Mùa xuân năm 2005, sau khi dành một năm học ởHà Nội đểtiến hành nghiên cứu vềthế
hệnghệsĩtrẻtuổi nhất của Hà Nội, tôi trình bày một bài phát biểu vềtrình diễn 
[performance] và video art cho các học giảtại Viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệthuật Việt 
Nam. Mặc dù tôi đã hết sức rõ ràng vềviệc những gì tôi đang chia sẻvới người nghe là 
“nguyên liệu thô” và các quan sát bước đầu chứkhông phải sựdiễn giải, sau khi xem 
những bức ảnh chụp nhiều sựkiện nghệthuật và happening diễn ra trong năm, nhiều học 
giả đã đứng lên bảo với tôi rằng tưliệu nghiên cứu của tôi không thể được gọi là “nghệ
thuật”, và hơn nữa các nghệsĩkia không phải là “người Việt Nam”. Khi tôi đềnghịhọ
triển khai các bình luận của mình, họnói với tôi rằng trình diễn và sắp đặt không có tính 
truyền thống và ngoài ra còn rất xấu, các nghệsĩtạo ra chúng chỉsao chép từphương Tây 
và do vậy không thể được coi là “những nghệsĩViệt Nam đích thực”. Tôi không mấy 
ngạc nhiên trước phản ứng của họ. Ngược lại, tôi đã chờsẵn những lời bình luận như
vậy, vì chúng xác nhận nhiều giảthuyết của tôi vềcác khác biệt giữa ý kiến của các nhà 
phê bình nghệthuật Việt Nam và ý kiến của những người bên ngoài, trong đó có tôi
Các bình luận ấy cũng nêu ra vấn đềkhái niệm mang tính tương đối vềthịhiếu và giá trị
nghệthuật. Chúng ta không thểgiả định rằng cái người này coi là “nghệthuật” trong mộ
bối cảnh lại vẫn nhất thiết được coi là “nghệthuật” trong một bối cảnh kháTuy nhiên, 
thay vì tiến hành bàn luận vềchủ đềnghệthuật Việt Nam “đích thực” là gì, ở đây tôi 
muốn xem xét các câu hỏi: ai buộc phải định nghĩa nghệthuật Việt Nam là gì và làm th
nào mà các nghệsĩlại tiến hành định nghĩa nghệthuật nhân danh Việt
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 15 trang
15 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1947 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phản - Nghệ thuật của Việt Nam và các nghệ sĩ phản -Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NORA A. TAYLOR 
Phản-nghệ thuật của Việt Nam và các nghệ sĩ phản-Việt Nam: văn hóa trình diễn 
thể nghiệm tại các không gian triển lãm phá cách của Hà Nội 
Cao Việt Dũng dịch 
Mùa xuân năm 2005, sau khi dành một năm học ở Hà Nội để tiến hành nghiên cứu về thế 
hệ nghệ sĩ trẻ tuổi nhất của Hà Nội, tôi trình bày một bài phát biểu về trình diễn 
[performance] và video art cho các học giả tại Viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật Việt 
Nam. Mặc dù tôi đã hết sức rõ ràng về việc những gì tôi đang chia sẻ với người nghe là 
“nguyên liệu thô” và các quan sát bước đầu chứ không phải sự diễn giải, sau khi xem 
những bức ảnh chụp nhiều sự kiện nghệ thuật và happening diễn ra trong năm, nhiều học 
giả đã đứng lên bảo với tôi rằng tư liệu nghiên cứu của tôi không thể được gọi là “nghệ 
thuật”, và hơn nữa các nghệ sĩ kia không phải là “người Việt Nam”. Khi tôi đề nghị họ 
triển khai các bình luận của mình, họ nói với tôi rằng trình diễn và sắp đặt không có tính 
truyền thống và ngoài ra còn rất xấu, các nghệ sĩ tạo ra chúng chỉ sao chép từ phương Tây 
và do vậy không thể được coi là “những nghệ sĩ Việt Nam đích thực”. Tôi không mấy 
ngạc nhiên trước phản ứng của họ. Ngược lại, tôi đã chờ sẵn những lời bình luận như 
vậy, vì chúng xác nhận nhiều giả thuyết của tôi về các khác biệt giữa ý kiến của các nhà 
phê bình nghệ thuật Việt Nam và ý kiến của những người bên ngoài, trong đó có tôi1. 
