Trong lịch sử bảo vệ Tổ quốc, n ước ta đã áp dụng cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập 
trung. Việc áp dụng cơ chế kinh tế này trong điều kiện chiến tranh đã góp phần đắc 
lực trong việc động viên nhân tàI vật lực phục vụ cho sản xuất và chiến đấu, hoàn 
thành thắng lợi công cuộc bảo vệ Tổ quốc,đánh đuổi quân xâm lược,dành lạI độc lập, 
tự do cho nhân dân. 
Tuy nhiên khi chiến tranh kết thúc, nước ta vẫn tiếp tục duy trì cơ chế kinh tế kế 
hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp làm cho nền kinh tế Việt nam lâm vào khủng 
hoảng nghiêm trọng: sản xuất trì trệ, nhiều ngành đình đốn, hàng hoá ngày càng khan 
hiếm, giá cả leo thang, lạm phát với tốc độ phi mã, đời sống nhân dân lao động ngày 
càng đói khổ. Đứng trước tình hình đó, Đảng và nhà nước ta đã nỗ lực tìm tòi giảI 
pháp đưa đất nước thoát khỏi cơn khủng hoảng, nâng cao đời sống của nhân dân.Sau 
giai đoạn thử nghiệm đưa nền kinh tế vào quỹ đạo của kinh tế tị trường đạt được 
những kết quả khả quan, tạI đạI hội VI, Đảng ta đã chính thức khẳng định chủ trương 
chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế thị trường. Sau một thời 
gian đổi mới, thực tiễn phát triển của nước ta đã chứng minh quyết định trên của 
Đảng là hoàn toàn đúng đắn: Kinh tế Việt Nam thoát khỏi tình trạng bế tắc, khủng 
hoảng, lạm phát giảm xuống, đới sống nhân dân đựoc cảI thiện. Tuy nhiên chủ nghiã 
xã hội là mục tiêu cao nhất của trong sự nghiệp đấu tranh Cách mạng của Đảng và 
nhân dân ta. Đổi mới kinh tế, chuyển sang cơ chế thị trường không có một mục tiêu 
nào khác ngoàI mục tiêu đó. Vì vậy Đảng ta chủ trương chuyển sang kinh tế thị 
trường không phảI là kinh tế thị trường như các nước khác mà là kinh tế thị trường 
định hướng xà hội chủ nghĩa, tức là cơ chế thị trường nhằm đưa nước ta đI đến cáI 
đích xã hội chủ nghĩa. Về bản chất đó là cơ chế hỗn hợp mang tính định hướng xã hội 
chủ nghĩa, vừa kế thừa những thành tựu của loàI người vừa gắn liền với đặc đIểm và 
mục tiêu chính trị, là sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 38 trang
38 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2456 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những nhân tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Những nhân tố bảo đảm tính định hướng 
xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị 
trường ở Việt nam 
Lời mở đầu 
Trong lịch sử bảo vệ Tổ quốc, nước ta đã áp dụng cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập 
trung. Việc áp dụng cơ chế kinh tế này trong điều kiện chiến tranh đã góp phần đắc 
lực trong việc động viên nhân tàI vật lực phục vụ cho sản xuất và chiến đấu, hoàn 
thành thắng lợi công cuộc bảo vệ Tổ quốc,đánh đuổi quân xâm lược,dành lạI độc lập, 
tự do cho nhân dân. 
