu nhập. Lao động chưa được đào tạo và rèn luyện trong môi trường sản xuất công nghiệp nên hiệu suất lao động chưa được đề cao và đánh giá đúng mức. Khi tiến bộ khoa học-kỹ thuật và công nghệ hiện đại được thâm nhập và chuyển giao vào Việt Nam thì mâu thuẫn giữa trình độ hiện đại của trang thiết bị kỹ thuật-công nghệ với trình độ lạc hậu của người sử dụng xuất hiện. Người quản lý, người sử dụng công nghệ thì không thể tiếp thu, càng không thể khai thác có hiệu quả công nghệ, nên làm giảm hiệu suất của vốn đầu tư. Hiện nay, công nghệ Việt Nam ở mức trung bình kém. Trong các ngành công nghiệp, hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu từ 2 đến 4 thế hệ so với thế giới. Các chỉ tiêu chủ yếu về tiêu hao nguyên, nhiên, vật liệu gấp 1,5 đến 2 lần mức chung của thế giới, giá thành sản phẩm cao, năng suất lao động công nghiệp chỉ đạt 30% mứ trung bình của thế giới( theo số liệu báo cáo của GS Đặng Hữu tại Hội nghị cán bộ khoa học-công nghệ toàn quốc ngày 12-2-1995). Số nhân công có trình độ bậc 4 trở lên chỉ bằng 1/3 tổng số công nhân kỹ thuật, công nhân có trình đ