Đề tài Ô nhiễm không khí

Vấn đề môi trường hiện nay không còn là vấn đề của riêng một khu vực nào, một quốc gia nào hay một Châu lục nào mà nó đã trở thành vấn đề chung của toàn thế giới, trở thành vấn đề mang tính thời sự toàn cầu. Trong đề tài về ô nhiễm không khí này, với những thực trạng trên mà ta đã có thể thấy, ô nhiễm bụi có những tác động mạnh mẽ, ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng sức khỏe cũng như cuộc sống bình thường của người dân nội thành Hà Nội nói riêng và ở các thành phố khác nói chung. Gây ra những khoản chi phí rất lớn cho người dân, đồng thời gây ra những thiệt hại không nhỏ đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước, làm suy giảm nghiêm trọng chất lượng sức khỏe của con người. Vì thế chúng ta phải tìm cách lượng giá một cách chính xác những thiệt hại do nó gây ra để đề ra những biện pháp khắc phục phù hợp, xử lý kịp thời. Góp phần làm hài hòa giữa hai yếu tố là phát triển kinh tế và bảo vệ chất lượng môi trường sốngtheo mô hình XANH -SẠCH- ĐẸP.

docx10 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1646 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Ô nhiễm không khí, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC SÀI GÒN KHOA LUẬT MÔN HỌC PHÁP LUẬT VỀ MÔI TRƯỜNG ĐỀ TÀI Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ Danh sách nhóm: 1/ NGÔ VĂN MỸ 2/ ĐINH HOÀNG HÔN 2/ HUỲNH THỊ THU TRANG 3/ NGUYỄN VĂN THUYẾT 4/ NGUYỄN THỊ HOÀI THƯƠNG 5/ BÙI QUỐC VIỆT 6/ Tp. HCM, ngày 24 tháng 11 năm 2012 LỜI MỞ ĐẦU Ô nhiễm không khí (ONKK) ngày càng gia tăng theo sự phát triển công nghiệp của các nước phát triển. Sự gia tăng sản xuất công nghiệp và sự lưu thông xe có động cơ đã thải vào không khí một số lượng ngày càng lớn khói, khí độc và các chất ô nhiễm khác. Ngoài ra còn do khá nhiều yếu tố tiêu biểu khác mà chính nền văn minh hiện đại ngày nay mang lại, chẳng hạn: gia tăng sản xuất năng lượng, luyện kim, giao thông, sản xuất,sử dụng hóa chất trong nông nghiệp, các cơ sở hóa dầu, đốt rác... Nguồn gốc của ô nhiễm không khí vô cùng đa dạng.Ðầu tiên là sự sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Tiếp theo là phụ phẩm dạng khí của công nghệ hóa học, bụi do luyện kim, kỹ nghệ xi măng, chất phóng xạ thể khí do các trung tâm hạt nhân, các hạt phóng xạ do thử vũ khí hạt nhân…Sau cùng, sự lên men chất hữu cơ tạo ra H2S và các hợp chất của S khác là các hợp chất vô cùng độc hại cho sức khỏe con người. ONKK rất khó phân tích vì chất ô nhiễm thay đổi nhiều do điều kiện thời tiết và địa hình. Hơn nữa, nhiều chất còn phản ứng với nhau tạo ra chất mới rất độc, làm hại sức khoẻ của người, đời sống sinh vật và gây ảnh hưởng xấu cho môi trường, đặc biệt là khí hậu toàn cầu.Chính vì vậy, việc đề ra biện pháp ngăn chặn và xử lý kịp thời ONMT là vấn đề cấp thiết và quan trọng. NỘI DUNG CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ 1/ Định nghĩa Ô nhiễm không khí là sự thay đổi lớn trong thành phần của không khí hoặc có sự xuất hiện các khí lạ làm cho không khí không sạch, có sự tỏa mùi, làm giảm tầm nhìn xa, gây biến đổi khí hậu, gây bệnh cho con người và sinh vật. 2/ Các hoạt động gây ô nhiễm Tự nhiên Do các hiện tượng tự nhiên gây ra: núi lửa, cháy rừng. Tổng hợp các yếu tố gây ô nhiễm có nguồn gốc tự nhiên rất lớn nhưng phân bố tương đối đồng đều trên toàn thế giới, không tập trung trong một vùng.Trong quá trình phát triển, con người đã thích nghi với các nguồn này. Công nghiệp Đây là nguồn gây ô nhiễm lớn nhất của con người. Các quá trình gây ô nhiễm là quá trình đốt các nhiên liệu hóa thạch: than, dầu, khí đốt tạo ra: CO2, CO, SO2, NOx, các chất hữu cơ chưa cháy hết: muội than, bụi, quá trình thất thoát, rò rỉ trên dây truyền công nghệ, các quá trình vận chuyển các hóa chất bay hơi, bụi. Đặc điểm: nguồn công nghiệp có nồng độ chất độc hại cao, thường tập trung trong một không gian nhỏ. Tùy thuộc vào quy trình công nghệ, quy mô sản xuất và nhiên liệu sử dụng thì lượng chất độc hại và loại chất độc hại sẽ khác nhau. Giao thông vận tải Đây là nguồn gây ô nhiễm lớn đối với không khí đặc biệt ở khu đô thị và khu đông dân cư. Các quá trình tạo ra các khí gây ô nhiễm là quá trình đốt nhiên liệu động cơ: CO, CO2, SO2, NOx, Pb,CH4 Các bụi đất đá cuốn theo trong quá trình di chuyển. Nếu xét trên từng phương tiện thì nồng độ ô nhiễm tương đối nhỏ nhưng nếu mật độ giao thông lớn và quy hoạch địa hình, đường xá không tốt thì sẽ gây ô nhiễm nặng cho hai bên đường. Sinh hoạt Là nguồn gây ô nhiễm tương đối nhỏ, chủ yếu là các hoạt động đun nấu sử dụng nhiên liệu nhưng đặc biệt gây ô nhiễm cục bộ trong một hộ gia đình hoặc vài hộ xung quanh. Tác nhân gây ô nhiễm chủ yếu: CO, bụi, khí thải từ các nhà máy, xe cộ,.. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ “Chất lượng không khí của các đô thị Việt Nam đang suy giảm, nhiều nơi vấn đề ô nhiễm môi trường đã ở mức báo động Tiêu biểu là vấn đề ở Hà Nội được ví như một đại công trường, hàng ngày tạo ra một lượng lớn bụi bẩn.Nồng độ bụi bẩn ở các quận nội thành Hà Nội ngày một nhiều hơn. Trung bình ở các nơi công cộng trong thành phố nồng độ bụi vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến 4 lần ( theo tiêu chuẩn của các nước phát triển ở Châu Âu, Châu Mỹ, nồng độ bụi ở các thành phố chỉ được phép vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1 đến 2 lần). Hứng chịu nhiều nhất là các khu vực đang xây dựng, cải tạo, sửa chữa như các khu vực Mai Động, Ngã Tư Vọng, Ngã Tư Sở, Thượng định, Hà Đông,...vượt quá tiêu chuẩn cho phép đến 5 lần.Nồng độ các chất ô nhiễm khác đều vượt chuẩn nhiều lần, cực độ có Pb, SO2. Nồng độ khí SO2, CO, NO2 ở một số khu chung cư, gần khu công nghiệp thì vượt quá mức độ cho phép nhiều lần, ở một số nút giao thông lớn trong thành phố nồng độ khí NO2 vượt quá tiêu chuẩn cho phép.Ô nhiễm bụi cao nhất là vào những ngày trời hanh, gió mạnh. Trong khu vực nội thành cũng như các khu công nghiệp, TSP (Total Suspenđen Patỉculate) là chất gây ô nhiễm không khí nghiêm trọng nhất, với nồng độ cao hơn tiêu chuẩn Việt Nam gấp 2-3 lần. Các quận nội thành với dân số khoảng hơn 1,5 triệu người, mỗi năm có hơn 626,8 người chết, và 1547,9 người bị bệnh hô hấp do nồng độ cơ bản của TSP trong không khí ngoài trời vượt quá TCVN 159,4 mg/m3.Dĩ nhiên dù chưa có kết quả nghiên cứu định lượng về TSP mới nhất hiện nay, người dân và các cơ quan liên quan ở Hà Nội chỉ có tăng mà không giảm. "Từ thực trạng trên ta có thể thấy: 1/ Nguyên nhân của vấn nạn trên: Phế thải rắn trong xây dựng (đất, đá, bùn, sỏi...) các vật liệu thi công thải ra. Các phương tiện vận tải gây ra, đặc biệt là các phương tiện vận chuyển vật liệu xây dựng. Toàn bộ những xe này phần lờn không được che chắn đúng kĩ thuật, để rơi vãi vật liệu xây dựng trên đường phố, 95% số xe không đảm bảo vệ sinh, không che chắn, để rơi vãi không những thế còn chở quá trọng tải cho phép. mang theo bùn đất bám ở thành, lốp xe tạo lên nguồn phát tán bụi di động khắp nơi. Nguồn phát sinh bụi do khoảng hơn 300 điểm tập kết, tập trung kinh doanh mua bán vật liệu xây dựng không đủ điều kiện kinh doanh đảm bảo vệ sinh (diện tích nhỏ hẹp, không có biện pháp che