Các nhà kinh tế hàng đầu thế giới cho rằng: Các nước đang phát
triển nên dollar hoá nền kinh tế hoàn toàn hay một phần tức là sử dụng
song song cả USD và nội tệ. Dollar hoá sẽ cho chúng ta thấy những lợi
thế: Tránh khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng cán cân thanh toán.
Song dollar hoá như một lẽ tự nhiên sẽ gây ra những ảnh hưởng bất lợi
đến tất cả các ngành kinh tế quốc dân.
Đứng trước một vấn đề gay gắt và nóng bỏng, lại phụ thuộc rất
nhiều yếu tố tâm lý, ngành Ngân hàng cũng như các ngành khác cần
nỗ lực phấn đấu trong quá trình chống dollar hoá.
Là một sinh viên ngành Ngân hàng, em xin đóng góp một số ý
kiến của bản thân về nguyên nhân, thực trạng và giải pháp cần thiết
chốngdollar hoá trong nền kinh tế nước ta.
40 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2239 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguyên nhân, thực trạng và giải pháp cần thiết chống dollar hoá trong nền kinh tế nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
…………..o0o…………..
Luân văn
"Nguyên nhân, thực trạng và giải pháp
cần thiết chống dollar hoá trong nền
kinh tế nước ta"
2
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 9/01/2001, Tổng thống Ecuador chấp nhận đồng dollar Mĩ
(USD) là một công cụ tiền tệ chính thức, hợp pháp.
Ngày nay, trong một thời đại phát triển như vũ bão với sự tăng
trưởng nhanh chóng của thương mại thế giới, hầu hết các nước trên thế
giới đều có nhu cầu về một đồng tiền mạnh (USD là một trong số đó).
Và vì vậy những sự kiện về việc phá giá đồng tiền nước nào đó so với
đồng USD hay chấp nhận USD được lưu hành một cách rộng rãi trên
đất nước đó không còn là quá xa lạ với chúng ta. Người ta gọi hiện
tượng đó bằng thuật ngữ “Dollar hoá”, song để hiểu được bản chất
cũng như mặt tích cực hay tiêu cưc của nó hoàn toàn không phải vấn
đề đơn giản.
Với vị thế của một nước đang phát triển, Việt Nam đang vấp
phải bao vấn đề nan giải, khó khăn trong đó có vấn đề về đồng vốn
đầu tư. Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, khuyến khích
người Việt Nam ở nước ngoài gửi tiền về nước để góp phần thực hiện
công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước đã làm cho luồng vốn ngoại tệ
chảy mạnh vào trong nước. Thêm vào đó, tâm lý ưa chuộng đồng USD
của người dân Việt Nam khiến đồng USD ngày càng bành trướng và
việc sử dụng USD trong các giao dịch hàng ngày ngày càng phổ biến.
Nếu cứ sử dụng USD ngày một nhiều hơn trên thế giới, đồng tiền này
sẽ trở thành quốc tế hoá mạnh hơn trong điều kiện toàn cầu hoá.
Chúng ta đang xúc tiến quá trình hội nhập với thế giới nhưng vẫn phải
giữ được vị thế của một nưóc độc lập, có chủ quyền riêng. Thừa nhận
3
rằng nền kinh tế Việt Nam đang trong tình trạng dollar hoá, mà cụ thể
hơn là dollar hoá tiền gửi, bởi một vài năm gần đây các Ngân hàng ứ
thừa vốn ngoại tệ không cho vay được trong khi nền kinh tế đang cần
vốn đầu tư phát triển là một thực trạng đáng buồn.
Các nhà kinh tế hàng đầu thế giới cho rằng: Các nước đang phát
triển nên dollar hoá nền kinh tế hoàn toàn hay một phần tức là sử dụng
song song cả USD và nội tệ. Dollar hoá sẽ cho chúng ta thấy những lợi
thế: Tránh khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng cán cân thanh toán.
Song dollar hoá như một lẽ tự nhiên sẽ gây ra những ảnh hưởng bất lợi
đến tất cả các ngành kinh tế quốc dân.
