Trong hơn mười năm qua , nhờ vận hành theo cơ chế thị trường mà nền kinh tế của
nước ta đã đạt được những tiến bộ vượt bậc so với nền kinh tế theo cơ chế tập trung trước
kia. Cùng với sự biến chuyển của cả nền kinh tế , hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam , sau khi được tổ chức lại thành hệ thống ngân hàng hai cấp theo nghị định
53/HĐBT , đã có nhiều đóng góp đáng kể trong công cuộc xây dựng đất nước . Nhờ sự
thay đổi này mà hệ thống ngân hàng thương mại cũng trở nên độc lập , linh hoạt và hoạt
động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên cơ chế thị trường cũng đặt ra nhiều thách thức cho tất
cả các đơn vị kinh tế nói chung , cũng nh ư các ngân hàng thương mại nói riêng . Rủi ro
luôn là người bạn đồng hành với tất cả các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế thị tr ường ,
và ngân hàng thương mại với tư cách là một đơn vị kinh doanh tiền tệ cũng không phải là
một ngoại lệ .
Những dịch vụ cũng như các hình thức tín dụng mà ngân hàng cung cấp đã
giúp cho các doanh nghiệp có thể tiến hành một cách dễ dàng hơn hoạt động sản xuất
kinh doanh và mở rộng qui mô sản xuất. Hiện nay có thể nói không có một doanh nghiệp
nào có thể phát triển hoạt động kinh doanh một cách thuận lợi mà không cần các dịch vụ
hay các hình thức tín dụng ngân hàng . Nguồn vốn vay từ ngân hàng luôn đóng vai trò
quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , và chiếm tỷ trọng lớn
trong nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp .
Mặt khác hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng mang lại lợi nhuận chủ yếu
cho ngân hàng , cho nên bất kì một rủi ro nào mà doanh nghịêp gặp phải đều có khả năng
mang đến rủi ro cho ngân hàng , và ngược lại bất cứ rủi ro nào mà ngân hàng gặp phải
đều có khả năng gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho bản thân ngân hàng và cho các
đối tác liên quan. Mà trong điều kiện kinh tế đầy biến động như hiện nay những nguy cơ
tiềm ẩn như : sự biến động bất lợi của bối cảnh kinh tế , những kẻ hở pháp luật , vốn vay
bị sử dụng sai mục đích, khách hàng phá sản, luôn có thể biến khoản vay tôt thành nợ khó
đòi. Đó là nguy cơ mà bất cứ ngân hàng nào cũng phải đương đầu .
80 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1667 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tại SGDI ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Những biện pháp nhằm hạn chế rủi
ro tại SGDI ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam
Lời mở đầu
Trong hơn mười năm qua , nhờ vận hành theo cơ chế thị trường mà nền kinh tế của
nước ta đã đạt được những tiến bộ vượt bậc so với nền kinh tế theo cơ chế tập trung trước
kia. Cùng với sự biến chuyển của cả nền kinh tế , hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam , sau khi được tổ chức lại thành hệ thống ngân hàng hai cấp theo nghị định
53/HĐBT , đã có nhiều đóng góp đáng kể trong công cuộc xây dựng đất nước . Nhờ sự
thay đổi này mà hệ thống ngân hàng thương mại cũng trở nên độc lập , linh hoạt và hoạt
động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên cơ chế thị trường cũng đặt ra nhiều thách thức cho tất
cả các đơn vị kinh tế nói chung , cũng như các ngân hàng thương mại nói riêng . Rủi ro
luôn là người bạn đồng hành với tất cả các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế thị trường ,
và ngân hàng thương mại với tư cách là một đơn vị kinh doanh tiền tệ cũng không phải là
một ngoại lệ .
Những dịch vụ cũng như các hình thức tín dụng mà ngân hàng cung cấp đã
giúp cho các doanh nghiệp có thể tiến hành một cách dễ dàng hơn hoạt động sản xuất
kinh doanh và mở rộng qui mô sản xuất. Hiện nay có thể nói không có một doanh nghiệp
nào có thể phát triển hoạt động kinh doanh một cách thuận lợi mà không cần các dịch vụ
hay các hình thức tín dụng ngân hàng . Nguồn vốn vay từ ngân hàng luôn đóng vai trò
quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , và chiếm tỷ trọng lớn
trong nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp .
