Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Không như những năm trước đây, Nhà
nước sâu vào hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp mà ngày nay các doanh
nghiệp phải cạnh tranh với nhau, tự tìm cách để cho doanh nghiệp của mình tự đứng
vững và ngày một phát triển.
Hạ giá thành sản phẩm? Giảm chi phí sản xuất ở các yếu tố đầu vào? Đây là mối quan
tâm chính của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay.
Trong thời gian qua, điện lực là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng cao, có
vốn đầu tư hàng năm rất lớn. Thêm vào đó, tính phức tạp của công việc và sản phẩm xây
lắp điện, vấn đề sử dụng vốn có hiệu quả và quản lý các chi phí đầu vào càng phức tạp,
làm thế nào để tránh lãng phí, để tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế lại
càng trở nên cấp bách hơn.
Cùng với các doanh nghiệp trong cả nước Xí nghiệp Xây Lắp Điện - Công ty Điện lực 1
thuộc Tổng công ty Điện lực đã từng bước khẳng định vị trí của mình trong công ty nói
riêng và trong ngành điện nói chung bằng cách nâng cao trình độ, phương pháp quản lý
các công trình đồng thời hạ giá thành để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng
cao uy tín chất lượng và khả năng thắng thầu các công trình.
Đề tài:
"Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp
Điện- Công ty Điện Lực 1"
Nội dung chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm 3 phần:
Phần I: Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là nhiệm vụ cơ bản và lâu
dài của các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường
Phần II: Phân tích thực trạng giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây
Lắp Điện
Phần III: Những biện pháp cơ bản nhằm phấn đấu hạ giá thành sản
phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện
83 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1782 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp ĐiệnCông ty Điện Lực 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá
thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện-
Công ty Điện Lực 1
Lời Mở đầu
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Không như những năm trước đây, Nhà
nước sâu vào hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp mà ngày nay các doanh
nghiệp phải cạnh tranh với nhau, tự tìm cách để cho doanh nghiệp của mình tự đứng
vững và ngày một phát triển.
Hạ giá thành sản phẩm? Giảm chi phí sản xuất ở các yếu tố đầu vào? Đây là mối quan
tâm chính của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay.
Trong thời gian qua, điện lực là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng cao, có
vốn đầu tư hàng năm rất lớn. Thêm vào đó, tính phức tạp của công việc và sản phẩm xây
lắp điện, vấn đề sử dụng vốn có hiệu quả và quản lý các chi phí đầu vào càng phức tạp,
làm thế nào để tránh lãng phí, để tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế lại
càng trở nên cấp bách hơn.
Cùng với các doanh nghiệp trong cả nước Xí nghiệp Xây Lắp Điện - Công ty Điện lực 1
thuộc Tổng công ty Điện lực đã từng bước khẳng định vị trí của mình trong công ty nói
riêng và trong ngành điện nói chung bằng cách nâng cao trình độ, phương pháp quản lý
các công trình đồng thời hạ giá thành để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng
cao uy tín chất lượng và khả năng thắng thầu các công trình.
Đề tài:
"Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp
Điện- Công ty Điện Lực 1"
Nội dung chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm 3 phần:
Phần I: Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là nhiệm vụ cơ bản và lâu
dài của các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường
Phần II: Phân tích thực trạng giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây
Lắp Điện
Phần III: Những biện pháp cơ bản nhằm phấn đấu hạ giá thành sản
phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện
Phần i
Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là nhiệm vụ cơ bản
và LÂU DàI củA CáC DOANH NGHIệP hoạT Động trong cơ chế thị
trường
I. Khái niệm và các phương pháp phân loại chi phí trong giá thành
1. Khái niệm giá thành và các cách phân loại chi phí trong gía thành
a. Khái niệm giá thành
Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao
động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra để tiến hành các hoạt động sản xuất trong một
thời kỳ.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất, doanh nghiệp cần phải có 3 yếu tố cơ bản:
- Tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc, thiết bị và những TSCĐ khác.