Đứng trước một vấn đề gay gắt và nóng bỏng, lại phụ thuộc rất
nhiều yếu tố tâm lý, ngành Ngân hàng cũng như các ngành khác cần
nỗ lực phấn đấu trong quá trình chống dollar hoá.
Là một sinh viên ngành Ngân hàng, em xin đóng góp một số ý
kiến của bản thân về nguyên nhân, thực trạng và giải pháp cần thiết
chống dollar hoá trong nền kinh tế nước ta.
4
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
................................................................................. 1
NỘI
DUNG..................................................................................
.... 2
PHẦN I. VÀI NÉT VỀ DOLLAR HOÁ VÀ
THỰC TRẠNG DOLLAR HOÁ Ở VIỆT NAM
.................................................................... 2
I. Khái quát về dollar hoá.
......................................................... 2
1. Thế nào là dollar
hoá?................................................... 2
2. Phân loại dollar
hoá...................................................... 3
II. Thực trạng dollar hoá ở Việt
Nam............................................ 5
PHẦN II. NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG
DOLLAR HOÁ VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA
DOLLAR HOÁ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT
NAM.....................................................................................
................. 10
I. Nguyên nhân của tình trạng dollar
hoá............................... 10
5
1. Nguyên nhân sâu
xa...................................................... 10
2. Nguyên nhân trực
tiếp.................................................. 11
II. Ảnh hưởng của tình trạng dollar hoá đến nền
kinh tế
Việt
Nam.................................................................................. 13
1. Tác động tích
cực.......................................................... 14
2. Tác động tiêu
cực.......................................................... 14
PHẦN III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN
NGHỊ................................. 17
I. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề
dollar hoá........ 17
II. Các giải pháp và kiến
nghị.................................................... 18
1. Một số giải pháp đã được đề
xuất................................. 18
2. Những hạn chế của các giải pháp đã được đề
xuất....... 18
3. Những giải pháp kiến
nghị............................................ 20
KẾT
LUẬN........................................................................... 23
6
TÀI LIỆU THAM
KHẢO.................................................... 24
NỘI DUNG
PHẦN I: VÀI NÉT VỀ DOLLAR HOÁ VÀ THỰC TRẠNG
DOLLAR HOÁ Ở VIỆT NAM.
I. KHÁI QUÁT VỀ DOLLAR HOÁ:
1.Thế nào là dollar hoá ?
Thông thường, mỗi một quốc gia đều có đồng tiền riêng của
mình, thực hiện đầy đủ các chức năng tiền tệ, trừ chức năng tiền tệ thế
giới mà không phải đồng tiền nào cũng làm được. Khi một nền kinh tế
có tỷ lệ lạm phát cao, sức mua của đồng bản tệ gỉam xuống thì người
dân phải tìm đến các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng
ngoại tệ có uy tín. Song song với chức năng làm phương tiện cất trữ,
dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng
làm phương tiện thanh toán cũng như làm thước đo giá trị.
7
Như vậy, trong một nền kinh tế, khi ngoại tệ đươc sử dụng một
cách rông rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc một số các
chức năng của tiền tệ thì có thể hiểu nền kinh tế đó bị “ngoại tệ hoá”
hay “dollar hoá”. Trên thế giới hiện nay, đồng USD là đồng tiền được
ưa chuộng nhất do đó là một ngoại tệ mạnh, có khả năng chuyển đổi
lớn nên thuật ngữ dollar hoá được xem là đồng nghĩa với ngoại tệ hoá.
Hiện tượng dollar hoá được biểu hiện ở một nước có thể xác
định qua các hình thức:
_ Đồng dollar được sử dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp,
trong công chúng qua các hành vi mua bán hàng hoá, chi trả dịch vụ,
thanh toán nợ và tạo lập tài sản danh nghĩa bằng đồng dollar.
_Hệ thống ngân hàng cho sử dụng rộng rãi các hình thức kí
thác các loại tiền gửi, tiền tiết kiệm, kì phiếu, trái phiếu ngân hang
bằng đồng dollar và cho vay bằng đồng dollar.