Các bình luận ấy cũng nêu ra vấn đề khái niệm mang tính tương đối về thị hiếu và giá trị 
nghệ thuật. Chúng ta không thể giả định rằng cái người này coi là “nghệ thuật” trong mộ
bối cảnh lại vẫn nhất thiết được coi là “nghệ thuật” trong một bối cảnh khác
t 
ế 
m. 
2. Tuy nhiên, 
thay vì tiến hành bàn luận về chủ đề nghệ thuật Việt Nam “đích thực” là gì, ở đây tôi 
muốn xem xét các câu hỏi: ai buộc phải định nghĩa nghệ thuật Việt Nam là gì và làm th
nào mà các nghệ sĩ lại tiến hành định nghĩa nghệ thuật nhân danh Việt Na
Một phần nghiên cứu của tôi là nhằm để xem xét mối quan hệ của các nghệ sĩ với chính 
quyền và chừng mực của việc nghệ sĩ sử dụng hình ảnh và căn cước của chính mình 
trong tiến trình phát triển một cộng đồng nghệ thuật. Nói cách khác, tôi quan tâm đến vấn 
đề liệu các nghệ sĩ có trách nhiệm định nghĩa nghệ thuật Việt Nam là gì hay không, và 
mức độ mà họ cho phép các lực lượng khác định ra địa vị cho họ. Trong một xã hội nơi 
chính phủ vẫn thực thi sự kiểm soát với nhiều khía cạnh cuộc sống cá nhân, làm thế nào 
mà các nghệ sĩ tiến hành được những cuộc đấu tranh nhằm tự định vị mình? Liệu có phải 
bất kỳ nghệ sĩ nào vi phạm định nghĩa về nghệ thuật của chính phủ cũng đều tự động bị 
coi là “thể nghiệm” và “bên lề”? Liệu có phải mọi nghệ thuật được tạo ra bên ngoài dòng 
chính đều nhất thiết là “thể nghiệm”? Trong bài báo này, tôi sẽ lập luận để chỉ ra rằng 
một số nghệ sĩ Việt Nam không chỉ đang cố gắng sáng tạo một dạng “nghệ thuật phản-
dòng chính của Việt Nam” (không nhất thiết là nghệ thuật phản-Việt Nam), mà họ còn 
đang cố gắng thử nghiệm với các không gian mới cho nghệ thuật, và địa điểm cho trưng 
bày nghệ thuật đã trở nên cốt yếu ngang bằng với hình thức, ở trong định nghĩa về nghệ 
thuật thể nghiệm. Nghệ thuật trình diễn dễ dàng trở thành sự thể nghiệm vì nó có thể diễn 
ra ở bất cứ đâu; trong chuyến lưu trú Hà Nội gần đây, tôi đã nhận ra rằng các nghệ sĩ có 
tác phẩm được nhiều người coi là “thể nghiệm” hay “bên lề” đối với các xu hướng của 
dòng chính cũng chọn cách trưng bày tại các nơi chốn “bên lề”, nghĩa là các địa điểm 
nằm bên ngoài những gallery và bảo tàng thông thường. Thay vì hướng tới thay đổi hệ 
thống từ bên trong, trưng bày các tác phẩm gây tranh cãi cùng với những đồng nghiệp có 
quy chuẩn cao hơn của mình, các nghệ sĩ này lại trưng bày ở khu vực ngoại vi của thế 
giới nghệ thuật đã được biết tới3. Kết quả là các tác phẩm đó vừa làm chệch hướng sự 
chú ý vừa mời gọi sự chú ý. 