chắn, chủ yếu sử dụng lòng đường, vỉa hè để tập kết mua bán, vận chuyển bốc dỡ...). Bên cạnh đó các công trình thi công, kè sông, đắp đê, cầu vượt, đường hầm dành cho người đi bộ không hoàn thành đúng tiến độ đã tạo nên một lượng lớn bụi bẩn, như đường Ngã Tư Ô Chợ Dừa, đường Trường Trinh… Theo thống kê chưa đầy đủ của Sở Tài Nguyên Môi Trường Hà Nội, mỗi năm thành phố tiếp nhận khoảng 80.000 tấn bụi khói, 9.000 tấn khí SO2, 46.000 tấn CO từ 500 cơ sở công nghiệp. Đó là chưa kể khói xe của hơn 100.000 ôtô và hơn 1 triệu xe máy các loại. 2/ Hậu quả : Thực tế cho thấy tình trạng sức khỏe của người dân ở các quận nội thành của thành phố hiện nay là không tốt, tỉ lệ mắc các loại bệnh về đường hô hấp, về mắt là cao so với khu vực khác. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, tuy nhiên một nguyên nhân nổi bật đó là do tình trạng môi trường không khí ở đây đã bị giảm sút một cách nghiêm trọng, và nó ảnh hưởng sâu sắc đến sức khỏe của người dân. Ảnh hưởng của ô nhiễm bụi đến sức khỏe của người dân:Ô nhiễm môi trường do bụi gây ra có thể gây nên bệnh nghề nghiệp, bệnh riêng lẻ, dị ứng, hen xuyễn, hô hấp, ảnh hưởng trực tiếp đến hai cơ quan chính của con người là mắt và đường hô hấp: Các hạt CO và NO2 các chất hữu cơ đã ô nhiễm quang hóa ảnh hưởng đến mắt, tác động đến mắt, tác động đến hô hấp như mũi, hầu, thanh quản vì bởi các hạt nhỏ hơn 10 micromet bị giữ lại trong phổi gây các bệnh như viêm phổi, ung thư phổi...Khi những hạt bụi nhỏ bay vào mắt có thể gây ra các vấn đề trước tiên là ảnh hưởng đến khả năng quan sát ngay lúc đó của mắt đặc biệt là khi đang di chuyển, sau đó về lâu dài có thể gây ra các bênh về măý như viêm kết mạc, viêm giác mạc, đau mắt đỏ, dị ứng ... Ô nhiễm bụi có ảnh hưởng xấu trực tiếp đến sức khỏe của người dân trong vùng bị ô nhiễm, qua đó ảnh hưởng gián tiếp đến các hoạt động sống của người dân và sự phát triển một cách bình thường của nền kinh tế. Người dân sẽ phải bỏ các chi phí về thời gian cũng như tiền bạc của mình để phục hồi tình trạng sức khoẻ như bình thường, qua đó có cả chi phí cơ hội mất đi do phải tốn thời gian khám chữa bệnh và tiền của đáng lẽ có thể dùng vào việc khác. Nó làm cho tỉ lệ tăng trưởng kinh tế giảm xuống do tình trạng sức khỏe của người dân không tốt, năng suất làm việc bị giảm sút do các bệnh đó có thẻ gây ra những bất tiện trong giao tiếp hàng ngày mà hiệu quả công việc cũng bị giảm theo. Qua đó có thể thấy ô nhiễm bụi đã gây ra những tổn thất không nhỏ không chỉ cho sức khỏe của người dân trong vùng chịu ảnh hưởng của ô nhiễm bụi mà nó còn gây ra tổn thất rất lớn cho nền kinh tế của nước nhà. Vì vậy chúng ta phải tìm cách nào đó để lượng hóa một cách chính xác những thiệt hại về kinh tế do ô nhiễm bụi gây ra để từ đó có những chính sách và giải pháp đúng đắn để khắc phục nó, và tim cách đến mức tối đa những ảnh hưởng bất lợi đó. 3/ Gải pháp: Sau đây là một số kiến nghị về giải pháp có thể giúp giải quyết phần nào vấn nạn ô nhiễm không khí trên để giảm thiểu tình trạng ô nhiễm bụi cũng như hạn chế đến mức tối đa những tác động tiêu cực của ô nhiễm bụi đến sức khỏe và cuộc sống, kinh tế của người dân các quận nội thành của Hà Nội nói riêng và các thành phố khác trong nước nói chung. Động viên các ngành, các cấp và các tầng lớp nhân dân cùng tham gia giũ gìn bảo vệ sự trong sạch của bầu không khí. Hạn chế mức thấp nhất những hành động, hoạt động có nguy cơ làm gia tăng bụi gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng bầu không khí; Thành phố cần đưa ra những quyết định mang tính cụ thể, toàn diện