2. Phân loại dollar hoá:
Theo IMF, tỷ lệ dollar hoá của một nền kinh tế được căn cứ
vào tỷ lệ giữa tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng so với lượng tiền
cung ứng theo nghĩa rộng (M2). Theo cách tính này, IMF cho rằng nếu
tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên M2 trong một nền kinh tế lớn hơn 30% thì
nền kinh tế đó có thể coi là gặp phải tình trạng dollar hoá cao. Theo
đánh giá của IMF năm 1998, trường hợp này có mười tám nước. Ba
mươi tư nước khác được IMF xếp là nước có mức độ “dollar hoá vừ
phải” với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2 khoảng 16,4%, Việt Nam được
IMF xếp vào loại này.
Về cơ bản, dollar hoá gồm ba loại chính là: Dollar hoá không
chính thức (unoficial dollarization), dollar hoá bán chính thức
8
(semioficial dollarization) và dollar hoá chính thức (official
dollarization).
_Dollar hoá không chính thức: là trường hợp ngoại tệ được sử
dụng rộng rãi trong nền kinh tế mặc dù không được quốc gia này
chính thức thừa nhận. Thuật ngữ “dollar hoá không chính thức” bao
gồm cả các trường hợp nắm giữ tài sản nước ngoài hợp pháp và không
hợp pháp. Ở một số nước, việc giữ một số tài sản ngoại tệ là hợp pháp
như các tài khoản bằng USD tại các ngân hàng trong nước, nhưng lại
không hợp pháp khi có tài khoản tại ngân hàng nước ngoài trừ phi
được cấp phép.
Dollar hoá không chính thức có thể gồm các loại sau:
_Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài;
_Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài;
_Tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng trong nước;
_Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi.
Dollar hoá không chính thức được chia thành 3 giai đoạn:
Các nhà kinh tế thường gọi giai đoạn đầu của dollar hoá không
chính thức là giai đoạn “thay thế tài sản” (asset substitution). Trong
giai đoạn này, người dân giữ trái phiếu ngoại tệ và các khoản tiền gửi
ở nước ngoài như một phương tiện cất trữ nhằm tránh việc giảm giá trị
9
tài sản do lạm phát ở trong nước hay việc tịch thu tài sản sung công
mà một số nước đã làm.
Giai đoạn thứ hai của dollar hoá không chính thức được các
nhà kinh tế gọi là giai đoạn “thay thế tiền tệ” (currency substitution).
Trong giai đoạn này, người dân giữ một khối lượng lớn các trái phiếu
ngoại tệ và tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng trong nước (nếu
được phép). Ngoại tệ vừa thực hiện chức năng là phương tiện thanh
toán và phương tiện cất trữ. Tiền lương, thuế hay những chi tiêu hàng
ngày như hàng tạp phẩm hay các hoá đơn điện được thanh toán bằng
nôị tệ, nhưng với những tài sản giá trị hơn như ôtô và nhà cửa thường
được trả bằng ngoại tệ.
Trong giai đoạn cuối cùng của dollar hoá không chính thức,
giá cả của hàng hoá được tính bằng nội tệ nhưng mọi người đều liên
tưởng đến ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái.
Dollar hoá không chính thức rất phổ biến ở các nước đang phát
triển.
Ví dụ: Ở thời điểm tháng1-2000, hầu hết các nước Mĩ_Latinh
và Caribe như Argentina, Bolivia, Mecico, Peru, Trung Mĩ; hầu hết
các nước thuộc Liên Xô cũ như Armenia, Azerbajian, Georgia, Russia
10
và Ukraine; nhiều nước khác như Mongolia, Mozambique, Romania,
Turkey và Việt Nam đều ở tình trạng dollar hoá không chính thức.
_Dollar hoá bán chính thức: Khoảng 12 nước trên thế giới
được IMF xếp là các nước “Dollar hoá bán chính thức” hay có hệ
thống lưu hành chính thức hai đồng tiền. Ví dụ: Bahamas, Cambodia,
Laos, Thailand, Liberia. Ở các nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền
lưu hành hợp pháp và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản
tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương,
thuế và những chi tiêu hàng ngày. Không giống các nước có dollar hoá
chính thức, các nước dollar hoá bán chính thức duy trì Ngân hàng
Trung ương (NHTƯ) hay một cơ quan tiền tệ có quyền hạn tương ứng
để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.