Có thể tìm được một trường hợp nổi bật trong tác phẩm trình diễn đầu tiên thuộc dạng 
này được ghi lại. Năm 1995, Đinh Anh Quân, một nghệ sĩ trẻ, tiến hành một trình diễn tại 
Văn Miếu, Hà Nội. Anh treo dây thừng lên nhiều cái cây và sơn màu đỏ và trắng lên 
chúng theo những đường đậm nét. Rồi chính anh cũng dùng dây tự trói mình lại trên mặt 
đất và chờ “tới khi cảnh sát đến”, theo như anh nói4. Anh cho biết mất ba ngày chính 
quyền mới thả anh ra. Sự kiện đã tạo ra một sự khuấy động trong giới nghệ thuật Hà Nội 
ngày ấy, bởi cho tới khi đó, chưa nghệ sĩ nào dám tiến hành một cuộc biểu diễn trước 
đông người như vậy, cũng chưa nghệ sĩ nào thử làm cái vẫn được biết đến rộng rãi ở 
phương Tây dưới cái tên nghệ thuật trình diễn5. Kể từ tác phẩm trình diễn của Đinh Anh 
Quân, một “hoạt động nghệ thuật phá cách” đã phát triển ở Hà Nội, được tạo nên từ các 
nghệ sĩ kéo nghệ thuật khỏi các gallery để đưa tới những không gian mang tính cộng 
đồng. Mặc dù một số nhà phê bình coi sự trỗi dậy của nghệ thuật ý niệm và trình diễn tại 
Hà Nội là một sự tiến triển không thể tránh khỏi đi kèm với các hình thức “tiến bộ” khác 
của Việt Nam như phát triển kinh tế và phát triển xã hội6, trong bài báo này tôi sẽ lập 
luận rằng xét đến cùng hoạt động nghệ thuật phá cách Hà Nội cũng chỉ là một nỗ lực 
thành công vừa phải nhằm thoát khỏi sự thiết định; một sự khiêu khích, một thách thức 
do các nghệ sĩ tạo ra nhằm thử phản ứng của giới chức về hiểu biết và tri nhận nghệ 
thuật. Các nghệ sĩ trẻ Hà Nội đang cố gắng tạo bứt phá mới trên sân khấu nghệ thuật đại 
chúng, và quả thực trình diễn mang lại cho họ một công cụ thu hút sự chú ý đối với người 
xem. Nhưng ta có thể tự hỏi điều này thực sự có hiệu quả như thế nào. Người ta có thể so 
sánh những nghệ sĩ này với các nghệ sĩ của những phong trào Dada của Thế chiến thứ 
nhất và Thế chiến thứ hai, cũng như các phong trào “phản-nghệ thuật” tại châu Âu thời 
chiến tranh, nhưng tại Việt Nam phong trào chống lại “nghệ thuật” cũng chính là một 
phong trào chống lại cái vẫn được chấp nhận một cách rộng rãi dưới cái tên “Việt Nam”. 
Lịch sử nghệ thuật đương đại Việt Nam 
Một cách rộng rãi, nghệ thuật đương đại Việt Nam có thể định nghĩa là nghệ thuật được 
tạo ra kể từ những thập niên cuối của thế kỷ hai mươi. Nó rất thường xuyên được gắn liền 
với cao trào bán tranh trong những năm 1990 và việc nảy sinh rất nhiều gallery thương 
mại do tư nhân sở hữu ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, như một số nhà phê 
bình Việt Nam đã nêu nhận xét, cũng như những nơi khác trong thế giới nghệ thuật quốc 
tế, cần phải phân biệt giữa nghệ thuật hiện đại, nghệ thuật đương đại, nghệ thuật tiền 
phong và nghệ thuật thể nghiệm7. Nghệ thuật đương đại ở Việt Nam đã không còn chỉ 
đơn giản là nghệ thuật được tạo ra ở thời hiện tại. Đó là tác phẩm của một thế hệ nghệ sĩ 
hậu chiến, những người nắm lấy một ngôn ngữ nghệ thuật phổ quát, thứ ngôn ngữ đã siêu 
vượt những phong cách, chủ đề và phương tiện truyền thông truyền thống của địa 
phương. Nó bao gồm nhiều phong cách, kể cả tiền phong, thể nghiệm và hiện đại. 
Nghệ thuật hiện đại xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ hai mươi, khi các nghệ sĩ Việt Nam học 
kỹ thuật vẽ tranh sơn dầu của phương Tây thông qua các thầy giáo người Pháp tại trường 
Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương thành lập năm 19258. Tư liệu các nhà phê bình và sử 
gia nghệ thuật Việt Nam viết về trường phái nghệ thuật thuộc địa miêu tả nó như hạt 
mầm để từ đó nghệ thuật quốc gia được lớn mạnh, là nơi những nghệ sĩ tăng tiến niềm tự 
hào dân tộc của mình và học cách sử dụng nghệ thuật làm một công cụ cho nền độc lập 
giành lại từ tay người Pháp9. Các trường phái hội họa mà nghệ sĩ Việt Nam thu nhận sau 
này được các sử gia và nghệ sĩ nước ngoài cũng như trong nước miêu tả hoặc như một sự 
hội tụ của hai truyền thống, châu Âu và châu Á, hoặc như một sự phối hợp truyền thốn
và hiện 10
g 
đại . 