- Đối tượng lao động như nguyên vật liệu, nhiên liệu...
- Sức lao động của con người.
Quá trình sử dụng các yếu tố cơ bản trong sản xuất cũng đồng thời là quá trình doanh
nghiệp phải chi ra những chi phí sản xuất tương ứng. Tương ứng với việc sử dụng tài
sản cố định là chi phí về khấu hao tài sản cố định, tương ứng với việc sử dụng nguyên
vật liệu, nhiên liệu... là những chi phí về nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, tương ứng với
việc sử dụng lao động là chi phí tiền công, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế...
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá và cơ chế hạch toán kinh doanh, mọi chi phí trên
điều được biểu hiện bằng tiền, trong đó chi phí về tiền công, tiền trích bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động sống, còn chi phí về khấu
hao tài sản cố định, chi phí về nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu là biểu hiện bằng tiền của
hao phí về lao động vật hoá.
Một doanh nghiệp sản xuất ngoài những hoạt động có liên quan đến hoạt động sản xuất
ra sản phẩm hoặc lao vụ, còn có những hoạt động kinh doanh và hoạt động khác không
có tính chất sản xuất như hoạt động bán hàng, hoạt động quản lý, các hoạt động mang
tính chất sự nghiệp... chỉ những chi phí để tiến hành các hoạt động sản xuất mới được
coi là chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong suốt quá trình tồn tại
và hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, nhưng để phục vụ cho quản lý và hạch toán
kinh doanh, chi phí sản xuất phải được tính toán tập hợp theo từng thời kỳ: Hàng tháng,
hàng quý, hàng năm phù hợp với kỳ báo cáo. Chỉ những chi phí sản xuất mà doanh
nghiệp phải bỏ ra trong kỳ mới được tính vào chi phí sản xuất trong kỳ.
Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả những chi phí
của doanh nghiệp về sử dụng tư liệu sản xuất, trả lương, phụ cấp ngoài lương và những
chi phí phục vụ khác để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Quá trình sản xuất ở một doanh nghiệp, một mặt doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí
sản xuất, mặt khác kết quả sản xuất doanh nghiệp thu được những sản phẩm, công việc,
lao vụ nhất định đã hoàn thành, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xã hội. Những sản phẩm,
công việc, lao vụ đã hoàn thành gọi chung là thành phẩm cần phải tính được gía thành
tức là những chi phí đã bỏ ra để sản xuất ra chúng.
Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động sản
xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư lao động tiền vốn trong quá trình
sản xuất, cũng như các giải pháp kinh tế - kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện, nhằm
đạt được mục đích sản xuất được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí sản xuất
tiết kiệm và hạ gía thành. Gía thành sản phẩm còn là căn cứ để tính toán xác định hiệu
quả kinh tế các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Quan hệ giữa chi phí sản xuất với gía thành.
Chi phí sản xuất và gía thành là 2 khái niệm riêng biệt có những mặt khác nhau:
- Chi phí sản xuất luôn gắn với từng thời kỳ đã phát sinh chi phí, còn gía thành lại gắn
với khối lượng sản phẩm, công việc lao vụ đã sản xuất hoàn thành.
- Chi phí sản xuất trong kỳ bao gồm cả những chi phí sản xuất đã trả trước trong kỳ
nhưng chưa phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ trước nhưng kỳ này mới
phát sinh thực tế, nhưng không bao gồm chi phí trả trước của kỳ trước phân bổ cho kỳ
này và những chi phí phải trả kỳ này nhưng chưa thực tế phát sinh. Ngược lại giá thành
sản phẩm lại chỉ liên quan đến chi phí phải trả trong kỳ và chi phí trả trước được phân
bổ trong kỳ.
- Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà
còn liên quan đến cả sản phẩm đang còn dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng còn giá
thành sản phẩm không liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang cuối kỳ và
sản phẩm hỏng nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước
chuyển sang
Tuy nhiên giữa chi phí sản xuất và gía thành có mối quan hệ rất mật thiết vì nội dung
cơ bản của chúng đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra
cho hoạt động sản xuất. Chi phí sản xuất trong kỳ là căn cứ là cơ sở để tính gía thành
của sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành, sự tiết kiệm hoặc lãng phí của doanh
nghiệp về chi phí sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến gía thành sản phẩm hạ hoặc cao.
Quản lý gía thành phải gắn liền với quản lý chi phí sản xuất.
Để làm rõ hơn bản chất của chi phí ta hãy xem xét nó trong mối quan hệ với giá trị và
giá cả hàng hoá.
Quan hệ giữa chi phí sản xuất với giá trị.
Về kết cấu cả chi phí và giá trị đều bao gồm ba bộ phận C - V và m. Tuy nhiên chi phí
và giá trị có sự khác nhau cả về lượng lẫn chất. Trước hết, chi phí là biểu hiện bằng tiền
của hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra trong kỳ
kinh doanh. Còn giá trị hàng hoá là lượng lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá
kết tinh trong sản phẩm, trong đo bằng lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản
xuất ra hàng hoá. Chi phí là một đại lượng cụ thể còn giá trị mang tính trừu tượng.
Mặt khác, chi phí chủ yếu bao gồm hai bộ phận đầu của giá trị sản phẩm. Các Mác viết
: "Về mặt số lượng, chi phí sản xuất TBCN của hàng hoá khác với giá trị của hàng hoá
vì rằng nếu V= K + m thì K = V - m. Hao phí về lao động trong chi phí chỉ là một phần
của toàn bộ lượng lao động kết tinh trong giá trị hàng hoá. Điều đó có nghĩa là giữa giá
trị và chi phí còn một khoản chênh lệch - đó chính là phần giá trị thặng dư do lao động
mới sáng tạo ra cho xã hội.
Quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá cả.
Giữa chi phí và giá cả có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chi phí sản xuất là cơ sở để
xây dựng chính sách giá cả của doanh nghiệp. Các- Mác viết : "Giới hạn thấp nhất của
giá bán hàng hoá là do chi phí sản xuất của nó quy định". Hơn nữa chi phí lại bị ảnh
hưởng của sự thay đổi về giá cả thị trường. Giá cả của sản phẩm này thay đổi kéo theo
sự biến động về giá của các sản phẩm khác. Và như vậy gián tiếp nó sẽ ảnh hưởng tới
chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa giá
cả và chi phí, Các - Mác đã chỉ ra mức độ ảnh hưởng lẫn nhau giữa chúng như sau: "Giá
cả của hàng hoá được xây dựng trên chi phí. Ngoài ra chi phí sản xuất chính là giá mua
mà bản thân nhà tư bản đã bỏ ra để sản xuất hàng hoá, nghĩa là giá mua do chính ngay
quy trình sản xuất hàng hoá quyết định" Trong nền kinh tế thị trường thì giá cả do quan
hệ cung - cầu quyết định. Vì vậy, chi phí chỉ cung cấp thông tin để nhà quản trị ra quyết
định đúng đắn, linh hoạt và kịp thời.
b. ý nghĩa kinh tế của chỉ tiêu gía thành
Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của
những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm. Nó là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động sản
xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, lao động... trong sản xuất, cũng
như trong các giải pháp kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện nhằm đạt được
mục đích sản xuất, được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí sản xuất tiết kiệm
và hạ gía thành. Nó thể hiện được trình độ tiến bộ của kỹ thuật - công nghệ sản xuất,
trình độ tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. ý nghĩa của chỉ tiêu
gía thành sản phẩm được thể hiện trên các mặt sau đây:
- Giá thành sản phẩm là thức đo mức chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, làm cơ
sở để tính giá cả tiêu thụ và xây dựng chính sách giá cả của doanh nghiệp đối với từng
loại sản phẩm, tính lơi nhuận của doanh nghiệp và do đó nó là căn cứ xác định các chỉ
tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó doanh nghiệp đưa ra các
phương án sản xuất, các quyết định đúng đắn về chính sách sản phẩm, các biện pháp tổ
chức sản xuất kinh doanh sao cho hiệu quả nhằm mục tiêu thu lợi nhuận cao.