_Dollar hoá chính thức: Hay còn được gọi là dollar hoá hoàn
toàn (full dollarization) xuất hiện khi đồng ngoại tệ là đồng ngoại tệ là
đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ
không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư
nhân mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu
đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là
các đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Các nước thường
11
chỉ áp dụng dollar hoá chính thức khi thất bại trong việc thực thi các
chương trình ổn định kinh tế.
Dollar hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai
đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước dollar hoá
chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp
pháp, nhưng chỉ có Andorra dùng cả đồng Franc của Pháp và đồng
Pezota của Tây Ban Nha. Ở hầu hết các nước dollar hoá chính thức, cá
đối tác tư nhân được phép kí hợp đồng bằng bất cứ loại tiền nào mà họ
cùng đồng ý.
Theo IMF, hiện nay có khoảng 14 nước được xếp là cá nước
dollar hoá chính thức.
Theo nghiên cứu của hệ thống dự trữ Liên bang Mĩ, hiện tại,
người nước ngoài nắm giữ khoảng 55% đến70% số dollar Mĩ lưu
hành. Còn theo ước tính của Bundesbank, người nước ngoài giữ
khoảng 40% tổng số DM được lưu hành.
II. THỰC TRẠNG DOLLAR HOÁ Ở VIỆT NAM
Việc “xuất hiện” tình trạng dollar hoá ở Việt Nam ai cũng có
thể nhận biết rằng, chỉ sau những năm đầu của công cuộc đổi mới kinh
tế, Nhà nước và mọi tầng lớp dân chúng mới có dịp tiếp cận khá nhiều
và thường xuyên sử dụng USD cho nhiều hoạt động sản xuất kinh
doanh và các nhu cầu khác nhau của người dân. Cũng từ thời điểm đó,
12
người ta mới có dịp làm quen với tỷ giá hối đoái, quản lý ngoại hối,
kinh tế ngoại tệ. Công cuộc đổi mới kinh tế đất nước đã thực sự làm
cho mọi cách cửa để phát triển kinh tế, giao lưu kinh tế với nước
ngoài; được mở ra chiều hướng, đa dạng, phong phú về hình thức và
chủng loại. Đặc biệt trong lĩnh vực ngoại hối, ngoại tệ, đầu tư trực tiếp
từ nước ngoài. Chính sách mở cửa của Nhà nước không chỉ khuyến
khích các nhà đầu tư từ nước ngoài mà còn động viên, cổ vũ, khích lệ
các nhà đầu tư trong nước. Đây chính là ngòi nổ, đột phá khẩu cho
việc đẩy mạnh, phát triển và tăng cường mọi giao lưu kinh tế với bên
ngoài.
Việc phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại trong điều kiện
của một nền kinh tế lạc hậu, đặc biệt trong điều kiện mà đồng tiền
quốc gia không chuyển đổi được không chỉ là một thử thách cực kì lớn
mà còn là một bài toán cần có lời giải.
Do vậy, Luật Đầu tư Nhà nước ra đời, luật quản lý ngoại hối
được thông qua đã mở cửa cho các luồng vốn từ nước ngoài và đồng
USD nhanh chóng khẳng định vai trò của nó như sẵn có trên thị
trường toàn cầu.
Tình trạng dollar hoá ở Việt Nam có những biểu hiện chính
sau:
Thứ 1 Hệ thống Ngân hàng sử dụng rộng rãi các nghiệp vụ
bằng đồng dollar.
Có thể nói, dư âm của lạm phát cao trên thế giới cuối thập kỷ
80 và đầu thập kỷ 90 vẫn còn đọng lại trong tâm trí dân cư. Mặt khác,
lãi suất tiết kiệm USD tăng dần khiến dân cư lựa chọn giải pháp an
toàn là tiết kiệm bằng ngoại tệ. Điều này làm cho tỷ lệ tiền gửi bằng
13
ngoại tệ trong tổng số vốn huy động của ngân hàng có xu hướng tăng
lên.
Cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trong tổng vốn huy động của hệ thống
Ngân hàng
Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
ngoại tệ 39,2 33,5 31,7 33,2 33,6 39,1 45,3
VND 60,8 66,5 68,3 66,8 66,4 60,9 54,7
Tổng 100 100 100 100 100 100 100
. Đơn vị: %
(Số liệu tính đến hết tháng 9 năm 2001)
Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước 1999
và thời báo Ngân hàng số 78/2000.
Sự phát triển của nền kinh tế làm cho quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và các quốc gia ngày càng đa dạng và mở rộng. Để thanh
toán cho các hoạt động buôn bán, các bên xuất_nhập khẩu có thể sử
dụng bất cứ đồng tiền của một quốc gia nào đó theo thoả thuận, thông
thường là các đồng tiền mạnh. Nghiệp vụ cho vay ngoại tệ của Ngân
hàng nhờ đó mà tăng hơn.
14
Cơ cấu cho vay ngoại tệ trong tổng dư nợ của hệ thống Ngân
hàng.
Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
ngoại tệ 38,6 38,7 36,6 31,2 25,2 22,6 18,6
VND 61,4 61,3 63,4 68,8 74,8 77,4 81,4
Tổng 100 100 100 100 100 100 100
Đơn vị: %
(Số liệu tính đến hết tháng 10 năm 2000)
Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số 1+2/2000. Tin tức (TTXVN) số
534/2000.
Trên cơ sở lý thuyết và xu hướng chung của nền kinh tế dollar
hoá, các ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ nhiều hơn nếu rủi ro phá giá
cao hơn. Nhưng thực tế cho thấy cho vay ngoại tệ của hệ thống ngân
hàng Việt Nam đến năm 2000 chỉ chiếm chưa đến 20% tổng số dư nợ
đối với nền kinh tế của hệ thống ngân hàng. Như vậy, những biểu hiện
của hiện tượng dollar hoá ở nước ta chỉ diễn ra mạnh mẽ ở trạng thái
dollar hoá tiền gửi.
Thứ 2 Các Ngân hàng thương mại (NHTM) có một khối lượng
USD lớn ở các ngân hàng (NH) nước ngoài được xem như là “Xuất
khẩu tư bản”.
Khi NH có sự chênh lệch giữa tỷ lệ tiền gửi và tỷ lệ tiền cho vay
bằng ngoại tệ thì phần ngoại tệ chênh lệch đó sẽ được NH sử dụng để
dầu tư kiếm lời cho mình thông qua các hoạt động trên thị trường quốc
tế.
15
Tỷ trọng sử dụng vốn so với huy động ngoại tệ của hệ thống
NH.
Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Tỷ trọng 135 148 141 104 73 47 33
Đơn vị: %
(Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số
1+2/2000; Tin tức (TTXVN) số 534/2000, Báo cáo thường niên của
NHNN năm 1999).
Nhìn vào bảng ta thấy rõ mức độ sử dụng vốn huy động ngoại
tệ, trong giai đoạn 1994_1997, cho vay bằng ngoại tệ vượt khả năng
huy động của các NH, do đó nguồn vốn nước ngoài sẽ bù đắp phần
thiếu hụt này. Giai đoạn 1998_2000 có xu hướng ngược lại, đầu tư tín
dụng cho nền kinh tế chỉ chiếm một phần vốn huy động. Giải toả phần
vốn huy động ngoại tệ dư thừa, các NH kinh doanh trên thị trường tiền
tệ quốc tế hay đầu tư vào trái phiếu Chính phủ.
Một mâu thuẫn nảy sinh là trong khi cán cân thương mại của
cả nước là nhập siêu, cần phải có ngoại tệ để trang trải cho các nhu cầu
nhập khẩu cấp bách và các doanh nghiệp thiếu vốn phải đi vay nước
ngoài thì chúng ta lại gửi một khối lượng USD không nhỏ ở nước
ngoài. Sự “đảo hối” này do chính sách tiền tệ và những chính sách
kinh tế vĩ mô khác tạo ra là chưa hợp lý.
Thứ 3 Xu hướng sử dụng USD để tích luỹ tài sản danh nghĩa.
