Trên con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã chọn cho mình mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay, kinh tế thị trường vẫn là mô hình kinh tế ưu việt nhất vơi các ưu điểm như
Có sự phối hợp tự động, linh hoạt, mềm dẻo, nhanh nhạy giữa các khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình.
Khuyến khích cải tiến, đổi mới và phát triển.
Tự điều chỉnh những trạng thái mất cân bằng cung cầu và xác lập lại những trạng thái cân bằng mới.
Phân bổ các nguồn lực hiệu quả.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu diểm đó vẫn tồn tại những khuyết điểm không nhỏ như
Các tác dđộng ngoại vi.
Sự phân hóa giàu – nghèo.
Thiếu hàng hóa công cộng.
Sự gia tăng quyền lực độc quyền.
Chu kì kinh doanh.
Thông tin thị trường lệch lạc.
Những khiếm khuyết này đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế, xã hôi, tự nhiên môi trường Bài nghiêm cứu này sẽ đi sâu phân tích tìm hiểu các khiếm khuyết của thi trường cạnh tranh, các tác động của nó cùng biện pháp khắc phục của chính phủ. Đồng thời thử xác định khiếm khuyết có ảnh hưởng lớn dến nền kinh tế thị trường Việt Nam, các giải pháp của chính phủ Việt Nam trước khiếm khuyết này.
34 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2673 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những kiếm khuyết của thị trường cạnh tranh và giải pháp của Chính phủ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--o0o--
Bộ môn:
KINH TẾ VĨ MÔ
Đề tài:
NHỮNG KIẾM KHUYẾT CỦA THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH
VÀ GIẢI PHÁP CỦA CHÍNH PHỦ
Giáo viên hướng dẫn: Trần Thừa
Sinh viên: Nguyễn Thị Diễm Kiều
MSSV: 108209213
Lớp: 92K34
STT: 13
Năm học 2009 - 2010
MỤC LỤC
Lời Mở Đầu 3
Các khiếm khuyết của thị trường cạnh tranh 4
Các tác động ngoại vi 4
Khái niệm 4
Nguyên nhân cơ bản gây ra tác động ngoại vi tiêu cực 4
Biểu hiện 4
Tác động 6
Sự phân hóa giàu – nghèo 8
Nguyên nhân phát sinh 8
Biểu hiện 8
Tác động 10
Thiếu hàng hóa công cộng 11
Khái niệm 11
Nguyên nhân phát sinh 11
Biểu hiện 12
Tác động 13
Chu kì kinh doanh 14
Khái niệm 14
Nguyên nhân phát sinh 16
Biểu hiện, tác động 18
Sự gia tăng quyền lực độc quyền 18
Khái niệm 18
Nguyên nhân phát sinh 19
Tác động 19
Thông tin thị trường lệch lạc 21
Khái niệm 21
Nguyên nhân phát sinh 21
Biểu hiện 22
Tác động 23
Giải pháp của chính phủ 24
Với Các tác dđộng ngoại vi 24
Với Sự phân hóa giàu – nghèo 25
Với Chu kì kinh doanh 26
Với tình trạng Thiếu hàng hóa công cộng 26
Với Sự gia tăng quyền lực độc quyền 27
Với Thông tin thị trường lệch lạc 27
Khiếm khuyết nổi bật trong nền kinh tế thị trường VN 28
Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 28
Nguyên nhân phát sinh 29
Giải pháp của chính phủ 31
Kết Luận 34
LỜI MỞ ĐẦU
Trên con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã chọn cho mình mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay, kinh tế thị trường vẫn là mô hình kinh tế ưu việt nhất vơi các ưu điểm như
Có sự phối hợp tự động, linh hoạt, mềm dẻo, nhanh nhạy…giữa các khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình.
Khuyến khích cải tiến, đổi mới và phát triển.
Tự điều chỉnh những trạng thái mất cân bằng cung cầu và xác lập lại những trạng thái cân bằng mới.
Phân bổ các nguồn lực hiệu quả.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu diểm đó vẫn tồn tại những khuyết điểm không nhỏ như
Các tác dđộng ngoại vi.
Sự phân hóa giàu – nghèo.
Thiếu hàng hóa công cộng.
Sự gia tăng quyền lực độc quyền.
Chu kì kinh doanh.
Thông tin thị trường lệch lạc.