Tuy nhiên khi chiến tranh kết thúc, nước ta vẫn tiếp tục duy trì cơ chế kinh tế kế 
hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp làm cho nền kinh tế Việt nam lâm vào khủng 
hoảng nghiêm trọng: sản xuất trì trệ, nhiều ngành đình đốn, hàng hoá ngày càng khan 
hiếm, giá cả leo thang, lạm phát với tốc độ phi mã, đời sống nhân dân lao động ngày 
càng đói khổ. Đứng trước tình hình đó, Đảng và nhà nước ta đã nỗ lực tìm tòi giảI 
pháp đưa đất nước thoát khỏi cơn khủng hoảng, nâng cao đời sống của nhân dân.Sau 
giai đoạn thử nghiệm đưa nền kinh tế vào quỹ đạo của kinh tế tị trường đạt được 
những kết quả khả quan, tạI đạI hội VI, Đảng ta đã chính thức khẳng định chủ trương 
chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế thị trường. Sau một thời 
gian đổi mới, thực tiễn phát triển của nước ta đã chứng minh quyết định trên của 
Đảng là hoàn toàn đúng đắn: Kinh tế Việt Nam thoát khỏi tình trạng bế tắc, khủng 
hoảng, lạm phát giảm xuống, đới sống nhân dân đựoc cảI thiện. Tuy nhiên chủ nghiã 
xã hội là mục tiêu cao nhất của trong sự nghiệp đấu tranh Cách mạng của Đảng và 
nhân dân ta. Đổi mới kinh tế, chuyển sang cơ chế thị trường không có một mục tiêu 
nào khác ngoàI mục tiêu đó. Vì vậy Đảng ta chủ trương chuyển sang kinh tế thị 
trường không phảI là kinh tế thị trường như các nước khác mà là kinh tế thị trường 
định hướng xà hội chủ nghĩa, tức là cơ chế thị trường nhằm đưa nước ta đI đến cáI 
đích xã hội chủ nghĩa. Về bản chất đó là cơ chế hỗn hợp mang tính định hướng xã hội 
chủ nghĩa, vừa kế thừa những thành tựu của loàI người vừa gắn liền với đặc đIểm và 
mục tiêu chính trị, là sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. 
Cơ chế thị trường tuy có nhiều đIểm mạnh nhưng bản thân nó có nhiều khuyết tật 
và những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội như xu thế phân 
hoá giàu nghèo quá mức, vì lợi nhuận mà con người không từ mọi thủ đoạn chà đạp 
lên đạo đức nhân phẩm..., và cơ chế thị trường có tính tự phát chuyển đổi lên tư bản 
chủ nghĩa.Chính vì vậy để đảm bảo được tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền 
kinh tế thị trường ở Việt nam, cần xác định những nhân tố quan trọng đóng vai trò 
đIều chỉnh nền kinh tế phát triển theo định hướng đã chọn. Từ đó đánh giá thực trạng 
vai trò của những nhân tố đó để đưa ra những giảI pháp đúng đắn nhằm tăng cường 
chức năng của các nhân tố đó nhằm phát triển kinh tế Việt Nam bền vững theo định 
hưỡng xã hội chủ nghĩa. 
Tôi xin trình bày đề án: “Những nhân tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ 
nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt nam” nhằm đưa ra một số ý kiến về vấn đề 
này 
I. Lý luận chung về kinh tế thị trường( KTTT) định hướng XHCN. 
1. Kinh tế thị trường. 
1.1. Khái niệm KTTT. 
 Trong lịch sử phát triển, nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức 
kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra nhằm để thoả mãn trực tiếp nhu cầu của người 
sản xuất. Hình thức kinh tế này phổ biến trong thời kỳ công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu 
nô lệ. Trong xã hội phong kiến nó tồn tại dưới hình thức kinh tế nông dân gia trưởng và 
các điền trang, thái ấp của địa chủ. Hình thức kinh tế này khép kín qua các quá trình 
kinh tế trong phạm vi một đơn vị sản xuất nhỏ tự cung tự cấp, không mở rộng với các 
đơn vị khác. Vì vậy nó mang tính chất bảo thủ, trì trệ. 
 Kinh tế hàng hoá là sự phát triển kế tiếp của kinh tế tự nhiên trên cơ sở phát triển 
của phân công lao động của kinh tế tự nhiên. Đó là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở 
đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm để trao đổi hoặc bán trên thị trường. Hình thức đầu 
tiên của nó là kinh tế hàng hoá giản đơn. Đó là kiểu sản xuất mà sản phẩm do sản xuất 
và sức lao đọng của bản thân, được bán, trao đổi trên thị trường. 
