Vấn đề thâm hụt thương mại gần đây đã trở thành một vấn đề được nhiều
người quan tâm và thảo luận. Sự thật là thâm hụt thương mại đã gia tăng trong
những năm gần đây, đặc biệt là từ năm 2007 khi thâm hụt thương mại đạt tới
mức 20% GDP và mặc dù có những diễn biến khác nhau, xu hướng chung có vẻ
như là thâm hụt thương mại vẫn còn duy trì ở mức cao. Những tranh luận về
nguyên nhân và giải pháp cho tình trạng này đặt ra vấn đề cần nhìn nhận lại
nguyên nhân thực sự của tình trạng thâm hụt thương mại kéo dài ở nước ta. Đã
không ít những ngộ nhận (myths) liên quan đến nguồn gốc, nguyên nhân của tình
trạng thâm hụt thương mại và do đó những giải pháp nhằm giải quyết xử lý vấ n
đề này cũng mang đến không ít những ý kiến khác nhau
2
. Bài tham luận này
không đặt mục đích phân tích cụ thể nguyên nhân của tình hình THTM hiện nay,
càng không kỳ vọng đưa ra những giải pháp. Bài tham luận chỉ tập trung nêu ra
những điều có thể coi là sự ngộ nhận về tình trạng THTM để từ đó có thể có
được những cách nhìn đúng hơn về tình trạng này, từ đó mới có cơ sở chung để
thảo luận các vấn đề tiếp theo.
9 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 1822 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nhìn nhận lại vấn đề thâm hụt thương mại ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
NHÌN NHẬN LẠI VẤN ĐỀ THÂM HỤT THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM1
Vũ Quốc Huy
Đại học Kinh tế- Đại học Quốc gia Hà nội
Mở đầu.
Vấn đề thâm hụt thương mại gần đây đã trở thành một vấn đề được nhiều
người quan tâm và thảo luận. Sự thật là thâm hụt thương mại đã gia tăng trong
những năm gần đây, đặc biệt là từ năm 2007 khi thâm hụt thương mại đạt tới
mức 20% GDP và mặc dù có những diễn biến khác nhau, xu hướng chung có vẻ
như là thâm hụt thương mại vẫn còn duy trì ở mức cao. Những tranh luận về
nguyên nhân và giải pháp cho tình trạng này đặt ra vấn đề cần nhìn nhận lại
nguyên nhân thực sự của tình trạng thâm hụt thương mại kéo dài ở nước ta. Đã
không ít những ngộ nhận (myths) liên quan đến nguồn gốc, nguyên nhân của tình
trạng thâm hụt thương mại và do đó những giải pháp nhằm giải quyết xử lý vấn
đề này cũng mang đến không ít những ý kiến khác nhau2. Bài tham luận này
không đặt mục đích phân tích cụ thể nguyên nhân của tình hình THTM hiện nay,
càng không kỳ vọng đưa ra những giải pháp. Bài tham luận chỉ tập trung nêu ra
những điều có thể coi là sự ngộ nhận về tình trạng THTM để từ đó có thể có
được những cách nhìn đúng hơn về tình trạng này, từ đó mới có cơ sở chung để
thảo luận các vấn đề tiếp theo.
Tình hình thâm hụt thương mại của Việt nam từ 1995 đến nay
Thâm hụt thương mại của nước ta không phải là vấn đề mới. Trên thực tế,
thâm hụt thương mại diến ra suốt trong hơn 2 thập kỷ gần đây. Điều quan trọng
là là mức độ thâm hụt thương mại gia tăng đột biến vào thời điểm năm 2007, từ
mức 5 tỷ USD năm 2006 lên gần gấp 3 lần với khối lượng trên 14 tỷ USD vào
năm 2007 và đạt đỉnh điểm với mức trên 18 tỷ USD năm 2008 (tương đương
20% GDP). Trong bối cảnh bất ổn kinh tế vĩ mô, những lo ngại về tỷ giá, lạm
phát, g ia tăng thâm hụt thương mại lại càng trở nên vấn để được quan tâm sâu
sắc. Thêm vào đó, cơ cấu thương mại và thâm hụt thương mại cũng là một vấn
đề được chú ý, bởi lẽ có sự khác biệt lớn trong cơ cấu thương mại xét về thành
phần kinh tế, cơ cấu thị trường và mặt hàng.