Mặt khác hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng mang lại lợi nhuận chủ yếu
cho ngân hàng , cho nên bất kì một rủi ro nào mà doanh nghịêp gặp phải đều có khả năng
mang đến rủi ro cho ngân hàng , và ngược lại bất cứ rủi ro nào mà ngân hàng gặp phải
đều có khả năng gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho bản thân ngân hàng và cho các
đối tác liên quan. Mà trong điều kiện kinh tế đầy biến động như hiện nay những nguy cơ
tiềm ẩn như : sự biến động bất lợi của bối cảnh kinh tế , những kẻ hở pháp luật , vốn vay
bị sử dụng sai mục đích, khách hàng phá sản, luôn có thể biến khoản vay tôt thành nợ khó
đòi. Đó là nguy cơ mà bất cứ ngân hàng nào cũng phải đương đầu .
Chính vì thế mà rủi ro và vấn đề phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh tín
dụng của ngân hàng bao giờ cũng là một vấn đề được quan tâm hàng đầu để tránh những
tác động xấu đến hoạt động của các ngân hàng và có thể của nhiều doanh nghiệp hay của
cả nền kinh tế.
Xuất phát từ lý do trên cùng với quá trình thực tập tại sở giao dịch I ngân hàng đầu
tư và phát triển Việt Nam , em xin mạnh dạn chọn đề tài “Những biện pháp nhằm hạn
chế rủi ro tại SGDI ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam”
thương
mại và rủi ro tín dụng
I. Ngân hàng thương mại và tín dụng ngân hàng
trong nền kinh tế thị trường
1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại xuất hiện trước từ thời trung cổ với hoạt động chủ yếu là
đổi tiền. Tính chất vô danh của đồng tiền khiến cho những người kinh doanh tiền tệ có
thể chuyển từ việc chỉ giữ hộ tiền (vàng) sang đổi hộ tiền, vận chuyển hộ tiền và dần dần
khi họ tích luỹ được một số vốn nhất định họ sẽ tiến hành cho vay lấy lãi. Để có thể cho
vay nhiều và thu được nhiều lợi nhuận những thương gia kinh doanh tiền tệ sẽ phải
khuyến khích khách hàng gửi tiền nhiều bằng cách không thu phí giữ tiền và hơn nữa là
trả lãi .Ngoài ra họ còn tiến hành nghiệp vụ thanh toán hộ khách hàng. Khi cả ba nghiêp
vụ nợ (huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay) và nghiệp vụ trung gian (thanh toán) được
hình thành thì lúc đó ngân hàng thực thụ đã xuất hiện. Và kể từ đó ngân hàng ngày càng
phát triển về số vốn, về thị trường , về hoạt động và cả về công nghệ .
Như vậy có thể nói Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ . Hoạt động thường xuyên của nó là huy động vốn, cho vay và thực hiện
những hoạt động trung gian khác .
2. Những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại
2.1. Nghiệp vụ nợ
Nghiệp vụ nợ hay còn gọi là nghiệp vụ tạo nguồn vốn và huy động vốn là một trong
những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại. Thực hiện nghiệp vụ này Ngân
hàng thương mại đã thực hiện được một phần chức năng tạo tiền.
Nếu không có hoạt động của các ngân hàng thương mại thì các doanh nghiệp nhất là
những doanh nghiệp kinh doanh theo mùa sẽ gặp trường hợp có thời gian bị ứ đọng vốn
nhưng lại cũng có khi không có vốn để sản xuất. Nhờ hoạt động của các ngân hàng mà
các doanh nghiệp có thể gửi tiền vào khi không cần hoặc vay tiền khi thiếu vốn ngoài ra
các doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng để sử dụng các dịch vụ thanh toán
của ngân hàng đây là một nguồn quan trọng mà ngân hàng có thể huy động được . Ngoài
tiền gửi thanh toán của dân cư và các tổ chức kinh tế với kì hạn và lãi suất khác nhau
ngân hàng còn có thể tạo nguồn vốn bằng cách phát hành trái phiếu , cổ phiếu hoặc cũng
có thể vay ngân hàng khác hoặc các ngân hàng nước ngoài .
Nếu như ngân hàng thực hiện công tác tạo nguồn và huy động một cách thuận lợi
thì các hoạt động khác của ngân hàng , đặc biệt là hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng
ít gặp khó khăn do được cung cấp đầy đủ vốn. Tuy nhiên yêu cầu đặt ra đối với ngân
hàng là : luôn phải đảm bảo một khối lượng tiền gửi phù hợp với khả năng sử dụng của
chính ngân hàng . Nhưng để xác định được nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng cần phải
căn cứ vào nhu cầu của nền kinh tế mà cụ thể là nhu cầu của khách hàng của ngân hàng.