Đặc biệt dollar hoá phổ biến trong thời kì có lạm phát cao, tốc độ lưu
thông tiền trong nước tăng nhanh, USD lên giá liên tục với tốc độ lớn
nhiều hơn so với chỉ số giá. Năm 1988 là 432,6%; năm 1990 là
16
145,4% và năm 1991 là 203,1%. Và hiện nay cũng vậy, đáng quan tâm
là hai năm 1999 và 2000 trong điều kiện chỉ số giá tiêu dùng giảm
0,5% (năm 1999 tăng 0,1%, năm 2000 giảm 0,6%) thì sức mua đối
nội của VND tăng lên, nhưng sức mua đối ngoại của VND lại giảm
4,5% do tỷ giá VND/USD năm 1999 giảm 1,1%, năm 2000 giảm
3,4%. Tỷ giá từ đầu năm 2001 đến nay tăng nhanh nhất là từ tháng 6
đến nay nhưng chỉ số giá không tăng. Từ đó việc sử dụng USD để tích
luỹ tài sản danh nghĩa trở nên hấp dẫn hơn.
Thứ 4 Đồng USD được lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam một
cách tương đối phổ biến. USD được sử dụng để biểu hiện giá trị và đo
lường giá trị của các hàng hoá và dịch vụ. Giá cả hàng hoá được công
khai ấn định bằng USD và được đăng tải trên các thông tin và giá cả
thị trường.
Thứ 5 Việc sử dụng USD đã nhiễm vào Việt Nam và trở thành
như một tập tục trong các hoạt động mua bán, thanh toán sinh hoạt với
những tên gọi rất đơn giản về đơn vị tiền tệ (100USD = 1 tờ = 1vé).
Hiện tượng này có thể thấy rõ trong những năm gần đây cùng với sự
phát triển của các ngành dịch vụ. Song song tồn tại việc thanh toán
bằng VND thì ở các nhà hàng, khách sạn, các siêu thị, khách hàng kể
cả người dân trong nước và người nước ngoài đều có thể dể dàng
thanh toán bằng USD. Hiện tượng sử dụng USD đã bắt đầu xâm nhập
vào mọi hoạt động của người dân Việt Nam, từ việc mua linh kiện của
máy vi tính cho đến phương tiện đi lại như xe máy người ta cũng có
thể dễ dàng giao dịch bằng USD.
Ngoài ra, USD còn là phương tiện cất trữ thuận tiện, tổng hợp
với các hoạt động kinh tế ngầm nhất là với các tổ chức buôn lậu.
17
18
PHẦN II: NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG DOLLAR HOÁ
VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA DOLLAR HOÁ
ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM.
I. NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG DOLLAR HOÁ.
Hiện tượng dollar hoá đang là một vấn đề gây tranh cãi trong
thời gian qua, các nhà NH cũng như các nhà kinh tế học đã đề xuất
những ý kiến khác nhau về những nguyên nhân nào gây ra hiện tượng
dollar hoá. Họ đều phát hiện ra rằng hiện tượng dollar hoá thường xảy
ra ở các nước mà nền kinh tế có lạm phát cao và hậu quả của lạm phát.
Tuy nhiên lạm phát không phải là nguyên nhân duy nhất để giải thích
được hiện tượng dollar hoá trong thời kì hiện nay khi lạm phát đã
được kìm chế và kiểm soát với tỷ lệ thấp.
1. Nguyên nhân sâu xa:
Tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của tình trạng dollar hoá ở Việt
Nam cũng như các nước trên thế giới thì đó là:
_Trình độ phát triển nền kinh tế, cùng tính chất của nền kinh tế
đó. Dollar hoá thường rơi vào các nước có trình độ phát triển còn thấp,
các nước đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường. Buôn lậu chưa được kiểm soát chặt chẽ, nhất là
buôn lậu qua biên giới, buôn bán tiêu ngạch.
_Trình độ dân trí, cùng tâm lý người dân. Các nước có trình
độ dân trí chưa cao, người dân còn có thói quen nắm giữ vàng và
dollar thì thường là nền kinh tế có mức dollar hoá cao.
19
_Trình độ phát triển của hệ thống NH, nhất là hoạt động thanh
toán. Rõ ràng là khi hệ thống NH còn non trẻ, hoạt động thanh chưa
phát triển, công nghệ thanh toán còn lạc hậu, th