Sau độc lập, một trường nghệ thuật đặt tại căn cứ địa cách mạng của Việt Minh ở vùng 
rừng núi Việt Bắc phía Bắc của Hà Nội đã đào tạo được hàng chục nghệ sĩ đi cùng quân 
đội và phác họa những người lính chiến đấu. Được biết với cái tên Khóa Kháng Chiến, 
những nghệ sĩ ấy đã tạo ra các ký họa và bức tranh đóng góp cho cái nhìn yêu nước của 
Việt Nam, trong đó có các phong cảnh miền Bắc đất nước, những lá cờ chiến thắng sau 
trận Điện Biên Phủ, những người phụ nữ mang vũ khí, những người lính hành quân trong 
rừng, và nhiều cảnh tương tự. Việc sáng tạo ra các hình ảnh ấy thường mang tính bột phát 
và tức cảnh, nhưng chúng lại có một hiệu ứng lâu dài. Những bức tranh, panô cổ động, 
tem và tiền đã vẽ nên những người lính, phong cảnh miền Bắc Việt Nam, và Hà Nội, trở 
thành một phần trong văn hóa thị giác gắn liền với chủ nghĩa dân tộc. 
Đến giữa những năm 1950, trong lúc các nhà văn đang đấu tranh với chính sách của 
Đảng Cộng sản nhằm đòi quyền tự do sáng tạo, nhiều nghệ sĩ bắt đầu rút khỏi những tổ 
chức nghệ thuật toàn quốc nhằm theo đuổi cách nhìn riêng của mình về những gì tạo nên 
hội họa hiện đại Việt Nam11. Nhưng những nghệ sĩ này chỉ xuất hiện trên sâu khấu nghệ 
thuật rộng rãi sau khi chính phủ tiến hành chính sách Đổi Mới của mình vào cuối những 
năm 1980. Bằng không họ tự nhốt mình ở lại nhà. Thêm nữa, trong các thập niên chiến 
tranh, các nghệ sĩ ở miền Bắc không dồi dào dụng cụ nghệ thuật và thường chỉ có thể 
trông chờ vào trợ giúp của chính phủ để sáng tạo nghệ thuật. Để đổi lại, chính phủ ấn 
định loại nghệ thuật mà quần chúng đông đảo có thể xem, chỉ cho phép các triển lãm 
nghệ thuật quốc gia đã được thẩm định và nói cách khác do các quan chức chính phủ 
kiểm soát. Ở miền Nam, các nghệ sĩ được tự do hơn trong trưng bày tác phẩm của mình 
tại các gallery tư nhân và bán tranh cho khách hàng nước ngoài. Họ có khả năng kiếm 
được thu nhập từ bán tranh và do vậy được hưởng một tự do về kinh tế và chính trị lớn 
hơn các đồng nghiệp miền Bắc. Thế nhưng, nghệ sĩ miền Nam chủ yếu cũng thể hiện các 
chủ đề “yêu nước”, theo cái nghĩa họ gần như luôn luôn nỗ lực nắm bắt các phẩm chất 
cốt yếu của Việt Nam thông qua những hình ảnh phong cảnh địa phương, phụ nữ, hoặc 
các vật dụng trong nhà truyền thống. Một số nghệ sĩ thử nghiệm nghệ thuật trừu tượng, 
nhưng phần lớn trong số đó chú tâm phục vụ nhu cầu về những bức họa “đẹp” về Việt 
Nam12. Mặc dù có hai cách nhìn về Việt Nam cạnh tranh với nhau nảy sinh vào quãng 
thời gian chia cách hai miền Bắc và Nam đó, một cách hình dung chung về định nghĩa 
nghệ thuật Việt Nam như là nghệ thuật tái hiện phong cảnh và con người Việt Nam là rất 
hiển nhiên trên các bức tranh được vẽ vào thời ấy. 