Nếu lượng vốn huy động thừa ngân hàng sẽ phải chi trả một phần chi phí mà không mang
lại lợi nhuận, còn nếu thiếu thì hoạt động của ngân hàng sẽ bị hạn chế.Cho nên có thể nói
hoạt động huy động và tạo nguồn vốn là hoạt động cơ bản có ý nghĩa quan trọng trong
hoạt động kinh doanh của ngân hàng , quyết định tới qui mô sử dụng vốn và cơ cấu sử
dụng vốn của ngân hàng Chính vì vậy mà hoạt động này cần phải được chú trọng
2.2 Ngiệp vụ có
Ngiệp vụ có hay còn gọi là hoạt động sử dụng vốn là hoạt động mang lại lợi nhuận
chủ yếu cho ngân hàng . Những hoạt động này rất đa dạng và phong phú nhưng có thể
chia thành ba nhóm bao gồm : các hoạt động về ngân quĩ, các hoạt động cho vay, các
hoạt động đầu tư.
a. Các hoạt động về ngân quĩ
Mục đích của các hoạt động về ngân quĩ là nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của
ngân hàng , chính vì thế mà mỗi ngân hàng đều cần phải có một mức độ dự trữ thích hợp.
Quản lý khoản mục dự trữ là một trong những trách nhiệm hàng đầu của ngân hàng , bởi
xuất phát từ trách nhiệm đối với người gửi . Ngân hàng phải có trách nhiệm thanh toán
tiền gửi cho khách hàng bất cứ lúc nào họ muốn rút vì quyền lợi của chính ngân hàng , vì
nếu ngân hàng không thể hoàn trả cho khách hàng khi họ có nhu cầu , thì khách hàng sẽ
mất lòng tin và gây khó khăn cho công tác huy động vốn của ngân hàng , còn nếu ngân
hàng hoàn trả kịp thời thì có thể tạo niềm tin cho khách hàng và có thể nhận được nhiều
tiền gửi, cho vay nhiều hơn.
Vì ngân hàng có ảnh hưởng lớn tới hoạt động của nền kinh tế cho nên cần phải có sự
kiểm soát chặt chẽ của nhà nước để tránh tình trạng ngân hàng cho vay quá nhiều, mất
khả năng thanh toán , gây ảnh hưởng tiêu cực. Thêm vào đó , hoạt động của ngân hàng
cũng tạo thêm phương tiện thanh toán cho nền kinh tế , nhưng dư thừa quá cũng không
tốt, cho nên nhà nước cần phải qui định mức dự trữ của ngân hàng thương mại để khống
chế khả năng tạo tiền , nhằm thực hiện chính sách tiền tệ.
Như vậy khoản mục dự trữ của ngân hàng thương mại có thể được hình thành vì các
lý do khác nhau nhưng có thể chia thành hai bộ phận bao gồm :
- Dự trữ bắt buộc theo qui định của nhà nước
- Dự trữ tự nguyện có thể để phục vụ khả năng thanh toán , hoặc cũng có thể do
ngân hàng không thể cho vay được , hoặc cũng có thể ngân hang để lại để chờ cơ hội có
lợi nhuận cao hơn
Dự trữ của một ngân hàng có thể tồn tại dưới các hình thái : Tiền mặt ở trong két ,
tiền gửi ngân hàng khác , số dư trong tài khoản của khách hàng , giấy tờ có giá ngắn hạn
như tín phiếu kho bạc.
Xác định đúng mức dự trữ phù hợp là một hoạt động quan trọng đối với mỗi một
ngân hàng vì nếu dự trữ không đủ thì có thể gây mất khả năng thanh toán , nhưng nếu dự
trữ dư thừa thì không tận dụng được nguồn vốn , làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Để
xác định đúng mức dự trữ cho ngân hàng phải căn cứ vào nhiều yếu tố , trước hết là dự
đoán một cách tương đối chính xác nhu cầu rút tiền của khách hàng dựa trên việc phân
tích những kết quả thống kê trước đó cũng như dựa trên việc phân tích những biến động
có thể có của nền kinh tế , đồng thời cũng phải dựa vào luồng tiền có thể trở về ngân
hàng như : các khoản vay đến kì hạn thanh toán , các khoản lãi có thể thu được để xác
định mức dự trữ phù hợp. Ngoài ra còn cần phải xác định các hình thái dự trữ cho phù
hợp sao cho có lợi nhất cho ngân hàng .