Bảng 1 cho thấy, khu vực doanh nghiệp trong nước làm cho mức độ thâm
hụt thương mại trầm trọng hơn, trong khi khu vực FDI có tác dụng làm giảm nhẹ 1 Bài viết tham gia Hội thảo của Ủy Ban Kinh tế của Quốc hội về các vấn đề kinh tế vĩ mô năm 2011 tổ chức tại
Cần Thơ, 9-11 tháng 3 năm 2011 2 Bùi Tất Thắng đã đưa ra một số ‘ngộ nhận’ này trong bài viết ‘ Về những mối nguy cơ của nền kinh tế Việt
Nam trong năm 2011” tại hội thảo khoa học quốc tế: “Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 –
2010: 10 năm nhìn lại và con đường phía trước” do Trường ĐH KTQD, Diễn đàn phát triển VN và Ủy ban Kinh
tế của Quốc hội tổ chức ngày 24/1/2011 tại Hà Nội)
2
mức độ thâm hụt chung. Năm 2008, khu vực trong nước có tổng thâm hụt
thương mại lên tới gần 25 tỷ USD, trong khi đó khu vực FDI có mức thặng dư
là 6,6 tỷ USD. Như vậy có thể nói, trong một thời gian dài, khu vực FDI có tác
dụng giảm bớt mức độ thâm hụt của cả nên kinh tế. Điều đó cho thấy trong thời
gian đó, khu vực FDI hướng nhiều đến xuất khẩu hơn là khu vực trong nước.
Tình hình này đang có sự thay đổi theo hướng làm trầm trọng thêm mức gia tăng
thâm hụt thương mại. Bằng chứng là bắt đầu từ năm 2008, mức thăng dư thương
mại của khu vực FDI có chiều hướng sụt giảm. Điều này phản ánh sự chuyến
hướng của FDI ở nước ta từ việc tập trung vào các khu vực chế tác và hướng vào
xuất khẩu sang khu vực phi thương mại (non-tradable) với các dự án lớn về dịch
vụ, bát động sản3. Việc chuyển hướng này một mặt làm giảm mức thặng dư
thương mại do không hướng vào xuất khẩu trong khi vẫn gia tăng nhu cầu nhập
khẩu, mặt khác việc đầu tư vào khu vực phi thương mại sẽ làm tăng sức ép tăng
giá của đông Việt Nam, điều có thể làm gia tăng thêm mức thâm hụt chung do
việc kích thích nhập khẩu và suy giảm xuất khẩu. Nếu xu hướng này vấn tiếp tục
trong tương lai, thì ảnh hưởng của FDI đối với cán cân thương mại và cán cân
vãng lai, cả về phương diện các tác động trực tiếp, cũng như tác động gián tiếp
thông qua áp lực tắng giá đồng Việt Nam là vấn đề đáng được quan tâm.