Có lẽ ý tưởng theo đó “nghệ thuật Việt Nam” có thể định nghĩa bằng nội dung của nghệ 
thuật đã nảy sinh ở thời kỳ thuộc địa, khi các nghệ sĩ học cách tái hiện Việt Nam trong 
khuôn khổ các phong cảnh và chân dung người dân tộc thiểu số Việt Nam. Cách làm này 
tiếp tục cả ở miền Bắc và miền Nam, khi mà cả khuynh hướng hiện thực và khuynh 
hướng lý tưởng hóa về Việt Nam đều được tiếp thị cho khách du lịch hoặc các cơ quan 
của chính phủ. Trong những năm 1990, tranh Việt Nam được trưng bày tại các gallery 
thương mại vừa mới được phép mở cửa như một phần trong quá trình nới lỏng các quy 
định chặt chẽ về hoạt động của kinh doanh tư nhân thời Đổi Mới. Những tranh vẽ các 
ngôi đền địa phương, những khung cảnh nông thôn, và chân dung người được vẽ màu sặc 
sỡ nhằm phô bày vẻ đẹp đất nước, nhưng các nghệ sĩ không được thúc đẩy bởi những quy 
định của nhà nước ấn định nội dung của nghệ thuật hay bởi một ham muốn nâng cao 
những hình ảnh yêu nước, mà thay vì đó là một ham muốn chống lại những hình ảnh do 
chính phủ ấn định về đất nước và tạo ra những hình ảnh nhằm vinh danh các địa điểm du 
lịch của đất nước, các truyền thống của địa phương, cũng như di sản cổ xưa - nói cách 
khác, quá khứ tiền Cộng sản và tiền thuộc địa của Việt Nam13. Đầu những năm 1990, khi 
được yêu cầu giải thích ý nghĩa tác phẩm của mình, các nghệ sĩ thường diễn đạt những 
cảm giác cá nhân của riêng mình về đất nước và những cái nhìn riêng về xung quanh thay 
vì trích dẫn những câu khẩu hiệu hoặc quy định chính thức về nghệ thuật14. Thế nhưng 
không phải phải đến mãi rất gần đây các hình ảnh và vấn đề chủ đề trong gợi lên hay tái 
hiện “Việt Nam” mới thay đổi. Sự thay đổi này bắt nguồn chủ yếu từ sự tăng lên trong độ 
đa dạng của phát ngôn cá nhân và những biến chuyển dần dần đậm nét hơn của các nghệ 
sĩ trong việc sử dụng cơ thể và ý tưởng cá nhân làm nguyên liệu cho những tuyên bố về 
đất nước. Các chủ đề thường xuyên được hiểu như là để tái hiện “những cảm giác” của 
người nghệ sĩ đã trở nên thông dụng hơn nhiều. 
Nghệ thuật trình diễn ở Việt Nam 
Cú đột phá ban đầu của Đinh Anh Quân vào thế giới nghệ thuật trình diễn đã khuyến 
khích các nghệ sĩ khác làm theo. Hành động can đảm của anh đã nói với các nghệ sĩ rằng 
chính quyền có thể sẽ không nhất thiết “trừng phạt” họ, và công chúng có thể sẽ quan 
tâm, ngay cả khi chỉ thuần túy vì tò mò. Năm 1995, không lâu sau tác phẩm trình diễn 
của Đinh Anh Quân, nghệ sĩ Trương Tân đã nhảy tại một không gian gallery trong tiếng 
nhạc ngẫu hứng của một người bạn. Nổi tiếng Hơn, Đào Anh Khánh, trước đây là công 
an và là một họa sĩ nổi tiếng, đóng khố đi vòng quanh Hồ Hoàn Kiếm và vung vẩy tay 
giống như một người điên nhân danh nghệ thuật. Anh nhanh chóng bị công an bắt. 
Trương Tân không thu hút được nhiều chú ý, chắc hẳn là vì tác phẩm trình diễn của anh 
diễn ra tại một không gian biệt lập. 