b. Các hoạt động cho vay
Đây là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng nhưng có độ rủi ro rất
cao. Vốn mà Ngân hàng thương mại sử dụng để cho vay chủ yếu suất phát từ nguồn vốn
mà ngân hàng huy động được từ các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế ngoài ra ngân
hàng còn có thể sử dụng vốn tự có để cho vay. Trong việc tạo ra khả năng tín dụng, các
ngân hàng thương mại đã và đang thực hiện các chức năng xã hội của mình làm cho sản
phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó dẫn đến lợi nhuận nhiều hơn,
đời sống kinh tế của nhân dân được nâng cao. Rõ ràng tín dụng ngân hàng có ý nghĩa
quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của nền kinh tế, nó tạo ra khả năng tài trợ cho hoạt
động công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp của đất nước. Vì thế nên mọi hoạt động
cho vay của ngân hàng đều phải chịu sự giám sát nghiêm ngặt và phải tuân theo những
qui định của các nhà chức trách cũng như các qui định của bản thân ngân hàng .
Do việc cho vay có liên quan chặt chẽ tới bản thân ngân hàng và những khách hàng
mà nó phục vụ nên chính sách cho vay phải được thiết lập một cách cẩn thận sau khi xem
xét đến toàn bộ những yếu tố ảnh hưởng . Hoạt động cho vay của một ngân hàng trước
hết phụ thuộc vào tình hình vốn của nó, vốn của bản thân ngân hàng được xem như là lớp
lá chắn cho các khoản tiền gửi của khách hàng, vì thế nên qui mô vốn có ảnh hưởng tới
số lượng rủi ro mà một ngân hàng có thể chấp nhận được. Các ngân hàng có qui mô vốn
lớn có thể cho vay với các kì hạn dài hơnvà nhiều rủi ro tín dụng hơn. Sau khi đã giành
một lượng tài sản thích hợp cho dự trữ , các ngân hàng buộc phải xem xét tới tính ổn định
của các khoản tiền gửi để tiến hành hoạch định chính sách cho vay. Ngoài ra khi hoạch
định chính sách cho vay ngân hàng cũng cần phải tính tới các điều kiện kinh tế và những
ảnh hưởng của chính sách tài chính tiền tệ của quốc gia. Nếu điều kiện kinh tế không
thuận lợi thì các khoản vay cũng trở nên tự do hơn so với khi điều kiện kinh tế không
thuận lợi.
Chính sách cho vay hợp lý chính là điều kiện quyết định sự thành công của một
ngân hàng , nó cho phép ngân hàng khai thác tối đa nguồn vốn mà ngân hàng có và có thể
huy động được đem lại lợi nhuận tối ưu cho ngân hàng.
c.Các hoạt động đầu tư
Khác với hoạt động cho vay ngân hàng chỉ đóng vai trò là chủ nợ,
không trực tiếp tham gia quá trình sử dụng tiền mà chỉ có thể giám sát , thì khi đâu tư các
ngân hàng có thể can thiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh. Hoạt động đầu tư thông
thường phải chịu rủi ro nhiều hơn hoạt động tín dụng nhưng lợi nhuận lại cao hơn và
không dự tính trước một cách rõ ràng vì còn phụ thuộc vào hiệu quả của quá trình kinh
doanh.
Mục đích của hoạt động đầu tư là nhằm cung cấp cho ngân hàng tính đa dạng , lợi
nhuận , và là một khoản dự trữ thứ cấp khi cần thiết. Mỗi ngân hàng đều có một chính
sách đầu tư riêng bởi vì sẽ là không khôn ngoan nếu không có một hoạt động đầu tư nào
ngoài khu vực nó cho vay do một nguyên tắc đầu tiên , cốt yếu của hoạt động đầu tư là
phân tán rủi ro . Chính sách đầu tư của một ngân hàng phụ thuộc vào lợi nhuận , nhu cầu
thanh khoản và mức độ sẵn sàng chấp nhận rủi ro của chính ngân hàng đó.
Các hoạt động đầu tư của ngân hàng có thể dưới dang góp vốn liên doanh hoặc
ngân hàng cũng có thể sử dụng vốn của mình để mua các chứng khoán trên thị trường .