Những khiếm khuyết này đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế, xã hôi, tự nhiên môi trường…Bài nghiêm cứu này sẽ đi sâu phân tích tìm hiểu các khiếm khuyết của thi trường cạnh tranh, các tác động của nó cùng biện pháp khắc phục của chính phủ. Đồng thời thử xác định khiếm khuyết có ảnh hưởng lớn dến nền kinh tế thị trường Việt Nam, các giải pháp của chính phủ Việt Nam trước khiếm khuyết này.
Với kiếm thức và kinh nhiệm còn nhiều hạn chế, bài tiểu luận này chắc chắn không tránh khỏi nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự nhận xét, đóng góp ý kiến của thầy. Em xin chân thành cảm ơn.
CÁC KIẾM KHUYẾT CỦA THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH
Tác Động Ngoại Vi (Externalities)
Khái niệm: Tác động ngoại vi (Externalities) là những hành vi diễn ra ngoài thị trường, không thông qua thanh toán bằng tiền. Dù tác động ngoại vi của doanh nghiệp gây tác động xấu (hay làm lợi ích) cho xã hội cũng không phải trả (hay nhận được) các khoản thanh toán bằng tiền.
Tác động ngoại vi được chia thành 2 loại:
Tác động ngoại vi tích cực như việc phát triển của doanh nghiệp sẽ tạo thêm nhiều việc làm cho dân cư địa phương, đồng thời thúc đẩy các vùng lân cận phát triển…
Tác động ngoại vi tiêu cực như ô nhiễm môi trường, khai thác tài nguyên bừa bãi…do hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp gây ra…
Thực tế đã chứng minh, những tác động tiêu cực này đã gây ra những thiệt hại vô cùng to lớn cho xã hội và môi trường. Đồng thời ngày càng có xu hướng gia tăng khi nền kinh tế thị trường càng phát triển. Ở đây sẽ phân tích những tác động ngoại vi tiểu cực.
Nguyên nhân cơ bản gây ra những tác động ngoại vi tiêu cực
Các tác động ngoại vi diễn ra ngoài thị trường, các doanh nghiêp không phải trả chi phí cho những thiệt hại gây ra.
Mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhân, tối thiểu hóa chi phí. Trong khi đó, để ngăn chặn hay giải quyết các tác động ngoại vi tiêu cực đòi hỏi chi phí rất lớn
Các doanh nghiệp thường không là người trực tiếp gánh chịu hậu quả do các tác động ngoại vi tiêu cực của mình gây ra.
Ý thức về tác hại của các tác động ngoại vi còn thấp.
Biểu hiện
Thực tế chưng minh, hầu hết các doanh nghiệp chưa có ý thưc bảo vệ tài nguyên môi trường, lợi ích xã hội. Ở nước ta hiện nay có tới hơn 80% các doanh nghiệp chưa có trách nhiệm trong việc giải quyết các tác động tiêu cực do mình gây ra.
Một trong những biểu hiện nổi bật nhất hiện nay của các tác động ngoại vi tiêu cực ở nước ta là ô nhiễm môi trường. Đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm do chất thải rắn.
Về ô nhiễm nguồn nước:
Theo ông Trần Hồng Hà, Cục trưởng Cục Bảo vệ môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong tổng số 183 Khu công nghiệp trong cả nước, có trên 60% Khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Tại các khu công nghiệp đã có thì cơ sở hạ cũng hầu như chưa đạt tiêu chuẩn.
Ở Tp. Hồ Chí Minh, trong số 12 khu Công nghiệp chỉ có 2 khu là có hệ thống xử lý nước thải. Chỉ tính riêng tại cụm công nghiệp Tham Lương, Tp. HCM, mỗi ngày ước tính có khoảng 500.000 m3 nước thải độc hại từ các nhà máy xả vào môi trường.
Ở thành phố Thái Nguyên, về mùa cạn, tổng lượng nước thải công nghiệp chiếm khoảng 15% lưu lượng sông Cầu. Nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,4-9 và hàm lượng NH4 là 4mg/1, hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi khó chịu…
Ở Hà Nội, tổng lượng nước thải của thủ đô lên tới 300.000 - 400.000 m3/ngày. Hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện và 36/400 cơ sở sản xuất có hệ thống xử lý nước thải. Chỉ số BOD, oxy hoà tan, các chất NH4, NO2, NO3 ở các sông, hồ, mương nội thành đều vượt quá quy định cho phép
Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định, Hải Dương…các thông số chất lơ lửng (SS), BOD; COD; Ô xy hoà tan (DO) trong nước đều vượt từ 5-10 lần, thậm chí 20 lần tiêu chuẩn cho phép.