để kiểm soát ô nhiễm bụi và các nguồn gây ô nhiễm bụi; Trong sản xuất cần tìm ra những công nghệ tiên tiến mà thải ra ít bụi nhất; Một nguyên nhân gây ra các chất độc hại là sự tiêu thụ nhiên liệu từ các phương tiện cơ giới vì vậy cần phải tìm ra các chất có thể pha thêm vào xăng hoặc dầu...mà khi tiêu dùng thải ra ít khói bụi và các chất độc hại nhất mà vẫn đảm bảo chất lượng của xăng, dầu; Tắc nghẽn giao thông cũng là một nguyên nhân lớn làm gia tăng lượng bụi, lượng chất thải độc hại vào không khí cả về số lượng lẫn thành phần các chất độc hại vì thế cần có sự phần luồng giao thông một cách hợp lí, bố trí các đèn giao thông tại các nút một cách phù hợp, xây dựng, mở rộng làn đường để giảm thiểu tắc nghẽn giao thông; Do các phương tiện vận chuyển các vật liệu xây dựng làm rơi vãi gây ra bụi. Do đó cần phải quy định những giải pháp che chắn, đậy kín thùng xe. Cần phun rửa xe một cách kĩ càng khi xe đi vào cửa ngõ thành phố.Về điều này cần phải làm một cách nghiêm túc và Thành phố cần có cơ chế giám sát chặt chẽ, xử lý hành chính, phạt tiền đối với những vi phạm trên, tránh tình trạng như hiện nay chỉ làm cho có lệ, gây thất thoát lãng phí, không hiệu quả; Để giảm bụi trên các tuyến đường thì cần tăng cường hệ thống xe rửa đường, xe hút bụi; Tại những nơi nồng độ bụi vượt quá tiêu chuẩn cho phép nhiều lần thì cần phải tiến hành đo đạc một cách chính xác chất lượng không khí tại đó, từ đó đưa ra các phương án khắc phục; Vận động, tạo điều kiện để di rời các nhà máy, xí nghiệp ra vùng ngoại thành để giảm lượng khói xả từ các nhà máy; Tập trung phát triển những phương tiện giao thông công cộng như xe bus, tàu điện ngầm, để giảm bớt số lượng xe lưu thông trên đường; Tuyên truyền dưới nhiều hình thức và với nội dung đơn giản, dễ hiểu, dễ tiếp thu để dễ nhận được sự quan tâm và ủng hộ của người dân, giáo dục ý thức cho người dân bảo vệ, giữ gìn sự trong lành cho bầu không khí.Giải pháp này đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc vận động cộng đồng trong mục tiêu giữ gìn chất lượng cho bầu không khí. KẾT LUẬN Vấn đề môi trường hiện nay không còn là vấn đề của riêng một khu vực nào, một quốc gia nào hay một Châu lục nào mà nó đã trở thành vấn đề chung của toàn thế giới, trở thành vấn đề mang tính thời sự toàn cầu. Trong đề tài về ô nhiễm không khí này, với những thực trạng trên mà ta đã có thể thấy, ô nhiễm bụi có những tác động mạnh mẽ, ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng sức khỏe cũng như cuộc sống bình thường của người dân nội thành Hà Nội nói riêng và ở các thành phố khác nói chung. Gây ra những khoản chi phí rất lớn cho người dân, đồng thời gây ra những thiệt hại không nhỏ đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước, làm suy giảm nghiêm trọng chất lượng sức khỏe của con người. Vì thế chúng ta phải tìm cách lượng giá một cách chính xác những thiệt hại do nó gây ra để đề ra những biện pháp khắc phục phù hợp, xử lý kịp thời. Góp phần làm hài hòa giữa hai yếu tố là phát triển kinh tế và bảo vệ chất lượng môi trường sốngtheo mô hình XANH -SẠCH- ĐẸP. O NHIEM MOI TRUONG NUOC Những hậu quả ô nhiễm môi trường biển do tràn dầu Thả dây phao vây dầu để chống tràn dầu. (Ảnh: Thế Vinh/TTXVN) Vùng biển Việt Nam là loại biển mở nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, là một trong những trục hàng hải có lưu lượng tàu bè qua lại rất lớn, trong đó 70% là tàu chở dầu. Tuy chưa xếp vào biển có mức độ ô nhiễm nghiêm trọng, nhưng cũng được cảnh báo là có nguy cơ ô nhiễm cao trong tương lai, vì công nghiệp đang phát triển mạnh