- Giá thành sản phẩm là cơ sở chính sách để kiểm soát tình hình, chất lượng các
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tìm ra những
nguyên nhân dẫn đến chi phí phát sinh không hợp lý để loại trừ. Mặt khác, các doanh
nghiệp thấy rõ sự cần thiết và khả năng của doanh nghiệp trong việc giảm từng loại chi
phí để có hướng đầu tư tích cực, hạ thấp tối thiểu mức chi phí trong từng khoản mục cấu
thành giá thành sản phẩm.
- Giá thành sản phẩm có quan hệ chặt chẽ với các chỉ tiêu khác, nó vừa là mục
tiêu, vừa là kết quả của việc thực hiện các chỉ tiêu khác như: tăng năng suất lao động,
giảm định mức tiêu hao nguyên vât liệu,nhiên liệu, năng lượng, chỉ tiêu về chất lượng
sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị, nâng cao hiệu quả của bộ máy
quản trị.
- Giá thành sản phẩm là một công cụ sắc bén trong việc hạch toán kinh doanh, tính
toán hiệu quả sản xuất kinh doanh và hạch toán kinh tế nội bộ doanh nghiệp.
Với vai trò và ý nghĩa như vậy, chỉ tiêu giá thành sản phẩm đòi hỏi phải được tính toán
chính xác. Những chi phí đưa vào gía thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực
của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có
liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan
không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong gía thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ
các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực
hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Chính vì vậy trong công tác quản lý doanh nghiệp, nhất là trong cơ chế thị trường hiện
nay, giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn được các nhà quản lý quan
tâm. Thông qua những thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, những quản
lý doanh nghiệp nắm vững được chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thực tế của từng
hoạt động, từng loại sản phẩm cũng như kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, phân tích, đánh giá tình hình kế hoạch của doanh nghiệp, để có
các quyết định quản lý thích hợp.
c. Các cách phân loại chi phí trong gía thành.
Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp bao gồm nhiều loại có nội dung kinh tế khác
nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất cũng khác nhau, để
phục vụ cho công tác quản lý chi phí sản xuất và kế toán tập hợp chi phí sản xuất, có thể
tiến hành phân loại chi phí sản xuất trong giá thành sản phẩm theo các tiêu thức khác
nhau.
Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung kinh tế của chi phí và theo công dụng cụ
thể của chi phí trong sản xuất
- Trước hết, theo nội dung kinh tế của chi phí, chi phí sản xuất được phân thành
tám yếu tố chi phí sản xuất. Những yếu tố này được sử dụng khi lập dự toán chi phí
sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ tiền lương, tính toán nhu cầu
vốn định mức. Phân loại theo nội dung kinh tế giữ được tính nguyên vẹn của từng
yếu tố chi phí, mỗi yếu tố đều là chi phí ban đầu do doanh nghiệp chi ra và không
phân tích được nữa. Mối yếu tố đều bao gồm mọi khoản chi có cùng nội dung và tác
dụng kinh tế giống nhau, không kể nó được chi ra ở đâu và quan hệ của nó với quá
trình sản xuất như thế nào.