Sự việc công ty Vedan trong thời gian gần đây là minh chứng rõ ràng nhất cho tác động này.
Về chất thải rắn:
Theo số liệu thống kê năm 2007 của Cục Bảo vệ môi trường, tổng khối lượng phát sinh Chất thải rắn nguy hại tại 64 tỉnh thành trong cả nước là 16.927,80 tấn/ngày, tương đương 6.170.868 tấn/năm. Như vậy, trung bình tại mỗi đô thị của các tỉnh, thành phố trong cả nước phát sinh 264,5 tấn/ngày. Trong đó, TP Hồ Chí Minh là nơi có khối lượng phát sinh lớn nhất với khoảng 5.500 tấn/ngày.
Dự báo đến năm 2010, lượng chất thải rắn của Việt Nam sẽ tăng từ 24 - 30% tương đương 45 triệu tấn rác/năm. Trong đó, chất thải y tế nguy hại vào khoảng 25.000 tấn/năm, chất thải rắn nguy hại công nghiệp vào khoảng 130.000 tấn/năm.
Bên cạnh hai vấn đề ô nhiễm nổi bật trên còn tồn tại hàng loạt những vấn đề ô nhiêm môi trường khác. Nền kinh tế thị trường, khoa học kỹ thuật càng phát triển thì không chỉ lượng chất thải ngày càng tăng lên, mà còn xuất hiện thêm nhiều loại ô nhiễm môi trường mới như ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm ánh sáng, ô nhiễm do các nhà máy nguyên tử, các lần phóng vệ tinh nhân tạo…
Tác động
Nền kinh tế thị thường càng phát triển, ảnh hưởng do các tác động ngoại vi của nó gây ra cho tự nhiên, môi trường và xã hội ngày nghiêm trọng và cái giá mà chúng ta phải trả ngày càng lớn.
Đến sức khỏe con người:
Suy thoái của chất lượng nước, không khí và những nguy hiểm khác về môi trường đã ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp lên sức khỏe con người, dẫn đến sự suy giảm sức khỏe và các bệnh tật liên quan, bao gồm cả các căn bệnh gây ra bởi vi trùng và côn trùng do sự thay đổi của khí hậu như sốt rét, vàng da…Theo tổ chức thế giới đã có khoảng 2 triệu người chết vì các bệnh liên quan đến môi trường.
Không chỉ có tác động trực tiếp, ô nhiễm môi trường còn để lại những hậu quả lâu dài có khi đến vài thế hệ. Điển hình là sự bùng nổ các làng ung thư ở Việt Nam. Sau làng ung thư đầu tiên ở Thạch Sơn – Phú Thọ, liên tiếp một loạt các làng ung thư khác được nhắc tới ở Hà Nam, Hà Tây, Nghệ An, Quảng Nam và mới đây nhất là làng ung thư ở Thuỷ Nguyên - Hải Phòng. Có nơi số người chết lên tới hơn 1/3 dân số của làng, bao gồm cà người già và trẻ em – tất cả đểu liên quan đến tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng.
Đến nền kinh tế:
Ô nhiễm môi trường làm suy yếu sức khoẻ con người, từ đó dẫn đến giảm năng suất lao động, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, sự suy thoái của chất lượng môi trường sẽ làm giảm hiệu năng các nguồn tài nguyên cho sản xuất như sự tổn thất trong nghề cá (do ô nhiễm nước), giảm sự phát triển của rừng do đất bị xói mòn…
Mặt khác, chi phí dành cho y tế cũng như chi phí để khắc phục hậu quả của ô nhiễm môi trường không ngừng tăng lên. Ở Nhật Bản, thiệt hại về kinh tế do ô nhiễm môi trường 1955 là 132 triệu USD, đến năm 1970 con số này đa lên tới 13 tỷ USD, tức là tăng 174 lần. Ước tính thiệt hại về kinh tế do ô nhiễm môi trường gây ra ở các nước Tây Âu tương ứng với 6% tổng thu nhập quốc dân.
Đồ thị dưới đây cho thấy sự tổn thất của xã hội do tác động ngoại vi tiêu cực gây ra. Trong khi chi phí biên của doanh nghiệp nhỏ hơn chi phí biên của xã hội.