Bảng 1. Thâm hụt thương mại của Việt Nam, 1995-2010, (triệu USD)
Năm
Xuất
khẩu
Nhập
khẩu
Thâm hụt
thương mại
Tổng số
Khu
vực
kinh tế
trong
nước
Khu
vực có
vốn đầu
tư nước
ngoài(*) Tổng số
Khu
vực
kinh tế
trong
nước
Khu
vực có
vốn đầu
tư nước
ngoài Tổng số
Khu
vực
kinh tế
trong
nước
Khu
vực có
vốn đầu
tư nước
ngoài
1995 5448.9 3975.8 1473.1 8155.4 6687.3 1468.1 2706.5 2711.5 -5.0
1996 7255.9 5100.9 2155.0 11143.6 9100.9 2042.7 3887.7 4000.0 -112.3
1997 9185.0 5972.0 3213.0 11592.3 8396.1 3196.2 2407.3 2424.1 -16.8
1998 9360.3 6145.3 3215.0 11499.6 8831.6 2668.0 2139.3 2686.3 -547.0
1999 11541.4 6859.4 4682.0 11742.1 8359.9 3382.2 200.7 1500.5 -1299.8
2000 14482.7 7672.4 6810.3 15636.5 11284.5 4352.0 1153.8 3612.1 -2458.3
2001 15029.2 8230.9 6798.3 16218.0 11233.0 4985.0 1188.8 3002.1 -1813.3
2002 16706.1 8834.3 7871.8 19745.6 13042.0 6703.6 3039.5 4207.7 -1168.2
2003 20149.3 9988.1 10161.2 25255.8 16440.8 8815.0 5106.5 6452.7 -1346.2
2004 26485.0 11997.3 14487.7 31968.8 20882.2 11086.6 5483.8 8884.9 -3401.1
2005 32447.1 13893.4 18553.7 36761.1 23121.0 13640.1 4314.0 9227.6 -4913.6
2006 39826.2 16764.9 23061.3 44891.1 28401.7 16489.4 5064.9 11636.8 -6571.9
2007 48561.4 20786.8 27774.6 62764.7 41052.3 21712.4 14203.3 20265.5 -6062.2
2008 62685.1 28162.3 34522.8 80713.8 52831.7 27882.1 18028.7 24669.4 -6640.7
2009 56584.0 26730.0 29854.0 68830.0 43957.0 24873.0 12246.0 17227.0 -4981.0
2010 71629 32801 38828 84004 47526 36478 12375.0 14725.0 -2350.0
3 Xem them Nhóm nghiên cứu WTO, Đại học Kinh tế
3
Nguồn: Tổng cục Thông kê
Những quan niệm phổ biến về THTM và những biện pháp khắc phục.
Tình trạng gia tăng thâm hụt thương mại đã đặt ra cho các nhà hoạch định
chính sách nhiệm vụ phải đề xuất các biện pháp để chủ động giải quyêt vấn đề
này. Thực chất, vấn đề thâm hụt thương mại bị tác động bởi nhiều yếu tố cả
trong và ngoài nước, cả những vấn đề có tính lâu dài cũng như những vấn đề
mang tính ngắn hạn. Tỷ giá có vai trò quan trọng trong việc ảnh hường đến tình
trạnh thương mại nói chung và thâm hụt thương mại nói riêng. Lý thuyết kinh tế
đã chỉ ra rằng về cơ bản, một đồng tiên nội tê yếu có thể tăng cường xuất khẩu
và hạn chế nhập khẩu và do vậy có thể có ảnh hưởng tích cực đến việc cải thiện
cán cân thương mại. Trường hợp Thái lan sau khủng hoảnng kinh tế châu Á và
sự cải thiện cán cân thương mại của Mỹ trong thời gian gần đây do đồng USD
mất giá là những minh chứng cho luận điểm này. Hệ thống thuế quan cũng đóng
vai trò nhất địnhtrong việc kiểm soát cán cân thương mại bởi lẽ nhập khẩu phụ
thuộc vào mức thuế. Tuy nhiên tùy theo cơ cấu kinh tế và tính chất liên kết của
các mặt hàng xuất khẩu với các ngành hàng nhập khẩu mà tác động của hệ thồng
thuế quan có thể khác nhau. Những mặt hàng ít nhạy cảm với giá cả (và do vậy
với mức thuế) sẽ không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự thay đổi về mức thuế trong
một giới hạn nào đó. Cấu trúc nền kinh tế. mối liên kết với các nên kinh tế khác
thông qua chuỗi sản xuất khu vực hay toàn cầu đều có ảnh hưởng đến cán cân
thương mại. Những tác động trực tiếp qua các kênh nói trên thường được nhận
biết rõ hơn và do vậy các động thái chính sách khi giải quyết vấn đề thâm hụt
cán cân thương mai thường tập trung vào các lĩnh vực này, và đó là điều dễ hiểu.
Tuy nhiên tính hiệu quả, hiệu lực của các biện pháp can thiệp trực tiếp lại là một
vấn đề cần được thảo luận và đây chính là vấn đề lớn cần làm rõ trong quá trình
hoạch định và thực thi chính sách. Thông thường các biện pháp cạn thiện trực
tiếp thường kém hiệu quả và có thể gây ra những hiệu ứng phụ không cần thiết.