Tuy nhiên dù dưới hình thức nào , và với mục đích nào thì ngân hàng luôn phải quan tâm
tới chất lượng và kì hạn của mỗi khoản đầu tư đặc biệt là chất lượng vì hoạt động đầu tư
cũng đóng góp phần không nhỏ vào lợi nhuận của ngân hàng. Để đảm bảo chất lượng cho
các khoản đầu tư ngân hàng thương mại phải đa dạng hoá danh mục đầu tư nhằm chống
lại và hạn chế những rủi ro bất ngờ mà nó có thể gặp trong hoạt động đầu tư của mình.
Ngoài ra kì hạn của các khoản đầu tư cũng là yếu tố mà ngân hàng cần phải quan tâm ,
bởi ngoài mục đích lợi nhuận ra , những tài sản này còn phải hỗ trợ cho nhu cầu thanh
khoản của ngân hàng .
Chính sách đầu tư không những phải phù hợp với tình hình và nhu cầu của bản thân
mỗi ngân hàng mà còn phải điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình kinh tế và những
thay đổi khác có thể ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư như thay đổi về mặt chính sách , luật
pháp ,và tình hình chính trị .Một chính sách đầu tư đúng đắn là lá chắn an toàn cho mọi
ngân hàng thương mại .
2.3 Nghiệp vụ trung gian
Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ , với sự hỗ trợ của
những thiết bị hiện đại , những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng ngày
càng phong phú và đa dạng . Những dịch vụ này ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận và
đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa, nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng
thương mại không chỉ đơn thuần là trung gian thanh toán mà còn quản lý các phương tiện
thanh toán một cách có hiệu quả. Hiện nay ở nhiều nước ngân hàng đã và đang trang bị
hệ thống máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật hiện đại khác nhằm làm cho quá trình
thanh toán bù trừ, thanh toán liên hàng được thực hiện nhanh chóng, giảm bớt chi phí và
đạt độ chính xác cao .
Ngoài hoạt động thanh toán Ngân hàng thương mại còn thực hiện một số dịch vụ
như :nhận bảo quản tài sản cho cá nhân , dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ bảo quản vật có
giá , quản lý chứng từ có giá , tư vấn cung cấp thông tin về kinh tế cho khách hàng ...
Những hoạt động này luôn phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế và càng
khẳng định sự hữu ích và vai trò quan trọng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
thị trường.
3. Vai trò của tín dụng ngân hàng
3.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Ngày nay , các ngân hàng thương mại là một bộ phận không thể thiếu trong đời
sống kinh tế –xã hội. Thông qua cơ chế thị trường, ngân hàng có khả năng thu hút hầu
hết những nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để chuyển giao đúng nơi , đúng lúc, phù
hợp với nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh. Các ngân hàng thương mại , thực hiện
việc cung cấp vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng , đồng thời thông qua
hoạt động này ngân hàng cũng thu được lợi nhuận cho mình.
Về bản chất tín dụng là một quan hệ kinh tế , trong đó các chủ thể chuyển nhượng
cho nhau quyền sử dụng một lượng giá trị hoặc hoặc hiện vật với những điều kiện do cả
hai bên thoả thuận , những điều kiện đó có thể là những điều kiện về lượng tiền hoặc
hàng hoá , về thời hạn , về lãi trả , phương thức trả , điều kiện đảm bảo.... Như vậy tín
dụng ngân hàng thực chất là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lưọng vốn
nhất định của ngân hàng cho người khác (người đi vay) trong một khoảng thời gian nhất
định với những điều kiện cụ thể về thời gian hoàn trả và về lãi suất.
Trong tất cả các hình thức khác nhau của quan hệ tín dụng thì tín dụng ngân hàng là
loại hình tín dụng phát triển nhanh chóng và đa dạng nhất . Cùng với sự phát triển của
mọi mặt đời sống kinh tế xã hội các hình thức tín dụng ngân hàng ngày càng trở nên
quan trọng và đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất kinh doanh.
3.2 Các loại hình tín dụng ngân hàng
Hiện nay phạm vi hoạt động của tín dụng ngân hàng là khá rộng lớnvà đa dạng ,
việc phân loại chỉ có tính chất tương đối , dựa vào những căn cứ khác nhau mà có thể
phân chia thành các loại tín dụng ngân hàng khác nhau
a. Căn cứ vào thời hạn có thể chia thành
- Tín dụng ngắn hạn : là các khoản cho vay mà thời hạn không quá một năm.