Đến môi trường tự nhiên:
Ô nhiễm môi trường còn tác động trở lại môi trường tự nhiên. Sự ô nhiễm môi trường nước, không khí dẫn…đến sự ô nhiễm môi trường sống. Sự ô nhiễm môi trường sống mang tính toàn cầu được chỉ báo bằng các hiện tượng chủ yếu như hiệu ứng nhà kính, lỗ thủng tầng Ozon, mưa axit, sa mạc hoá, sự đa dạng sinh học bị giảm sút... Đó chính là những vấn đề bức xúc nhất đang đặt ra cho toàn nhân loại. Một sự biến đổi nguy hiểm nhất do tác động ngược của ô nhiễm môi trường chính là sự biến đổi khí hậu trên trái đất. Có thể coi sự biến đổi của khí hậu trên trái đất là hậu quả tổng hợp tất yếu của các hiện tượng do ô nhiễm môi trường gây nên.
G.H Bronteman nguyên chủ tịch uỷ ban môi trường và phát triển thế giới đã nói: “trừ chiến tranh hạt nhân ra thì sự biến đổi của khí hậu là mối đe doạ lớn nhất đối với con người”. Nó không những đe doạ sự tồn vong của con người mà còn uy hiếp cả tương lai của trái đất.
Sự Phân Hóa Giàu – Nghèo
Nguyên nhân phát sinh
Chênh lệch về sở hữu tư liệu sản xuất: đây là nguồn gốc cơ bản nhất dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo.
Những người sở hữu nhiều tư liệu sản xuất trước hết có nhiều khả năng tạo ra nhiều của cải vật chất hơn. Đồng thời họ có điều kiện tích tụ, tập trung…mở rộng quy mô sản xuất, làm cho bản thân ngày càng giàu thêm.
Những người sở hữu ít hoặc không sở hữu tư liệu sản xuất, trước hết thiếu hẳn “phương tiện” để làm ra cái ăn, nuôi sống bản thân, buộc phải bán sức lao động cho các nhà tư bản, chịu sự bóc lột của giai cấp này, càng trở nên nghèo khó.
Khả năng sử dụng công nghệ: Mối cá nhân trong xã hội có năng lực khác nhau, hưởng sự giáo dục khác nhau…nên khả năng sử dụng công nghệ cũng khác nhau. Những người nắm được công nghệ cao sẽ đạt được năng suất lao động cao hơn, thu nhập nhiều hơn.
Sự chênh lệch điều kiện sống: Những người sống và làm việc ở các vùng có điều kiện tự nhiên, xã hội tốt hơn thường có thu nhập cao hơn (đồng bằng – miền núi, nông thôn – thành thị…)
Quyền lực và uy tín: Những người có quyền lực và uy tín cao trong xã hội thường có thu nhập cao hơn.
Biểu hiện
Phân hóa giàu nghèo trước hết thể hiện ở mức chênh lệch thu nhập. Chúng ta cùng xem xét bảng bảng so sánh nhóm thu nhập cao nhất và thấp nhất ở nước ta giai đoạn 1994-1999 của Tổng cục thống kê (mối nhóm điều tra 20%, đơn vị tính: lần)
Năm
1994
1995
1996
1999
Cả nước
6.5
7.0
7.3
8.9
Theo khu vực
Thành thị
7.0
7.7
8.0
9.8
Nông thôn
5.4
5.8
6.1
6.3
Chia theo vùng
Tây và Đông Bắc
5.2
5.7
6.1
6.8
Đồng bằng sông Hồng
5.6
6.1
6.6
7.0
Duyên hải miền Trung
4.9
5.5
5.7
6.3
Đông Nam Bộ
7.4
7.6
7.9
10.3
Đồng bằng s.Cửu Long
6.1
6.4
6.4
7.9
Từ các kết quả phân tích thức tế, các nhà nghiên cứu đã chưng minh:
Nơi nào kinh tế thị trường càng phát triển thì mức độ phân hóa giàu nghèo càng mạnh mẽ
Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo ngày càng có xu hướng gia tăng giữa tầng lớp có thu nhập cao và tầng lớp có thu nhập thấp trong nước.
Sự phân hóa thu nhập có xu hướng gia tăng giữa các vùng miền khác nhau, đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng đồng bằng với vùng sâu, vùng xa, vùng núi, vùng dân tộc thiểu số…
Theo kết quả điều tra các chỉ tiêu dân số vừa được Tổng cục Thống kê công bố, mức sống dân cư những năm gần đây đã được cải thiện đáng kể nhưng vẫn có sự chênh lệch khá lớn giữa thành thị và nông thôn. Theo Tổng cục Thống kê, có 85% số dân thành thị thuộc hai nhóm ngũ phân vị cao nhất trong khi có tới gần một nửa số dân nông thôn thuộc hai nhóm ngũ phân vị thấp nhất.