 Kinh tế hàng hoá ra đời rất sớm, từ hình thức kinh tế hàng hoá giản đơn và được 
tồn tại nhiều phương thức sản xuất. Với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản, 
kinh tế hàng hoá giản đơn phát triển thành kinh tế hàng hoá phát triển hay kinh tế thị 
trường. Như vậy, kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong 
đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “ đầu ra” của sản phẩm đều thông qua thị trường. 
Ngày nay không ai phủ nhận vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế thị trường 
trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội, phát triển lực lượng sản xuất xã hội, 
không ai phủ nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trong trong 
nhiều chế độ xã hội khác nhau. 
1.2. Cơ chế thị trường: 
 Trong nền kinh tế trị trường, mọi yếu tố sản xuất, mọi hàng hoá đều có thị trường 
của nó: thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường hàng tiêu dùng. Thị trường gắn 
với lĩnh vực lưu thông hàng hoá, thị trường hình thành ở đâu có cung- cầu hàng hoá, nói 
đến thị trường là nói đến hàng hoá, giá cả, tiền tệ, người bán, người mua. 
 Trên thị trường, giá cả là phạm trù kinh tế trung tâm. Các quy luật kinh tế vốn có 
của nền kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh 
tranh... đều biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua giá cả thị trường. Nhờ sự vận 
động giá cả thị trường mà diễn ra một sự thích ứng một cách tự phát giữa khối lượng và 
cơ cấu nhu cầu của sản xuất ( tổng cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội ( 
tổng cầu), tức là sự hoạt động của các quy luật đó đã điều tiết nền sản xuất xã hội. Như 
vậy, nền kinh tế thị trường có khả năng tự điều tiết do sự tác động của các quy luật vốn 
có của nó. Người ta gọi cơ chế tự điều tiết đó là cơ chế thị trường. Nói một cách cụ thể 
hơn, cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết lẫn 
nhau của các yếu tố giá cả, cung - cầu, cạnh tranh... Trực tiếp phát huy tác dụng trên thị 
trường để điều tiết nền kinh tế thị trường. 
 Cơ chế thị trường có những ưu đIểm và tác dụng mà không có một cơ chế nào 
hoàn toàn thay thế được: thứ nhất, cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể 
kinh tế, tạo đIều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế 
phát triẻn năng động có hiệu quả. Thứ hai, sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến 
sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu 
nhu cầu của xã hội. Nhờ đó ta có thể thoả mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân nhiều sản 
phẩm khác nhau. Thứ ba, cơ chế thị trường kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hoá sản 
xuất. Thứ tư, cơ chế thị trường thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối 
ưu. Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu động, di chuyển phân phối các yếu tố sản 
xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của htị trường, chúng sẽ chuyển đến nơi được sử 
dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lực kinh tế được phân bổ một cách tối ưu. 
Thứ năm, sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan nhà 
nước và có khả năng thích nghi cao trước những điều kiện kinh tế biến đổi. 
 Tuy nhiên cơ chế thị trường không phải là cơ chế hoàn hảo nên cũng có những 
khuyết tật vốn có của nó: Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ thể hiện sự cạnh tranh không 
hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm. Thứ hai, do mục đích hoạt động của 
các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội 
gây ra ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế xã hội không 
được đảm bảo. Thứ ba, phân phối thu nhập không công bằng, có những mục tiêu xã hội 
dù cơ chế thị trường có hoạt động trôi chảy cũng không thể đạt được. Sự tác động của 
cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, phân cực về của cải tác động xấu 
đến đạo đức và tình người. Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều 
tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất 
nghiệp. Do cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó, nên trong thực tế 
không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để 
sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường, khi đó người ta gọi là nền kinh tế hỗn 
hợp. 