Điều đáng nói ở đây là thường là căn nguyên thực sự của vấn đề cán cân
thương mại, chênh lệch đầu tư – tiết kiệm trong nước, lại không hoàn toàn nằm
trong lính vực quản lý thương mại bình thường. Do vậy vấn đề mấu chốt đó
thường ít được đặt ra trong các bàn thảo chinh sách. Vì vậy những biện pháp trực
tiếp đưa ra thường hoặc là không phát huy tác dụng, hoặc mang lại nhiều chi phí
bổ sung cho các bên liên quan. Lý thuyết kinh tế đã chỉ ra rằng trong một số điều
kiện nhất định, thâm hụt thương mại chính là sự phản ánh trung thực của sự
chênh lệch đầu tư – tiết kiệm trong nước tại một thời điểm nào đó. Nói cách
khác, chùng nào sự chênh lệch giữa đâu tue và tiết kiệm trong nước chưa được
xử lý thì vấn đề thâm hụt thương mại chắc chắn sẽ bị tiếp tục duy trì. Ván đề
mấu chốt là phải giải quyêt được sự chênh lệch đó.
4
Tuy nhiên, ở Việt Nam trong thời gian vừa qua, khi phải đối mặt với tình
trạng thâm hụt thương mại gia tăng, các biện pháp của Chính phủ thường chỉ tập
trung vào các biện pháp tức thời với mong muốn có thể sớm kiếm soát được tình
hình. Những biện pháp này chủ yếu tập trung vào việc hạn chế tiếp cận tín dụng
cho nhập khẩu. áp dụng các biện pháp thuế, phi thuế, hàng rào kỹ thuật nhằm
hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên, thực tế đã chỉ ra rằng những biện pháp này tỏ ra
thiếu khả năng thực thi, kém hiệu quả. Việc kiểm soát danh mục các mặt hàng
hạn chế nhập khẩu áp dụng trong năm 2010 không ngăn được mức tăng 36% giá
trị các mặt hàng này trong năm 2010. Những khuyến nghị sử dụng đòn bảy tỷ
giá trong việc điều tiết cán cân thương mại thường vấp phải những lo ngại (có
phần chính đáng) về tác động lạm phát, nợ nước ngoài.
Trong bối cảnh đó việc làm rõ những nhận thức chung về nguyên nhân của
tình trạng thâm hụt thương mại, xó bỏ những định kiến, ngộ nhận về thâm hụt
thương mại là cực ký quan trọng nhằm tạo ra sự thống nhất trong các chính sách
nhắm kiểm soát tình hình thâm hụt thương mại. Dưới đây chúng tôi đi sâu phân
tích xx vấn đề chính trong việc nhận thức về những vấn đề liên quan đến thâm
hụt thương mại
1. Thâm hụt thương mại là điều khó tránh khỏi đối với các nước đang phát
triển trong quá trình công nghiệp hóa do chưa có nền công nghiệp phát
triển và cần nhập khẩu máy móc, công nghệ phục vụ cho CNH
Trước hết hiện đang tồn tại quan niệm cho rắng, thâm hụt thương mại là điều
tất yếu mà mỗi quốc gia trong quá trình phát triển từ nước nghèo lên nước thu
nhập trung bình trên thế giới không thể không đối mặt do trình độ sản xuất, liên
kết thấp kém trong khi nhu cầu về máy móc thiết bị, thậm chí nguyên vật liệu
càn thiết cho sự nghiệp công nghiêp hóa- hiện đại hóa là một thực tế khó tránh
khỏi. Nhập khẩu do vậy sẽ gia tăng trong khi xuất khẩu chưa theo kịp để đáp ưng
những nhu cầu liên quan. Luận điểm này thực ra không có cơ sở cả về thực tế
và lý luận. Các nước đang phát triển có những chiến lược công nghiệp hóa khác
nhau và điều đó có ảnh hưởng khác nhau đến tình trạng của nền kinh tế, trong đó