Rõ ràng nghệ thuật trình diễn thời kỳ đầu của Việt Nam được xem là khá cấp tiến và khác 
biệt nhưng lại không được xem là “nghệ thuật” một cách nghiêm túc. Các tạp chí chuyên 
về nghệ thuật ở địa phương không hề nhắc tới những tác phẩm trình diễn của Đinh Anh 
Quân, Đào Anh Khánh hay Trương Tân. Khi các tạp chí như Mỹ Thuật bàn đến trình 
diễn, nghệ thuật này thường được đặt dưới cái nhãn “truyền thông mới” hay “trình diễn-
sắp đặt-video art” và được miêu tả như là một hiện tượng hậu hiện đại, và các nghệ sĩ 
thực hiện nghệ thuật trình diễn-video-sắp đặt được xem như thuộc về một thế hệ mới, thế 
hệ của thế kỷ hai mươi mốt và rất tiền phong. Cũng những bài báo này thường xuyên đặt 
dấu chấm hỏi về phong trào, hỏi rằng liệu các hình thức nghệ thuật ấy có thích hợp với 
Việt Nam, liệu chúng có nên được xem xét một cách nghiêm túc, và liệu công chúng 
thưởng ngoạn nghệ thuật của Hà Nội đã sẵn sàng với chúng hay chưa. Phải mất khoảng 
mười năm các nghệ sĩ mới có thể thoải mái thực hiện các trình diễn như là “trưng bày” 
chứ không phải giống như các động thái bột phát, có vẻ như mang tính chơi đùa. 
Quả thực, cho tới năm 2000, những tác phẩm trình diễn như vậy vẫn là các sự kiện bị cô 
lập hóa, diễn ra một cách bí mật. Chẳng hạn như Trần Lương đã biểu diễn (thường có 
quay phim) nhiều tác phẩm trình diễn ở nông thôn, cách xa thành phố. Một trong các tác 
phẩm ấy diễn ra gần các mỏ than: Anh tự “đắp” cơm lên người mình, dán đầy cơm lên cơ 
thể bằng một thứ đường lỏng, và đứng trên nền màu đen, đặt tên tác phẩm của mình là 
“Người Cơm”. Màu trắng của cơ thể dán đầy cơm của anh tương phản tuyệt đối với đất 
đen, tạo ra một hiệu quả thị giác rất mạnh mẽ. Tác phẩm trình diễn của Trương Tân, cũng 
giống như tác phẩm của Đinh Anh Quân, thuộc vào các tác phẩm đầu tiên chỉ ra rằng 
nghệ thuật có thể được làm nên từ các phương tiện nhỏ bé. Kể từ đó Trần Lương đã đóng 
một vai trò đi đầu trong việc tổ chức các sự kiện trình diễn, đã được lên chương trình kỹ 
lưỡng hơn, được tính toán và có kế hoạch. Càng ngày chúng càng hay diễn ra tại các 
không gian được tổ chức, được ghi hình và được lưu trữ. 
Từ năm 2000, nghệ thuật trình diễn đã có được xung lượng lớn hơn nhiều so với những 
gì các nhà phê bình đầy hoài nghi từng dự đoán vào những năm 1990. Dù cho chúng vẫn 
không được coi là các sự kiện “nghệ thuật” từ phía quan chức văn hóa và công chúng 
rộng rãi, giờ đây các tác phẩm trình diễn đã trở thành những sự kiện thường xuyên và 
nghệ thuật trình diễn đã mở rộng các khả năng làm nghệ thuật cho nghệ sĩ15. Việc trình 
diễn phát triển nhanh chóng đã tạo điều kiện cho hai loại trình diễn nảy sinh. Một loại 
vẫn giữ nguyên tinh thần ban đầu của mình như một sự kiện bí mật, còn loại kia bao gồm 
các chương trình đa phương tiện trên sân khấu của Đào Anh Khánh, người đã phát triển 
các trình diễn của mình từ đóng khố thuở ban đầu tới những vũ điệu được biên đạo cẩn 
thận, kết hợp với nhạc công và sử dụng ánh sáng. Các buổi biểu diễn của Đào Anh Khánh 
được các phương tiện truyền thông đưa tin nhiều hơn phần lớn nghệ thuật trình diễn ở 
Việt Nam và ngả nhiều hơn sang phía biểu diễn [spectacle], cả theo nghĩa từ tiếng Anh 
lẫn nghĩa từ tiếng Pháp, hơn nhiều so với nghệ thuật trình diễn của truyền thống thể 
nghiệm những năm 1960. Từ 2003, mỗi năm anh lại biểu diễn một lần, buổi biểu diễn lấy 
tên là Đáo Xuân, thường tổ chức vào dịp Tết Nguyên Đán. Anh thường thuê những người 
chuyên nghiệp hát, múa, và chơi nhạc cụ trên sân khấu. Năm 2006, anh thuê những người 
Mường đánh cồng trong khi anh hú hét, thể hiện các động tác, khóc, và nhảy cuồng loạn 
trong trang phục màu đen, mặt bôi sơn màu xanh lá cây. Khi được phỏng vấn, anh giải 
thích mình cố gắng giao tiếp với các linh hồn nguyên thủy. Các màn biểu diễn của anh 
gợi ám chỉ tới thiên nhiên, với các màn hình video chiếu những hình ảnh bụi tre, bãi cỏ, 
lửa, mưa, rừng rậm, đều mang các phẩm chất nghi lễ. Anh di chuyển vòng quanh sân 
khấu như thể đang ở trong trạng thái nhập đồng, và công chúng thường bị thôi miên bởi 
các hiệu ứng thị giác choáng ngợp. Khói bốc lên các màn hình, pháo hoa bắn lên, các 
hình ảnh chuyển động ở đằng sau sân khấu trong khi tiếng chiêng trống theo nhịp điệu 
vang lên ở phía trên đầu. 