- Căn cứ vào công dụng cụ thể của chi phí trong sản xuất người ta chia các chi phí
thành những khoản mục nhất định. Các khoản này được dùng trong việc xác định giá
thành đơn vị sản phẩm cũng như giá thành sản phẩm hàng hoá. Ngoài ra, cách phân
loại này còn cho thấy ảnh hưởng của từng khoản mục đến kết cấu và sự thay đổi của
giá thành. Qua đó nó cung cấp những thông tin cần thiết để xác định phương hướng
và biện pháp hạ giá thành sản phẩm.
Những yếu tố chi phí sản xuất và những khoản mục chi phí để tính gía thành đối
chiếu với nhau và được sắp xếp theo bảng sau:
Bảng 1: Nội dung của yếu tố chi phí sản xuất và khoản mục tính gía
thành sản phẩm
Yếu tố chi phí sản xuất Khoản mục tính gía thành
1. Nguyên vật liệu chính mua
ngoài
2. Vật liệu phụ mua ngoài
3. Nhiên liệu mua ngoài
4. Năng lượng mua ngoài
5. Tiền lương CNVC
6. Bảo hiểm xã hội CNVC
7. Khấu hao TSCĐ
8. Các chi phí khác bằng tiền
1. Nguyên vật liệu chính
2. Vật liệu phụ
3. Nhiên liệu dùng vào sản xuất
4. Năng lượng dùng vào sản xuất
5. Tiền lương của CNSX
6. BHXH của CNSX
7. Khấu hao TSCĐ dùng vào sản
xuất
8. Chi phí phân xưởng
9. Chi phí quản lý doanh nghiệp
10. Thiệt hại về ngừng SX và SP
hỏng
11. Chi phí ngoài sản xuất
Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp phân bổ chi phí vào giá thành,
người ta chia ra: Chi phí trực tiếp và chi phí gián
- Chi phí trực tiếp là những chi phí sản xuất quan hệ trực tiếp với quá trình sản
xuất ra từng loại sản phẩm và được tính trực tiếp vào giá thành của đơn vị sản phẩm hay
loại sản phẩm. Chi phí trực tiếp bao gồm:
+ Tiền lương và bảo hiểm xã hội của sản xuất.
+ Nguyên vật liệu chính, phụ dùng vào sản xuất.
+ Nguyên liệu, động lực dùng vào sản xuất.
+ Công cụ lao động nhỏ dùng vào sản xuất.
+ Chi phí trực tiếp khác bằng tiền.
- Chi phí gián tiếp là những chi phí có quan hệ đến hoạt động chung của phân
xưởng, của doanh nghiệp và được tính vào giá thành một cách gián tiếp bằng phương
pháp phân bổ: Kết cấu của chi phí gián tiếp cũng giống như chi phí trực tiếp, nhưng
những khoản này được chỉ ra cho hoạt động quản lý của doanh nghiệp hoặc các bộ phận
khác của doanh nghiệp.
Cách phân loại này không cứng nhắc, cố định mà tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng
doanh nghiệp công nghiệp.
Phân loại theo cách này có tác dụng trong việc tính toán giá thành kế hoạch cũng như
hạch toán giá thành thực tế của đơn vị sản phẩm và sản lượng hàng hoá.
Phân loại chi phí căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí và tình hình tăng giảm sản
lượng hàng hoá, người ta chia ra: Chi phí biến đổi (biến phí) và chi phí cố định (định
phí)
- Chi phí biến đổi là những chi phí có sự thay đổi về lượng tương quan tỷ lệ thuận với
sự thay đổi của khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ. Thuộc loại chi phí này như là chi
phí vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp.