có tình hình thương mại nói chung. Điều đó tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau, trong đó có cả những yếu tố chính sách của các nước theo từng giai đoạn
phát triển. Bảng 1 cho thấy tình hình cán cân thương mại của một số nước ở
Đông Nam Á và Mỹ La tinh trong suốt thời kỳ từ năm 1975 đến 2007. Rõ ràng
là không có một khuôn mẫu nào về xu thế diễn biến của thâm hụt thương mại
cho tất cả các nước trong quá trình phát triển kinh tế của họ. Trong khi
Argentina và Malaysia là hai nước thường xuyên có mức thặng dư thương mại
thì một số nước như Phillipines hay Bolivia lại có nhiều năm thâm hụt thương
mại, đặc biệt là Philipines. Thái lan là trường hợp đáng chú ý. Trước khi xảy ra
khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997, Thái lan luôn ở trong tình trạng thâm hụt
thương mại. Tuy nhiên từ sau năm 1997, nước này luôn có mức thặng dư thương
5
mại cao. Có thế nói một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi nay là sự
thay đổi về chính sách tỷ giá. Trước đó Thái lan duy trì một chính sách tỷ giá cố
định, duy trì đồng bath ở mức cao. Điều đó không khuyến khích xuất khẩu mà
ngược lại tạo điều kiện tốt cho việc nhập khẩu. Giai đoạn sau khủng hoảng kinh
tế châu Á, Thai lan đã chuyển sang chế độ tỷ giá linh hoạt và đó có thể là một
trong những nguyên nhân quan trọng cải thiện cán cân thương mại của Thái Lan.
Bên cạnh đó, nét đặc trưng của các nước châu Mỹ La tinh là sự biến động lien
tục trong cán cân thương mại, điển hình là trường hợp Mexico với mức thăng dư
thương mại cao trong những năm 80s sang mức thâm hụt thương mại đáng kể
trong thập niên đầu của thế kỷ này (Bảng 1). Nguyên nhân của tình hình cán cân
thương mại của các nước rất khác nhau, nhưng một điều chắc chắn là các chính
sách kinh tế đóng vai trò quan trọng trong quá trình đó và không có một khuôn
mẫu cố định nào cho các nước cả.
Bảng 2. Thâm hụt thương mại của một số nước, 1976-2007 (triệu USD)
Năm Argentina Bolivia Brazil Chile Malaysia Thailand Mexico Philippines
1976 -1,150 -51 2,340 -650 -1,480 190
1977 -1,850 -55 100 -40 -1,540 790 770
1978 -2,910 97 1,100 430 -1,620 850 1,300
1979 -1,780 -22 2,800 350 -3,190 1,550 2,200 1,540
1980 1,370 -368 2,900 760 -2,400 1,900 3,100 1,940
1981 -710 -84 -1,200 2,670 100 2,030 3,900 2,230
1982 -2,760 -332 -800 -70 700 740 -7,100 2,650
1983 -3,720 -259 -6,500 -980 -400 2,860
-
14,200 2,480
1984 -3,980 -313
-
13,100 -360 -2,900 1,900
-
13,200 680
1985 -4,880 -160
-
12,400 -880 -3,600 1,330 -8,400 480
1986 -2,440 51 -8,300 -1,090 -3,300 -390 -5,000 200
1987 -1,020 127
-
11,100 -1,310 -5,800 400 -8,800 1,020
1988 -4,240 48
-
19,200 -2,210 -5,400 2,100 -2,600 1,090
1989 -5,710 6
-
16,100 -1,480 -4,300 2,900 -400 2,580
1990 -8,670 -55
-
10,700 -1,280 -2,500 6,800 900 4,010
1991 -4,440 44
-
10,600 -1,480 -400 6,000 7,300 3,260
1992 1,400 432 - -710 -3,100 4,200 15,900 4,680
6
15,200
1993 2,300 394
-
14,300 1,000 -3,000 4,300 13,500 6,200
1994 4,200 35
-
10,900 -700 -1,600 3,700 18,400 7,800
1995 -2,400 180 3,200 -1,400 100 8,000 -7,000 9,000