Mục đích chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp về mua nguyên vật liệu , chi phí sản xuât.
- Tín dụng trung hạn : là các khoản vay thường có thời hạn từ trên một năm đến
ba, năm , hoặc bảy năm , tuỳ vào qui định của mỗi quốc gia. Mục đích là vay vốn để sữa
chữa, khắc phục, thay thế tài sản cố định hoặc cải tiến kỹ thuật , hợp lý hoá sản xuất , đổi
mới công nghệ và xây dựng mới những công trình loại nhỏ , thời hạn thu hồi vốn nhanh
- Tín dụng dài hạn : Là những khoản vay có thời hạn trên ba, năm , hoặc bảy
năm tuỳ thuộc vào qui định của mỗi quốc gia. Mục đích của những khoản vay này giống
nhưtín dụng trung hạn nhưng với những công trình có qui mô và thời hạn dài hơn.
b. Căn cứ vào mục đích tín dụng
- Tín dụng tiêu dùng : là những khoản vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như
mua chịu hàng hoá , xây dựng nhà ở và các phương tiện cần thiết khác. Thông thường
những khoản vay này được thực hiện cho cá nhân hoặc các hộ gia đình .
- Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá : là loại tín dụng được cung
cấp cho các nhà sản xuất và kinh doanh hàng hoá .Nó đáp ứng nhu cầu vốn trong quá
trình sản xuất kinh doanh để dự trữ nguyên vật liệu , cho vay chi phí sản xuất hoặc đáp
ứng nhu cầu vốn trong quan hệ thanh toán giữa các doanh nghiệp . Trong tín dụng phục
vụ sản xuất kinh doanh người ta còn có thể chia thành tín dụng phục vụ kinh doanh
thưong mại , tín dụng phục vụ sản xuất công nghiệp , tín dụng phục vụ sản xuất công
nghiệp , tín dụng phục vụ sản xuất nông nghiệp .
c. Căn cứ vào thành phần kinh tế
Căn cứ vào thành phần kinh tế có thể chia thành
- Tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh : là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng
và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm : công ty trách nhiệm hữu hạn , công ty
cổ phần , doanh nghiệp tư nhân ,hộ cá thể , tổ sản xuất và hợp tác xã .
- Tín dụng đối với kinh tế quốc doanh : là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các
doanh nghiệp nhà nước.
d. Phân loại theo đặc điểm luân chuyển vốn
- Tín dụng vốn cố định : là loại tín dụng được cung cấp để hình thành nên tài sản cố
định cho các tổ chức kinh tế
- Tín dụng vốn lưu động : là loại tín dụng được cung cấp để bổ sung vốn lưu động
cho các tổ chức kinh tế
e. Căn cứ vào điều kiện đảm bảo
- Tín dụng có đảm bảo là những khoản vay mà ngân hàng nắm giữ tài sản của
người vay với mục đích xử lý tài sản đó để thu hồi tiền chovay khi khách hàng vi phạm
hợp đồng tín dụgn
-- Tín dụng không có đảm bảo :là những khoản vaymà ngân hàng không nắm giữ tài
sản của người vay để xử lý thu hồi , mà thay vào đó là những điều kiện ràng buộc khác.
f. Ngoài ra còn có một số ngiệp vụ khác
- Ngiệp vụ chiết khấu :là nghiệp vụ mà theo đó ngân hàng cung cấp tiền cho người
mang chứng từ đến ngân hàng chiết khấu trên cơ sở mệnh giá của chứng từ chiết khấu ,
trừ đi một khoản lệ phí chiết khấu . Các chứng từ có thể là kỳ phiếu , hối phiếu , phiếu
gửi hàng trong kho...Đây là một hình thức cho vay , có đảm bảo , độ an toàn cao vì nhiều
người có trách nhiệm trả tiền cho chứng từ chiết khấu và vì uy tín của những người này
khá cao thì chứng từ mới được chấp nhận .
- Nghiệp vụ thuê mua : đây là nghiệp vụ mà ngân hàng tài trợ cho khách hàng dưới
hình thức cho thuê tài sản .
3.3.Vai trò tín dụng ngân hàng
a. Trong nền kinh tế thị trường
Ngày nay tín dụng ngân hàng là đòn bẩy quan trọng trong nền kinh tế là nguồn vốn
quan trọng , chủ động để phát triển kinh tế tron