2. Kinh tế thị trường định hưỡng XHCN. 
2.1. Khái niệm KTTT định hướng XHCN. 
 Sau ngày đất nước thống nhất, Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì và phát triển cơ chế 
kinh tế kế hoạch hoá tập trung trong toàn quốc. Việc áp dụng cơ chế kinh tế này cả 
trong thời bình không những không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ như mong 
muốn mà trái lại, đưa Việt Nam tiếp tục trượt dài trên con đường suy thoái, khủng 
hoảng. Tại đại hội lần thứ VI ( tháng 12 năm 1986) , Đảng CSVN đã đề xuất đường lối 
đổi mới nền kinh tế với tinh thần cơ bản là: chính thức tuyên bố chuyển nền kinh tế từ 
cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành 
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN mà sau này 
tại đại hội IX của Đảng CSVN được gọi dưới tên” nền kinh tế thị trường định hướng 
XHCN” 
 Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế hàng hoá nhiều 
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định 
hướng XHCN. 
2.2. Sự khác nhau giữa kinh tế thị trường TBCN và KTTT định hướng XHCN. 
 Nền kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của TBCN, nền kinh tế 
thị trường vận động, tồn tại ở các nước XHCN và những nước đang trong thời kỳ quá 
độ lên XHCN. Tuy nhiên KTTT định hướng XHCN có những điểm khác biệt căn bản 
so với nền KTTT tư bản chủ nghĩa. 
Thứ nhất, về chế độ sở hữu. Cơ chế thị trường trong nền kinh tế TBCN luôn hoạt động 
trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản độc 
quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Cơ chế thị trường trong 
nền kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN lại hoạt động trong sự đa dạng các quan 
hệ sở hữu, trong đó chế độ công hữu giữ vai trò là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, 
với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước. Tính định hướng XHCN đòi hỏi trong 
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước 
và kinh tế hợp tác trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều tiết, hướng dẫn 
sự phát triển kinh tế hàng hóa nhỏ và TBCN. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và 
phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh quốc phòng, ở các 
lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết mà các thành phần khác không có điều kiện hoặc 
không muốn đầu tư vì không có hoặc ít lãi. 
 Thứ hai, về tính chất giai cấp của nhà nước và mục đích quản lý của nhà nước. 
Trong cớ chế thị trường TBCN sự can thiệp của nhà nước luôn mang tính chất tư sản và 
trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm đảm bảo môi trường kinh tế xã 
hội thuận lợi cho sự thống trị của gia cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột 
TBCN. Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN thì 
sự can thiếp của nhà nước XHCN vào nền kinh tế nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng 
của toàn thể nhân dân lao động thực hiện mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công 
bằng, dân chủ văn minh. 
 Thứ ba, về cơ chế vận hành. Cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định 
hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quảnlý của nhà nước XHXN. Cơ chế đó bảo 
đảm tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế hướng tới mục đích XHXN theo phương 
châm nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường điều tiết doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở 
cả hai mặt cơ bản: một là nhà nước XHXN là nhân tố đóng vai trò trung tâm và điều tiết 
vĩ mô nền kinh tế, hai là, cơ chế trị trường là nhân tố trung tâm của nền kinh tế, đóng 
vai trò trùng gian giữa nhà nước và doanh nghiệp. 
 Thứ tư, là về mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã 
hôịi. Trong sự phát triển của kinh tế TBCN, vấn đề công bằng xã hội không bao giờ 
được giả quyết triệt để. Mục đích của giải quyết các vấn đề xã hội chỉ là phương tiện để 
chính phủ tư sản duy trì chế độ TBCN. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, 
nhà nước chủ động giảI quyết ngay tư đầu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công 
bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội không chỉ là phương tiện để phát triển nền kinh tế 
thị trường mà còn là mục tieu của chế độ xã hội mới. Sự thành công của nền kinh tế thị 
trường định hướng XHXN không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà còn 
ở mức sống thực tế của mọi người đêù được nâng lên, y tế, giáo dục phát triển, đạo đức, 
văn hoá dân tộc được giữ gìn, môi trường sinh thái được bảo vệ. 
3. Những nhân tố bảo đảm tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở 
Việt Nam. 