Trong chi phí biến đổi người ta còn chi tiết hoá thành chi phí biến đổi cùng tỷ lệ (là chi
phí biến đổi cùng hướng và cùng mức độ với sự biến đổi của sản lượng sản phẩm làm ra)
và chi phí biến đổi không cùng tỷ lệ (là những chi phí có thể tăng nhanh hơn kết quả sản
xuất hoặc cũng có thể chậm hơn tốc độ tăng của kết quả sản xuất)
- Chi phí cố định là những chi phí về nguyên tắc không thay đổi theo sản lượng sản
phẩm trong giới hạn đầu tư. Đó là những khoản chi mà doanh nghiệp phải ứng chịu
trong mỗi đơn vị thời gian cho các đầu vào cố định. Nói một cách khác, chi phí cố định
là những khoản chi phí tồn tại ngay cả khi không sản xuất sản phẩm, nó hoàn toàn không
chịu sự tác động của bất kỳ sự biến đổi nào của việc thay đổi sản lượng sản phẩm trong
một giới hạn quy mô nhất định. Ví dụ: Khấu hao TSCĐ, chi phí lãi vay ngân hàng (trung
và dài hạn), chi phí bảo hiểm, tiền thuê đất đai, tiền lương của những người quản lý...
Thông thường chi phí trực tiếp là chi phí biến đổi, còn một số bộ phận trong chi phí
gián tiếp thuộc chi phí cố định.
Nhờ cách phân loại này người ta có thể đánh giá chính xác hơn tính hợp lý của chi phí
sản xuất chi ra. Mặt khác đó là cơ sở quan trọng để xác định sản lượng sản phẩm tối
thiểu và xây dựng một chính sách giá cả hợp lý linh hoạt đối với các doanh nghiệp trong
cơ chế thị trường.
Ngoài việc phân loại chi phí theo các cách chủ yếu trên đây, trong thực tế còn rất nhiều
cách phân loại khác nữa, chẳng hạn như căn cứ vào cấu thành của chi phí, căn cứ vào
quá trình luân chuyển của chi phí... Bằng những tiêu thức phân loại khác nhau, cho phép
nhà quản trị doanh nghiệp với những mục tiêu cụ thể sẽ vận dụng ý nghĩa của từng
phương pháp vào quá trình phân tích và quản lý chi phí, nhằm đạt hiệu quả cao hơn.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến gía thành sản phẩm
a. Nhân tố công nghệ - kỹ thuật sản xuất
Giá thành sản phẩm phụ thuộc nhiều vào cấu trúc sản phẩm, quá trình công nghệ sản
xuất và máy móc thiết bị. Sản phẩm thiết kế càng hợp lý thì vừa có chất lượng cao lại
vừa giảm được chi phí nguyên vât liệu, năng lượng để sản xuất ra sản phẩm. Với công
nghệ tiên tiến, khép kín, máy móc thiết bị hiện đại càng làm tăng năng suất lao động,
giảm chi phí tiêu hao nguyên vât liệu, nhiên liệu, năng lượng, là tăng sản lượng sản
phẩm ... điều đó cho phép hạ chi phí sản xuất, góp phần hạ giá thành sản phẩm.
b. Các định mức kinh tế - kỹ thuật
Định mức kinh tế - kỹ thuật là cơ sở cho việc tính các chi phí trong gía thành. Đồng thời
đó là chỉ tiêu để quản lý các chi phí trong sản xuất, đánh giá kiểm tra chất lượng công
tác.
Nếu định mức xây dựng các chi phí cao, không hợp lý sẽ gây nên tình trạng lãng phí.
Các đơn vị sản xuất do thực hiện các định mức dễ dàng nên không đầu tư biện pháp để
tiết kiệm các chi phí, sẽ không khuyến khích người lao động tìm các biện pháp để nâng
cao năng suất lao động, giảm tiêu hao nguyên vât liệu, từ đó dẫn đến không tiết kiệm các
chi phí để hạ giá thành sản phẩm.
Ngược lại nếu định mức xây dựng các chi phí thấp hơn khả năng thực tế có thể thực
hiện được thì sẽ mất đi ý nghĩa thực tế của nó, các đơn vị sản xuất, người lao động đã cố
gắng nhưng không thực hiện được mức, sẽ gây chán nản, phát sinh tư tưởng. Đồng thời
gía thành kế hoạch sẽ không chính xác, dẫn đến các c