Đào Anh Khánh thu hút rất đông người tới xem các sự kiện của anh. Tuy nhiên, các nhà 
phê bình lại thường chĩa mùi dùi công kích vào các tác phẩm trình diễn của anh. Như một 
phóng viên ở Hà Nội đã đặt câu hỏi, “Nhưng nó có nghĩa gì?16” Dù cho nghệ thuật này 
có ý nghĩa gì với người xem hay không, Đào Anh Khánh vẫn thành công trong việc gi
được một lượng công chúng trung thành. Có lẽ họ sửng sốt trước các hiệu ứng kỹ thuật 
của trình diễn, có lẽ họ bối rối trước đó, như thể trước một cái gì đó nằm bên ngoài địa 
hạt của cái thông thường. Chưa nói tới nội dung hoặc ý nghĩa trình diễn của anh, việc anh 
thành công trong việc thu hút một lượng người xem đáng kể cũng đã có đủ tầm quan 
trọng rồi. 
ữ 
Các buổi diễn của Đào Anh Khánh được tổ chức bởi chính nghệ sĩ ở nhà của anh, đồng 
thời là studio, tại Gia Lâm, bên kia Hà Nội qua cây cầu Chương Dương. Cũng có lúc anh 
được mời đi biểu diễn ở những nơi khác, như L’Espace, Trung tâm Văn hóa Pháp tại Hà 
Nội, và rất gần đây, được mời sang New York thực hiện một dự án chung với Stephen 
Kaplowitz tại Dance Theatre Workshop. L’Espace và các trung tâm văn hóa quốc tế khác 
ở Việt Nam, như Viện Goethe và Hội đồng Anh [British Council], cung cấp các không 
gian “ngoại giao” nơi nghệ sĩ có thể trưng bày tác phẩm của mình; các phụ trách chương 
trình của Pháp, Anh và Đức lựa chọn những nghệ sĩ địa phương trưng bày tại không gian 
của họ trong tinh thần trao đổi văn hóa. Thường thì họ chọn các tác phẩm khó có thể 
được trưng bày tại các gallery thương mại hoặc những tác phẩm của các nghệ sĩ không 
được trưng bày rộng rãi và do vậy ít được công chúng nói chung biết đến. Các phụ trách 
chương trình này hoạt động như các giám tuyển, lựa chọn tác phẩm vì nội dung hoặc 
thông điệp hàm chứa của chúng. Đôi khi những lựa chọn này bị xem là có yếu tố chính trị 
vì nếu không các nghệ sĩ sẽ không thể có cơ hội được chính phủ cho phép trưng bày. 
Theo cách này, những trung tâm ấy hoạt động như các nhà tài trợ của nghệ thuật gây 
tranh cãi ở mức độ tiềm năng hoặc “không chính thức”. Franz Xavier Augustin, giám đốc 
Viện Goethe từ 2002, coi vai trò của mình như một người cho phép các nghệ sĩ tự thể 
hiện bên ngoài các đường ranh giới do chính phủ của họ kiểm soát. Theo cách nhìn của 
ông, sự “trao đổi” là công bằng.