Chênh lệch trong mức sống giữa thành thị và nông thôn còn được thể hiện rõ qua các đặc trưng về nhà ở như nguồn nước, phương tiện vệ sinh, vật liệu xây nhà, số phòng ngủ và hàng tiêu dùng lâu bền của hộ. Có tới 65% số dân thành thị được sử dụng nước máy trong khi chỉ có 11% số dân nông thôn dùng nước máy, 92% số dân thành thị có nhà xây bằng vật liệu kiên cố thì con số này ở nông thôn là 67%.
Tác động
Tích cực:
Góp phần khơi dậy tính năng động trong mỗi con người, mỗi nhóm xã hội, kích thích họ tìm kiếm và khai thác các cơ may, vận hội để phát triển vượt lên.
Tạo ra một môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, qua đó sàng lọc và tuyển chọn ra những người có đủ năng lực và phẩm chất cần thiết trở thành thành viên của nhóm vượt trội, động lực cho sự phát triển của một ngành nghề, một lĩnh vực hay một địa phương.
Tiêu cực:
Kinh tế: Sự phân hóa giàu – nghèo giữa các vùng gây khó khăn cho nhà nước trong việc quy hoạch ổn định, cân đối các ngành tại các vùng khác nhau. Không phát huy được toàn bộ nội lực của nền kinh tế và mọi khả năng trong tầng lớp dân cư.
Chính trị: Chênh lệch lợi ích tất yếu sẽ làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các tầng lớp trong xã hội. Khi tới đỉnh điểm sẽ dẫn tới xung đột, gây bất ổn về mặt chính trị. Một đất nước bất ổn chính trị sẽ khó có cơ hội để phát triển kinh tế. Gây nên sự hoang mang, dao động tinh thần của đông đảo tầng lớp người lao động đối với chính quyền sở tại.
Văn hóa: Khi điều kiện sống khác nhau, sự tiếp thu, giữ gìn, phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc trong các tầng lớp dân cư cũng khác nhau, gây cản trở phát triển văn hóa.
Xã hội: Chênh lệch giàu – nghèo càng lớn, sự bất bình đẳng trong xã hội càng được tăng cường, cơ hội phát triển càng nghiêng về phía người giàu. Những người nghèo thường được hưởng rất ít những dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục… Sự bất bình đẳng này làm xuất hiện sự chia rẽ trong nội bộ các tầng lớp dân cư, dẫn đến mâu thuẫn, mất đoàn kết trong xã hội.
Đồng thời, sự bất bình đẳng này kiến nhiều cá nhân quyết tâm làm giàu bằng mọi cách kể cả bằng con đường phi pháp. Theo thống kê, trong 20% số hộ thu nhập cao nhất xuất hiện ngày càng nhiều những biểu hiện làm giàu bất chính như tham nhũng, buôn lậu, làm ăn phi pháp, gây ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế, suy thoái đạo đức xã hội…
Thiếu Hàng Hóa Công Cộng (Public Goods)
Khái niệm: Hàng hóa công cộng (Public Goods) là hàng hóa mọi người cùng nhau sử dụng sử dụng chung và việc sử dụng của một người thì không loại trừ việc sử dụng của người khác, tức là những hàng hóa mà các thành viên trong xã hội có thể cùng nhau sử dụng như quốc phòng, luật pháp, hệ thống đường xá, cầu cống, giáo dục y tế, công viên…
Tính chất hàng hóa công cộng:
Không thể loại trừ: được hiểu trên góc độ tiêu dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất định thì không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa của mình. Ví dụ: quốc phòng là một hàng hóa công cộng nhưng quân đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền còn không bảo vệ những ai không làm việc đó.
Không cạnh tranh: cũng được hiểu trên góc độ tiêu dùng, việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó không ngăn cản những người khác đồng thời cũng sử dụng nó. Ví dụ pháo hoa khi bắn lên thì tất cả mọi người đều có thể được hưởng giá trị sử dụng của nó.