 Từ những đIểm khác nhau giữa kinh tế thị trường TBCN và KTTT định hướng 
XHCN đã nêu ở trên, ta thấy rằng đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định 
hướng XHCN là nền kinh tế thị trường vừa dựa vào những nguyên tắc và quy luật của 
kinh tế thị trường, vừa dựa trên ngững nguyêt tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội 
nhằm mục đích hướng tới chế độ XHCN. Việt Nam ta cũng chọn con đường đi lên 
XHCN và thực hiện nền kinh tê thị trường, do đó cần phải tìm cách quản lý tốt nền 
kinh tế đảm bảo cho nó đi đúng định hướng XHCN. Những nhân tố bảo đảm tính định 
hướng XHXN của nền KTTT ở VN bao gồm: vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước và 
vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước. 
3.1. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước. 
3.1.1 Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước 
 Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng vận động theo yêu cầu của 
những quy luật vốn có của nó, như quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh 
tranh.., giá cả do thị trường quyết định, thị trường có vai trò quuyết định đối với việc 
phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. 
 Mặc dù cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế thị trường có nhiều ưu điểm nhưng 
nó vẫn có nhiều khuyết tật như đã trình bầy ở phần trước, cho nên hầu như tất cả các 
nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của Nhà nước để sửa chữa ở 
một mức độ nào đó “những thất bại của thị trường”.Tức là cơ chế vận hành của nền 
kinh tế của tất cả các nước đều là cơ chế trị trường có sự quản lý của Nhà nước. Điều 
khác biệt trong cơ chế vận hành của nền kinh tế của nước ta là nhà nước quản lý nền 
kinh tế không phải là nhà nước tư sản mà là nhà nước XHCN, nhà nước của dân, do dân 
và vi dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN. Do đó chức năng của nhà nước ta trong 
quản lý kinh tế bao gồm sửa chữa những thất bại của thị trường và đồng thời bảo đảm 
cho nền kinh tế đi đúng quỹ đạo XHCN chứ không phải đi theo con đường TBCN. Cụ 
thể bao gồm những chức năng sau: 
* Nhà nước phải có vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển kinh tế đất 
nước. Công cụ của việc định hướng phát triển kinh tế xã hội bao gồm nhiều loại trong 
đó chủ yếu là: hoạch định chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển, kế hoạch phát 
triển. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là một hệ thống quan điểm cơ bản, các mục 
tiêu dài hạn phát triển kinh tế xã hội và các giải pháp chủ yếu được lựa chọn một cách 
có căn cứ khoa học trên cơ sở huy động và sử dụng tối ưu các nguồn lực và lợi thế phát 
triển của đất nước để đạt được mục tiêu đã đề ra. Trong quá trình phát triển Đảng ta đã 
xác định một hệ thống quan điểm bao gồm: 1. Phát triển nhanh và bền vững, 2. Xây 
dựng nền tảng của một nước công nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ chiến 
lược; 3. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động thực hiện hội nhập kinh tế song 
phương và đa phương; 4. Đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách sâu rộng và đồng bộ cả 
về kinh tế, xã hội và bộ máy hành chính nhà nước hướng vào giải phóng triệt để lực 
lượng sản xuất, phát huy tới mức cao nhất sức mạnh vật chất và tinh thần của dân tộc, 
tạo động lực và nguồn lực mạnh mẽ cho sự phát triển nhanh, bền vững, đảm bảo thắng 
lợi trong hội nhập quốc tế; 5. Kết hợp kinh tế, xã hội với quốc phòng an ninh, nhằm 
thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc độc 
lập, chủ quyền an ninh của Tổ quốc. Sau đó nhà nước đề ra mục tiêu và nhiệm vụ của 
chiến lược. Các hoạt động khác bao gồm: Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế – xã 
hội; Lập kế hoạch phát triển kinh tê - xã hội 5 năm; Lập kế hoạch kế hoạch kinh tễ xã 
hội hàng năm; xây dựng các chương trình quốc gia. 