ở các vùng duyên hải, cộng thêm hoạt động thăm dò, khai thác, vận chuyển dầu khí trong khu vực ngày càng gia tăng, trong khi nơi đây lại là khu vực thường xuyên xảy ra những thiên tai nguy hiểm trên biển. Theo đánh giá của Viện Khoa học và Tài nguyên Môi trường biển-Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam: Từ năm 1989 đến nay, vùng biển Việt Nam có khoảng 100 vụ tràn dầu do tai nạn tàu, các vụ tai nạn này đều đổ ra biển từ vài chục đến hàng trăm tấn dầu. Những vụ tràn dầu thường xảy ra vào tháng 3 và tháng 4 hàng năm ở Miền Trung; từ tháng 5 đến tháng 6 ở Miền Bắc. Thống kê cho thấy, giai đoạn từ năm 1992-2008, lượng dầu tràn trên biển Việt Nam xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Cụ thể như những vụ tràn dầu với lượng từ 7-700 tấn thường tập trung chủ yếu do tàu mắc cạn. Còn các vụ tràn dầu với số lượng lớn hơn 700 tấn chủ yếu là do quá trình vận chuyển dầu và va chạm tàu trên biển. Sự cố tràn dầu gây ô nhiễm môi trường biển, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hệ sinh thái. Đặc biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển, vùng triều bãi cát, đầm phá và các rạn san hô. Ô nhiễm dầu làm giảm khả năng sức chống đỡ, tính linh hoạt và khả năng khôi phục của các hệ sinh thái. Hàm lượng dầu trong nước tăng cao, các màng dầu làm giảm khả năng trao đổi ôxy giữa không khí và nước, làm giảm oxy trong nước, làm cán cân điều hòa oxy trong hệ sinh thái bị đảo lộn. Ngoài ra, dầu tràn chứa độc tố làm tổn thương hệ sinh thái, có thể gây suy vong hệ sinh thái. Bởi dầu chứa nhiều thành phần khác nhau, làm biến đổi, phá hủy cấu trúc tế bào sinh vật, có khi gây chết cả quần thể. Dầu thấm vào cát, bùn ở ven biển có thể ảnh hưởng trong một thời gian rất dài. Đã có nhiều trường hợp các loài sinh vật chết hàng loạt do tác động của sự cố tràn dầu. Điều đáng báo động nữa là dầu lan trên biển và dạt vào bờ trong thời gian dài không được thu gom sẽ làm suy giảm lượng cá thể sinh vật, gây thiệt hại cho ngành khai thác và nuôi trồng thủy, hải sản. Dầu gây ô nhiễm môi trường nước làm cá chết hàng loạt do thiếu ôxy hòa tan. Dầu bám vào đất, kè đá, các bờ đảo làm mất mỹ quan, gây mùi khó chịu đẫn đến doanh thu của ngành du lịch cũng bị thiệt hại nặng nề. Nạn tràn dầu còn làm ảnh hưởng đến hoạt động của các cảng cá, cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu biển. Do dầu trôi nổi làm hỏng máy móc, thiết bị khai thác tài nguyên và vận chuyển đường thủy. Qua khảo sát tại cảng cá Lạch Bạng, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, nơi thường xuyên là chỗ neo đậu của hàng nghìn tàu cá từ nhiều vùng, miền khác nhau. Tình trạng ô nhiễm môi trường nước ở đây do cặn dầu của những con tàu “vô tư” xả ra đen đặc một vùng rộng lớn.  Nếu như 10 năm về trước vùng cửa biển này là nơi có hệ sinh thái rừng ngập mặn rất phong phú, thì bây giờ hầu như toàn bộ diện tích rừng ngập mặn do bị nhiễm dầu đang chết dần chết mòn, dẫn đến động, thực vật nước lợ hầu như tuyệt chủng. Nơi đây cũng liên tục xảy ra sự cố ô nhiễm dầu làm hàng trăm ha nuôi trồng thủy sản bị mất trắng, nên nhiều hộ buộc phải bỏ nghề. Do đó, sự cố môi trường tràn dầu có thể xem là một trong những dạng sự cố gây ra tổn thất kinh tế lớn nhất, trong các loại sự cố môi trường do con người gây ra. Hiện việc xác định vị trí dầu tràn và khắc phục sự cố này ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, cả về cơ sở pháp luật và các trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật chuyên dụng để khắc phục ô nhiễm tràn dầu./. Văn Hào (TTXVN) www.vietnamplus.vn