Trong thực tế, vẫn tồn tại những hàng hóa công cộng không đáp ứng một cách chặt chẽ hai tính chất đó. Ví dụ đường giao thông, nếu có quá đông người sử dụng thì đường sẽ bị tắc nghẽn và do đó những người tiêu dùng trước đã làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng của những người tiêu dùng sau. Đó là những hàng hóa công cộng có thể tắc nghẽn. Một hàng hóa công cộng mà lợi ích của nó có thể định giá thì gọi là hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá. Ví dụ đường cao tốc, cầu...có thể đặt các trạm thu phí để hạn chế bớt số lượng người sử dụng nhằm tránh tắc nghẽn
Nguyên nhân phát sinh: Sự thiếu hụt hàng hóa công cộng xuất phát từ chính các tính chất của hàng hóa này, kết hợp với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường luôn hướng các doanh nghiệp, cá nhân đến mục tiêu tối đa hóa lợi nhuân. Trong khi đó, với 2 tính chất của mình, hàng hóa công cộng khiến cho cả các cá nhân lẫn các doanh nghiệp đều không có động lực để chi trả cho việc sản xuất nó.
Với các cá nhân: với hai tính chất của mình, hàng hóa công cộng khiến cho mọi thành viên trong xã hội đều có khả năng sử dụng hàng hóa công cộng như nhau dù có trả tiền hay không. Dẫn tới tình trạng mọi cá nhân trong xã hội đều không có động lực để chi trả cho hang hóa công cộng.
Với các doanh nghiệp: Hệ quả tất yếu của việc các cá nhân trong xã hội đều không muốn chi trả cho hang hóa công cộng, là doanh nghiệp – những người sản xuất ra nó sẽ phải chịu tổn thất. Điều này khiến các doanh nghiệp không co động lực để sản xuất hàng hóa công cộng, tất yếu dẫn đến sự thiếu hụt.
Biểu hiện
Ở nước ta, hệ thống các đô thị là một trong những nơi dễ nhân thấy nhất hiện tượng thiếu hụt hàng hóa công cộng.
Dân số sống tại đô thị ngày càng tăng cao (dự kiến đến năm 2020 sẽ chiếm 45% dân số cả nước) trong khi hạ tầng kỹ thuật của tất cả các thành phố vẫn chưa đáp ứng được nhu câu đặt ra.
Hạ tầng kỹ thuật tại các đô thị Việt Nam rất yếu và thiếu, đặc biệt là hệ thống giao thông. Mật độ mạng lưới đường thấp, ước tính tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng chỉ đạt 4-5 km/km2. Tại các đô thị loại 2, 3 con số này chỉ bằng một nửa. Bên cạnh đó, mạng lưới đường này lại phân bố không đều, thiếu sự liên thông. Đường phố ngắn, lộ giới hẹp, chất lượng xấu nhưng lại nhiều giao cắt. Các nút giao thông phần lớn là đồng mức, nhỏ hẹp lại không hợp lý, diện tích đất dành cho giao thông tĩnh quá thấp. Ước tính, tỷ lệ đất dành cho giao thông chưa đến 10% đất xây dựng đô thị trong khi tỷ lệ cần thiết phải là 20-25%.
H. Kẹt xe ở thành phố Hồ Chí Minh
Bên cạnh hệ thống giao thông, hệ thống cấp nước đô thị cũng trì trệ không kém. Trong tổng số 689 đô thị trên toàn quốc hiện vẫn còn gần 400 đô thị nhỏ chưa có hệ thống cấp nước tập trung. Với những đô thị đã có, cũng chỉ đáp ứng được nhu cầu của 60% dân số đô thị. Trong khi đó, tỷ lệ thất thoát, thất thu vẫn cao trên 30%, có nơi tỷ lệ này lên tới 45%. Đặc biệt tại các khu đô thị cũ với mạng lưới đường ống cũ và đường kính nhỏ.
Song song đó là hệ thống thoát nước còn lạc hậu và thiếu sự đồng bộ cần thiết. Có thể khẳng định, tại các đô thị của Việt Nam, hệ thống thoát nước chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Phần lớn hệ thống là chung cho thoát nước mưa và cả nước thải, được xây dựng trên địa hình tự nhiên, nước tự chảy và độ dốc thủy lực thấp. Cho đến nay, chưa đô thị nào có được trạm xử lý nước thải sinh hoạt. Cũng như hệ thống cấp nước, hệ thống thoát nước của các thành phố lớn mới chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu, trong khi các đô thị khác phạm vi phục vụ chỉ đạt 20 - 25%. Theo đánh giá của các công ty thoát nước, môi trường đô thị tại các địa phương hiện nay, 50% tuyến cống đã bị hư hỏng, 30% tuyến cốn