* Nhà nước cung ứng hàng hoá công cộng, những hàng hoá và dịch vụ mà thị 
trường không cung ứng hay cung ứng không đầy đủ, đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế 
xã hội.Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế và các dịch vụ cơ sở hạ tầng xuất phát từ 3 lý 
do: 
- Dịch vụ kết cấu hạ tầng có vai trò to lớn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. 
Cơ sở hạ tầng được xem là đIều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế. Sản xuất không thể 
phát triển được nếu không được đảm bảo về nguồn nhân lực, giao thông, điện nước và 
thông tin 
- Dịch vụ cơ sở hạ tầng đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, thời gian thu hòi vốn dàI và 
việc thu hòi vốn khó khăn, thường thu hồi gián tiếp mà ít thu hồi trực tiếp. 
- Dịch vụ cơ sở hạ tầng phần lớn là những hàng hoá công cộng. Những hàng hoá 
này không được các nhà sản xuất tư nhân quan tâm vì lợi ích của người sản xuất ra nó ít 
hơn nhiều sơ với lợi ích xã hội và vấn đề sử dụng không phải trả tiền của hàng hoá công 
cộng. Để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển thuận lợi, Nhà nước tất yếu phải có trách 
nhiệm cung cấp các dịch vụ hạng tầng cho xã hội. 
- Ngoài ra cung cấp các dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế, và các dịch vụ khác là 
một trách nhiệm tối cao khác của Nhà nước. Nhà nước có thể cung cấp các dịch vụ này 
bằng một trong hai cách: Một là cung cấp trực tiếp thông qua các doanh nghiệp hoặc cơ 
quan sự nghiệp của nhà nước. Hai là nhà nước tạo điều kiện khuyến khích tư nhân trong 
việc cung cấp kết cấu hạ tầng và dịch vụ xã hội như trợ cấp cho các doanh nghiệp cung 
cấp dịch vụ hạ tầng, đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hạn tầng, 
dịch vụ xã hội. Tuỳ thuộc vào hiệu quả hoạt động mà nhà nước sẽ lựa chọn cách thức 
nào. 
* Nhà nước cung cấp một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, minh bạch và 
vững chắc, không chỉ là hệ thống luật lệ và quy định mà còn bao hàm các định chế cần 
thiết để thực hiện và cưỡng chế việc thi hành pháp luật và giải quyết tranh chấp, bao 
gồm toà án và các cơ quan vưỡng chế thi hành luật. Trong các nền kinh tế thị trường, 
phần lớn các giao dịch dựa trên hợp đồng. Khi những luật lệ quy định quyền sở hữu 
được rõ ràng và cơ chế cưỡng bức thi hành luật vận hành tốt thì chi phí hoạt động kinh 
doanh thấp hơn và thị trường vận hành tốt hơn. Cụ thể, hệ thống pháp luật kinh tế do 
nhà nước ban hành có những vai trò sau: 
+ Pháp luật kinh tế xác định vị trí pháp lý của các tổ chức và đơn vị kinh tế. ở nước 
ta pháp luật nói chung, pháp luật kinh tế nói riêng thể hiện đường lối, chính sách phát 
triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn theo đường lối phát triển kinh 
tế thị trường định hướng XHCN. Bằng việc ban hành và thực thi một hệ thống pháp luật 
về các loại hình doanh nghiệp như Luật doanh nghiệp Nhà nước, luật doanh nghiệp, luật 
hợp tác xã, địa vị pháp lý của các chủ thể kinh tế được xác định. 
+ Bằng pháp luật kinh tế, Nhà nước điều chỉnh hành vi kinh tế trên thị trường: xác 
định hành vi nào là hợp lý, hành vi nào là phi pháp. Thông qua pháp luật kinh tế, nhà 
nước khẳng định chức năng của mình đối với phát triẻn kinh tế trên cơ sở páht huy tính 
tích cực của htị trường và hạn chế những tiêu cực có hại của nền kinh tế: hàng giả, hàng 
lậu, độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh, huỷ ho