1996 -1,700 240 5,400 1,100 -3,900 9,500 -6,500 11,400
1997 2,200 470 6,600 1,400 -3,500 -1,600 0 11,200
1998 3,100 660 6,600 2,100 -17,500 -16,300 7,000 -
1999 800 490 1,300 -2,500 -22,600 -14,000 6,000 6,000
2000 -2,400 360 700 -2,100 -20,800 -11,700 8,000 6,000
2001 -7,300 300 -2,600 -1,900 -18,400 -8,600 9,000 6,300
2002 -17,230 340
-
13,200 -2,400 -18,200 -9,100 8,000 5,500
2003 -16,800 -100
-
24,800 -3,800 -25,700 -11,200 6,000 5,900
2004 -13,300 -430
-
33,700 -9,600 -27,800 -10,800 9,000 5,700
2005 -13,100 -610
-
44,400
-
10,800 -33,000 -3,000 8,000 7,700
2006 -13,900 -1,240
-
46,700
-
22,800 -38,000 -14,000 6,000 6,800
2007 -13,500 -1,220
-
40,000
-
24,000 -37,000 -27,000 10,000 8,400
Nguồn: World Development Indicators. World Bank
2. Thâm hụt thương mại có thể giảm bớt nếu hạn chế tiêu dùng các hàng xa
xỉ.
Một trong những ý kiến được đưa ra trong thời gian qua ở nước ta về nguyên
nhân của tình trạng thâm hụt thương mại là do tiêu dùng các hàng xa xỉ. Từ đó
có nhiều khuyến nghị hạn chế nhập khẩu các mặt hàng này bằng cả các biện
pháp hành chính hoặc thông qua việc áp dụng mức thuế cao, hạn chế cấp ngoại
tệ để nhập hàng, sử dụng các hang rào kỹ thuật. Các tranh luận lại càng trở nên
sôi nổi hơn khi Tổng cục thồng kế vào cuối năm 2010 đưa ra số liệu nhập khẩu
các mặt hang ‘xa xỉ’, đắt tiền lên tới 10 tỷ USD trong đó 9 tỷ USD dành cho
nhập rượu ngoại, thuốc lá, đồ trang sức, điện thoại4. Điều đáng nói ở đây là khái
niệm ‘hàng xa xỉ’ được đưa ra khá tùy tiện thiếu những chuẩn mực cụ thể. Vì
vậy số liệu nhập khẩu các mặt hàng này cũng khác nhau5. Hơn thế nữa, các biện 4 5 Một số tác giả đưa ra số liệu nhập khẩu ‘hàng xa xỉ’ chỉ là 5.7 tỷ USD (Quang Minh, Đại biểu Nhân dân,
25/01/2011. Nguyễn Đức Thành (VEPR, 17/05/2010) cho rắng giảm một nửa
7
pháp hạn chế các mặt hàng tiêu dùng có giá trị cao khó có thể phát huy tác dụng
với lý do đơn giản là các mặt hàng này ít nhạy cảm với giá cả: người mua sẵn
sàng trả giá cao hơn nếu họ thực sự có ‘nhu cầu’ mua sắm các mặt hàng đó. Sự
thật là trong năm 2010, các mặt hàng thuộc diện ‘kiểm soát nhập khẩu’ lại có
mức tăng trưởng tới 38.5%. cao hơn rất nhiều so với các mặt hàng khác6.
Việc đánh thuế cao vào các mặt hàng được coi là ‘xa xỉ’ khó có thể có tác
dụng giảm nhập siêu do các yếu tố phi giá cả quyết định sự lựa chọn mua sắm
của các khách hàng
3. Thâm hụt thương mại hàng hóa có thể khắc phục khi có nền công nghiệp
phụ trợ
Ý tưởng này được đề xuất trong thời gian gần đây do những nhìn nhận cho
rằng Việt Nam phải nhập quá nhiều nguyên vật liệu cho các ngành chế tác trong
nước sản xuất cả các mặt hàng xuất khẩu và tiêu dung trong nước. Gia tăng thâm
hụt thương mại với Trung Quốc và các nước trong khu vực châu Á được coi là
những minh chứng cho sự phụ thuộc của Việt Nam vào các nguồn nguyên liệu từ
nước ngoài và được coi như là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng
nhập siêu. Giải pháp được đề xuất là tăng cường phát triển công nghiệp phụ trợ,
phục vụ nhu cầu nguyên liệu trong nước, qua đó giảm nhập siêu.
Chưa nói đến tính khả thi của đề xuất này mà chỉ xem xét tính hợp lý của nó,
chúng ta đã thấy một số vấn đề nảy sinh. Trước hết, xu thế mới trong phân cồng
lao động quốc tế hiện nay là xu thê gắn với thương mại nội ngành (intra-industry
trade) thay vì phương thức thương mại liên ngành (inter-industry trade) như
trước đây7. Vì vậy trong bối cảnh tăng cường hội nhập kinh tế khu vực, liên kết
khu vực theo xu hướng thương mại nội ngành sẽ tạo ra liên kết sản xuất bền
vững, hiệu quả. Điều đó có thể làm gia tăng nhập khẩu nhưng kèm theo đó cũng
gia tăng xuất khẩu và do vậy hoàn toàn có thể cải thiện được cán cân thương
mại. Các ngành xuất khẩu chủ lực hiện nay như dệt may, giày dép đều có hàm
lượng nhập khẩu cao nhưng lại có tác độn tích cực đến việc cải thiện cácn cân
thương mại do phần lớn các sản phẩm đều phục vụ xuất khẩu. Việc phát triển
công nghiệp phụ trợ rất có thể rơi vào bẫy ‘thay thế nhập khẩu’ và do vậy mặc
dù hạn chế được nhập khẩu nhưng không cải thiện được cán cân thanh toán do
suy giảm năng lực xuất khẩu. Sự đóng góp tích cực của khu vực FDI cho việc cải
thiện tình hình nhập siêu trong thời gian trước năm 2008 có thể xem như một
minh chứng cho luận điểm này
nhập khẩu ô tô thì cũng chỉ giảm được 1% tổng kim ngạch nhập khẩu và không phải tất cả ô tô nhập khẩu là hang
xa xỉ 6 Doanh nghiệp Thương mại. 7 Xem Prema-Chandra Athukorala (2010) Production Networks and Trade Patterns in East Asia: Regionalization or Globalization.
8
Do vậy việc phát triển công nghiệp phụ trợ cần được xem xét thận trọng
nhằm tránh những tác động tiêu cực do yếu tố ’thay thế nhập khẩu’ mang lại.
Nhìn nhận lại vấn đề thâm hụt thương mại
Những thiên lệch trong cách nhìn nhận về nguyên nhân và giải pháp cho
vấn đề nhập siêu nêu ra trên đây đạt ra yêu cầu nhìn nhận vấn đề nhập siêu mang
tính căn bản hơn, từ những vấn đề then chốt của nền kinh tế. Sự không thành
công của các biện pháp can thiệp tức thời cũng chứng tỏ cần có quan điểm toàn
diện hơn về vấn đề này.
Trong khi tỷ giá có thể đóng vai trò nhất định trong việc kiểm soát nhập siêu
như thực thế của nhiều nước đã chỉ ra, việc áp dụng công cụ này trong điều kiện
Việt Nam có thể liên quan đến nhiều vấn đề khác như chính sách tiền tệ, lạm
phát vì vậy phạm vi áp dụng có thể cần can nhắc. Một quan điểm bao trùm hơn
trên cách tiếp cận vĩ mô về thâm hụt thương mại cần được xem xét nhằm đảm
bảo tính khả thi, hiệu quả của các biện pháp đề ra.
1. Cán cân thương mại và cán cán tài khoản vãng lai
Trên thực tế, điều có tác động lớn đến sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế là
cán cân tài khoản vãng lai hơn là cán cân thương mại (một bộ phận của cán cân
tài khoản vãng lai). Nếu một nên kinh tế có thăng dư tài khoản vãng lai mặc dù
thâm hụt thương mại ( do bù đắp được bởi thăng dư dịch vụ) thì những lối lo
ngại về tài khoản vốn, tỷ giá se không được đặt ra